✨John Crawfurd
: Đối với cầu thủ cricket người Ireland cùng tên, xem John Crawfurd (cricketer)
John Crawfurd FRS (13 tháng 8 năm 1783 - 11 tháng 5 năm 1868) là một bác sĩ người Scotland, nhà quản lý thuộc địa, nhà ngoại giao và đồng thời là tác gia. Ông được biết đến nhiều nhất với các tác phẩm về các ngôn ngữ châu Á, sách History of the Indian Archipelago (Lịch sử Quần đảo Ấn Độ), và vai trò của ông trong việc thành lập Singapore với tư cách là vị Thống đốc (British Resident of Singapore) cuối cùng của Singapore; vị trí này đã được thay thế bởi Thống đốc Các khu định cư Eo biển.
Đầu đời
Ông được sinh ra ở Islay, tại Argyll, Scotland, là con trai của Samuel Crawfurd, một bác sĩ và bà Margaret Campbell; và ông được giáo dục tại trường học ở Bowmore. Ông theo bước chân của cha mình trong nghiên cứu y học và hoàn thành khóa học y khoa tại Đại học Edinburgh năm 1803, ở tuổi 20. nhỏ|Bowmore ở Islay ngày nay. Crawfurd gia nhập Công ty Đông Ấn Anh, với tư cách là bác sĩ phẫu thuật của Công ty, và được đưa đến các tỉnh Tây Bắc của Ấn Độ (nay là Uttar Pradesh), làm việc tại khu vực xung quanh Delhi và Agra từ 1803-1808. Ông phục vụ trong các chiến dịch của Baron Lake.
Ở Đông Nam Á
Crawfurd được gửi tới Penang vào năm 1808, nơi ông đã theo học ngôn ngữ và văn hóa Malay. Cung điện của Quốc vương, Kraton Ngayogogo Hadiningrat, đã bị bao vây và chiếm giữ bởi các lực lượng do người Anh lãnh đạo vào tháng 6 năm 1812. trái|nhỏ| Kraton ở Yogyakarta, một cánh cổng trong một bức ảnh từ đầu thế kỷ 20. Cung điện được tạo thành từ Pendopo được bao quanh bởi một bức tường trắng. Là Thống đốc thường trú, Crawfurd cũng theo đuổi nghiên cứu ngôn ngữ Java và vun đắp mối quan hệ cá nhân với giới quý tộc và văn nhân Java. Ông đã bị ấn tượng bởi âm nhạc Java. nhỏ|Dấu hiệu Java trong năm ngày trong tuần, được khắc bởi William Home Lizars từ Lịch sử Quần đảo Ấn Độ của Crawfurd. Crawfurd đã được phái đi trong các phái bộ ngoại giao đến Bali và Celebes (nay là Sulawesi). Kiến thức của ông về văn hóa địa phương đã hỗ trợ chính phủ của Raffles ở Java. Tuy nhiên, Raffles muốn giới thiệu cải cách ruộng đất ở nơi cư trú Cheribon. Crawfurd, với kinh nghiệm của mình về Ấn Độ và zamindari, là người ủng hộ "hệ thống làng xã" trong việc thu thập hoa lợi. Ông phản đối những nỗ lực của Raffles để giới thiệu việc định cư cá nhân (ryotwari) vào Java.
Ngoại giao
Java được trả lại cho người Hà Lan vào năm 1816 và Crawfurd trở lại Anh vào năm đó, không lâu sau đó trở thành thành viên của Hiệp hội Hoàng gia và chuyển sang viết lách. Thuyền trưởng Dangerfield của quân đội Ấn Độ, một nhà thiên văn học, nhà khảo sát và nhà địa chất khéo léo, kiêm trợ lý; Trung úy Rutherford chỉ huy ba mươi lính Sepoys; nhà tự nhiên học George Finlayson là nhân viên y tế. Vợ của Crawfurd cũng đồng hành cùng Phái bộ. Tàu John Adam, đóng ở Ấn Độ, có trọng tải 380 tấn, được dùng cho sứ mệnh.
Ngày 21 tháng 11 năm 1821, nhiệm vụ được khởi hành với tàu John Adam từ sông Hoogly (bang Tây Bengal, Ấn Độ), mất bảy ngày để lái buồm đi 140 dặm (225 km) từ Calcutta. Crawfurd viết rằng, với sự hỗ trợ của máy hơi nước, tàu có thể được hạ thủy trong hai ngày mà không gặp khó khăn gì; sau đó thêm vào một chú thích: "Tàu hơi nước đầu tiên được sử dụng ở Ấn Độ, được chế tạo khoảng ba năm sau khi đoạn văn này được viết.... ". Ngày 11 tháng 12 năm 1821, sứ đoàn ghé đảo Penang (Prince of Wales's Island), một thuộc địa của đế quốc Anh.
Nhiệm vụ đến Siam
trái|nhỏ| Bản đồ từ sách Đại sứ quán đến Triều đình Xiêm và Cochin-China.
Tàu John Adam đã tiến hành chuyến thăm chính thức đầu tiên tới Xiêm kể từ khi Xiêm hồi sinh sau Chiến tranh Xiêm-Miến Điện 1765-1717. Crawfurd sớm thấy triều đình của Vua Rama II vẫn bị lôi kéo vào hậu quả của Chiến tranh Xiêm - Miến Điện năm 1809-1812. Vào ngày 8 tháng 12 năm 1821, gần Eo biển Papra (Eo biển Pak Prah hiện đại phía bắc huyện Thalang) Crawfurd tìm thấy ngư dân "trong tình trạng mất lòng tin và bất an vĩnh viễn" do tranh chấp lãnh thổ giữa Miến và Xiêm. Ngày 11 tháng 12, sau khi vào Eo biển Malacca và đến đảo Penang, ông tìm thấy các khu định cư Penang và Queda (Vương quốc Kedah hiện đại, thành lập năm 1136, nhưng sau đó là một tiểu bang của Xiêm) trong tình trạng báo động. Quốc vương Ahmad Tajuddin Halim Shah II, tức Rajah Quedah đã trốn khỏi Rajah Ligor (Nakhon Si Thammarat hiện đại) để xin quyền tị nạn tại Đảo Prince of Wales (Penang hiện đại). Yêu sách của Anh đối với hòn đảo này dựa trên việc thanh toán một thỏa thuận bỏ tiền thuê theo luật phong kiến châu Âu, mà Crawfurd sợ rằng người Xiêm sẽ thách thức.
Nhật ký của Crawfurd vào ngày 1 tháng 4 năm 1822, lưu ý rằng về phần Xiêm, đặc biệt quan tâm đến việc mua vũ khí. Câu hỏi được đặt ra liên quan đến vấn đề này trong cuộc họp riêng khẩn cấp với Prah-klang (quan Phật Lăng, tức Rama III tương lai), câu trả lời là "nếu người Xiêm hòa bình với bạn bè và hàng xóm của nước Anh, họ chắc chắn sẽ được phép mua vũ khí và đạn dược tại cảng của chúng tôi, bằng không thì khác.".
Ngày 9 tháng 5 năm 1822, sứ đoàn mà nhà vua mới lên ngôi [
Theo Đại Nam thực lục: Nhâm ngọ, năm Minh Mệnh thứ 3 [1822], sai sứ sang nước Xiêm. Lấy Cai bạ Quảng Ngãi là Nguyễn Kim Truy làm Chánh sứ, Cai cơ Thị trà là Ngô Văn Trung làm Phó sứ (tặng Phật vương [Rama II] 3 cân quế và sa, the, trừu, lụa mộc, lụa trắng, mỗi thứ 100 tấm)... Nguyễn Kim Truy tự nước Xiêm về. Vua hỏi việc nước Xiêm. Truy đáp: "Nước Xiêm gần nay mất mùa, gạo đắt dân đói. Phật vương không lấy thế làm lo, chỉ thờ đạo Phật thôi". Vua mỉm cười. Chuyến thăm này bị cô lập và nhiệm vụ đã sụp đổ. Một sứ giả Việt Nam đã đến Băng Cốc không lâu trước đó theo lệnh vị vua mới lên ngôi Minh Mạng. Crawfurd rời Xiêm đi Cochinchina. Crawfurd đi đến Sài Gòn, Đà Nẵng nhưng Minh Mạng từ chối gặp ông. Nhiệm vụ ở Cochin China
Các thông tin tiền trạm
Cách chuyến đi của Crawfurd khoảng 100 năm, vào năm 1720, một thuyền trưởng người Scotland khác, cũng làm việc cho Công ty Đông Ấn Anh, tên là Alexander Hamilton đã có chuyến hải trình tương tự từ Ấn Độ đến Nhật Bản. Tuy nhiên, Hamilton chỉ ghé Hà Tiên và đi dọc bờ biển Đàng Trong và Đàng Ngoài khi đến Trung Quốc. Crawfurd có tham khảo qua ghi chép của Hamilton trong quyển sách xuất bản năm 1727: A New Account of the East Indies (Bản tường thuật mới về vùng Đông Ấn).
Tàu John Adam rời Tây Bengal, đến Penang và Singapore trước khi sang Xiêm và Cochin China [Việt Nam]. Trước khi đến Việt Nam, Crawfurd thu thập được một số thông tin về nước này.
Ngày 29 tháng 12 năm 1821, tại đảo Penang, Crawfurd có cuộc trò chuyện với một ông lão người Hoa (Phúc Kiến) tên Che-wan, ông lão cho biết: "[Triều đình Xiêm] ít có lòng thương người, [thua cả triều đình Việt Nam]". Ngày 4 tháng 1 năm 1822, rời Penang, sứ đoàn có thêm 3 người thông dịch, trong đó một người Hoa rành tiếng Anh và Mã Lai sẽ được dùng cho việc thông dịch ở Việt Nam vì Crawfurd không thể tìm được ai biết tiếng Việt.
Ngày 2 tháng 2 năm 1822, một junk (thuyền buôn lớn) Cochin China đến Singapore, người chủ tàu cho Crawfurd biết rằng người Pháp (đa số là giáo sĩ) đang có mặt khá nhiều ở khắp các miền của Cochin China. Một tàu chiến nhỏ của Pháp đến cảng Hàn, hay Turan [
Đà Nẵng] năm 1819 và đòi chiếm nó. Vua [ Gia Long] bác bỏ và đuổi nó đi. Nhiều tàu buôn Pháp đã đến Cochin China sau hòa bình [ 1802]; hai tàu buôn Hoa Kỳ cũng đã chở nhiều hàng hóa ở cảng Saigon hay Longnai [ Đồng Nai?] theo cách gọi của người Hoa. Ngày 10 tháng 2, Finlayson và Crawfurd ghé thăm các thuyền buôn Việt Nam, Chin-chew hoặc Fo-kien, và Xiêm đang ghé Singapore. Thuyền Việt Nam có tải trọng 4.000 tạ Trung Quốc hay 240 tấn, thủy thủ đoàn có hơn 30 người. Chi phí đóng thuyền ở Xiêm và Việt Nam rẻ hơn ở Quảng Đông và Phúc Kiến. Thuyền Xiêm dùng gỗ tếch, thuyền Trung Quốc dùng gỗ linh sam, gỗ tùng. Thuyền trưởng tàu Việt Nam cho Crawfurd biết, vào lúc gió mùa Đông Bắc mạnh, ông ta mất 3,5 ngày để dong buồm từ Pulo Kondor [ Côn Đảo] tới Pulo Timun, tức khoảng cách 430 dặm. Tại Việt Nam, Minh Mạng lên nối ngôi Gia Long từ đầu năm 1820 và thực hiện nhiều chính sách khắt khe hơn cha mình. Minh Mạng cũng không có thiện cảm với đạo Công giáo và người phương Tây nói chung.
Quá cảnh Cà Mau, Hòn Khoai và Phú Quốc
Trên hành trình từ Singapore đến Xiêm, Crawfurd đã đi qua khu vực mũi Cà Mau, quần đảo Hòn Khoai, và đảo Phú Quốc để vào vịnh Thái Lan.
Ngày 7 tháng 3 năm 1822, tàu của Crawfurd hướng đến Cape of Kamboja [
mũi Cà Mau]. Ngày 10, khoảng 6 giờ sáng, họ đi ngang đảo Pulo Ubi [ Hòn Khoai]; người Việt gọi là Kon-gui [Cồn Gui?], người Thái gọi là Kon-Man. Ngày 11 tháng 3, Crawfurd rồi Pulo Ubi để đi Băng Cốc, ông đi ngang đảo False Pulo Ubi [
Hòn Chuối] Ngày 21, sau khi đi qua False Pulo Ubi [
Hòn Chuối], Crawfurd đi ngang Pulo Ubi [ Hòn Khoai], hướng về phía Pulo Condore [ Côn Đảo]. Thăm Côn Đảo
Ngày 22, sau khi đi ngang hai đảo tí hon, The Brothers [
hòn Trứng Lớn - Nhỏ], tàu của Crawfurd tới đảo Pulo Condore. Ông cho rằng người dân Cochin China dễ gần và đáng tin tưởng hơn người Xiêm. Khi lên bờ, ông đã thấy tàn tích nhà máy cũ của người Anh xây trước đây trên đảo: "cách đó khoảng 118 năm, tức năm 1702-1704, người Anh đã thiết lập đồn lính và nhà máy trên đảo này. Trước đó họ đã bị đuổi khỏi Chusan (Trung Quốc), Thống đốc Ketchpoole khuyến khích người Celebes [ người Makassar] làm lính thuê trong 3 năm. Ông ta không trả đúng tiền lương và những người lính đã nổi loạn, thảm sát người Anh trên đảo. Những người còn sống sót chạy sang Johor." Ngay khi đặt chân lên đảo, người dân chào đón đoàn của Crawfurd một cách tự tin và thẳng thắn mặc dù có lẽ họ hiếm khi gặp người châu Âu. Một nhóm thanh niên đang chơi bóng đá trên bãi biển vội ngừng cuộc vui, dẫn đoàn của Crawfurd đi gặp thôn trưởng. Vị thôn trưởng đáng kính này khoảng 45 tuổi, mời đoàn người châu Âu đi tham quan. Một số người dân và quan chức lên thăm tàu, họ mang theo hàng hóa để trao đổi với hàng hóa Châu Âu. Theo Crawfurd, người dân ở đây [Côn Đảo] thanh bần và đáng mến hơn so với người [Xiêm] tham lam, giảo trá, bất kể tầng lớp mà ông đã gặp ở Xiêm. Vị quan tốt bụng, đứng đầu trên đảo, tên là Cham-Kwan-Luong., vị Thống đốc Lower Cochin China [
Nam Kỳ], thì đang ở Saigun. Crawfurd nóng lòng được gặp vị quan ở Saigun đó, bởi ngoại trừ Kachao [ Kẻ Chợ] ở Tonquin [ Đông Kinh], thì [Sài Gòn] là nơi giàu có nhất vương quốc này. Tàu của Crawfurd rời Pulo Condore đi Cape St. James [ Vũng Tàu]. Quan Tổng trấn nghe đồn là một thái giám, nhưng không công khai, ông ta không có râu; tuy nhiên, người Việt dù có thích để râu thì không quá rậm rạp. Tiếng nói của quan Tổng trấn nhỏ nhẹ và khá giống giọng nữ nhưng không dễ nhận ra. Lúc này, vị Tổng trấn đã 58 tuổi, vẻ mặt sôi nổi và thông minh, ông ta hơi thấp bé và gầy, nhưng hoạt bát và không thấy cơ thể bị khuyết tật gì. Có điều, ông ta đã rụng khá nhiều răng. Ông ấy cũng ăn mặc giản dị với bộ đồ lụa và chiếc khăn quấn đầu màu đen. Crawfurd tặng quà cho Tổng trấn, ông ấy từ chối, rất khác biệt với các vị quan tham lam ở Xiêm. Một lần nữa, vị Tổng trấn lại đòi hỏi phải có thư của vua Anh gửi cho vua Việt, bởi vì chỉ có vua mới gửi thư cho vua. Nếu chỉ có thư của Toàn quyền Ấn Độ [một vị quan] thì ông ấy chỉ giúp chuyển nó cho vị quan Tượng binh [Mandarin of Elephants], người kiêm nhiệm Ngoại giao ở Huế. Quan Tổng trấn thậm chí còn không mở thư của Toàn quyền Hastings ra xem mà chỉ nhìn sơ qua phong bì rồi trả lại Crawfurd. Ngoài ra, vị Tổng trấn còn mời đoàn Crawfurd xem một buổi biểu diễn đấu nhau giữa voi và cọp. Crawfurd được tặng trâu, heo, gà vịt, heo quay.. đổi lại, Crawfurd bí mật tặng quan Tổng trấn thuốc súng.
Thành phố Saigun
Sau đó khi gặp quan Tổng trấn, Crawfurd đi tham quan chợ và thị trấn Pingeh [
Phiên An hoặc Bến Nghé], nơi ở của quan Tổng trấn. Dù Phật giáo là quốc giáo, Crawfurd không thấy ngôi chùa nào mà chỉ thấy các miếu thờ theo kiểu người Hoa. Ở Sài Gòn, kẻ phạm tội ăn cắp bị buộc tay vào sau thắt lưng của người bị hại, xem đó như hình phạt. Khoảng 4-5 giờ chiều, đoàn Crawfurd lên lại tàu của mình ở Cần Giờ. Cả chuyến đi từ Saigun tới Cần Giờ chưa đến 10 tiếng và dễ dàng. Mực nước sông không hề lên xuống bất lợi. Một chiếc tàu chiến nhỏ có thể đi ngược sông lên thành phố mà không cần hoa tiêu, và phá hủy Saigun mà không sợ có sự chống cự nào. Thành phố Saigun, theo Crawfurd, ở cách biển 50 dặm, nó gồm 2 thị trấn khác nhau gộp lại, cách nhau 3 dặm. Thị trấn Pingeh [
Phiên An] Mất 3 ngày để đi đường bộ từ Kwin-nyon tới Kinh thành Huế. Tàu của Crawfurd đi tiếp qua Tang-kwan [Tam Quan?], nơi có con sông mà vua Gia Long năm 1793, chiến thắng Tây Sơn. Qua tới ngày 10, Crawfurd đi ngang eo biển giữ đất liền và Pulo Canton, hay còn gọi là Callo Rai [ Cù lao Ré, Lý Sơn] bởi người Việt Nam. Ngày 12, ông đi cụm đảo Cham Calao [ Cù lao Chàm], gồm 8 đảo, không thấy trồng trọt nhưng có một làng chài nhỏ ở vịnh phía tây nam đảo lớn. Ngày 15, tàu của Crawfurd cập cảng Touran [ Đà Nẵng]. Vị quan đứng đầu cảng Touran sau đó cho Crawfurd biết rằng ông ta chỉ là cấp phó của vị quan ở Fai-fo [
Hội An], hay Fuchim [Phủ Chiêm]. Sau khi Crawfurd cung cấp thư từ bằng tiếng Hán theo yêu cầu, ông ta hứa sẽ trình nó lên quan Hội An và hi vọng trong vòng 10 ngày, triều đình Huế sẽ mời Crawfurd ra chầu. Vị quan Touran này từng đi Trung Quốc và nói tiếng Quảng Đông lưu loát với người thông dịch gốc Quảng Đông của Crawfurd. Ngày 16, thương gia người Pháp là M. Borel, một trong hai người châu Âu duy nhất ở Đà Nẵng lúc ấy, đến thăm và báo cho Crawfurd biết rằng 6 ngày trước, triều đình Huế đã biết cuộc viếng thăm của Crawfurd ở Saigun. Ngày 19, Crawfurd đi tham quan làng Touran và đánh giá rất cao bãi biển ở đây. Năm 1793, Lord Macartney trên đường đi sứ Trung Quốc từng ghé Đà Nẵng và giờ [1822] nó đã phát triển vượt bậc. Ở Đà Nẵng, đa số phụ nữ tham gia buôn bán ngoài chợ. Người dân ở đây trong văn minh và vui vẻ. Năm 1778 Chapman, một phái viên của Toàn quyền Ấn Độ khi ấy là Warren Hastings, được cử đến Cochin China với cùng nhiệm vụ. Chapman cập cảng Cape St. James [ Vũng Tàu] trước tiên. Sau đó ông được biết Đồng Nai, Sài Gòn và Nam Kỳ vẫn còn thuộc về nhà vua [ Nguyễn Ánh]; còn Quy Nhơn và miền Trung, trừ Huế ra, đã bị Nguyễn Nhạc chiếm; miền Bắc nước này thì do người Tonquinese [ Đàng Ngoài] nắm. Đất nước này khi ấy xảy ra nạn đói khủng khiếp, người ta phải ăn các loại củ độc hoặc tảo ngoài bờ biển, thậm chí thịt người còn được bày bán ở Huế. Chapman sau đó vất vả trốn khỏi Huế, thiết lập ngoại giao đầu tiên giữa Vương quốc Anh và Việt Nam thất bại. Quan Tượng binh cho biết nhà vua [Minh Mạng] đồng ý cho tàu thuyền của nước Anh được tự do buôn bán ở Việt Nam. Sau một số cuộc trao đổi với quan chức nhà Nguyễn, như vị quan Tượng binh, người kiêm nhiệm Ngoại giao, Crawfurd được biết rằng vị vua Minh Mệnh có tham vọng bắt chước y hệt thể chế của triều đình Bắc Kinh. Cho nên, nghi thức của triều đình nhà Nguyễn hiện giờ rất ư là câu nệ là cứng nhắc. Sau nhiều cố gắng giải thích và tranh luận, đoàn của Crawfurd vẫn không được cho phép có một buổi chầu với vua Minh Mạng. Bởi quan chức nhà Nguyễn vẫn nhất quyết rằng, mục đích của sứ đoàn chỉ là thỏa thuận thương mại nên nó không đủ quan trọng để được diện kiến nhà vua. Và triều đình nhà Nguyễn chỉ cho sứ giả được gặp vua khi đó là sứ mệnh do một nhà vua khác cử đến, trong khi Crawfurd chỉ là do Đông phương Tổng trấn nước Anh
Các vị quan người Pháp và nước ngoài
Crawfurd được biết có hai vị quan người Pháp là Chaigneau và Vanier làm việc cho nhà Nguyễn.
Ngày 2 tháng 10 năm 1822, các vị quan nhà Nguyễn cùng với Chaigneau và Vanier đến báo với Crawfurd rằng, nhà vua sẽ không cho phép sứ đoàn được gặp ngài ấy. Các quan người Pháp cũng nhắc lại việc tương tự đời Gia Long: ngày 25 tháng 12 năm 1817, tàu chiến Cybelle với 40 súng, ghé cảng Touran [Đà Nẵng]. Sứ giả Achille de Kargariou, một đại úy hải quân nhất đẳng, mang theo thư của Bộ trưởng Hàng hải gửi cho Thượng thư Cochin China. Vua Gia Long khước từ gặp sứ giả và bất cứ quà tặng gì. Việc từ chối tiếp xúc với sứ đoàn Pháp có lẽ là do vua Cochin China không muốn thi hành hiệp ước năm 1787.
Ông Vanier là viên quan cao cấp, được nể trọng trong triều và đã ở đây hơn 33 năm. Trước kia ông ấy là sĩ quan thủy binh của Gia Long, đã tham gia cuộc chiến chống Tây Sơn. Khi còn trẻ, Vanier phục vụ hải quân Pháp, và ông ta cùng với quân Hoa Kỳ, đã đánh bại Lord Cornwallis ở Little York; cũng như trận thua của quân Pháp dưới sự chỉ huy của Comte de Grasse trước quân Anh của George Rodney. Vanier cũng nhắc lại chuyến công du năm 1805 của sứ giả nước Anh là Roberts. Ông Roberts đã gửi một số tranh có cảnh quân Anh đánh bại quân Ấn Độ trong trận chiến Seringapatam, khiến Gia Long phải bảo: "Toàn quyền Ấn Độ muốn hăm dọa ta...". Vợ ông Vanier là một phụ nữ người Việt, xinh đẹp, cao ráo, và trông giống như người Nam Âu.
Ông Chaigneau đã ở Cochin China khoảng 28-29 năm. Ông ta về Pháp năm 1819 rồi lại trở lại Cochin China với tư cách tổng lãnh sự Pháp. Vợ ông Chaigneau là con gái của một người Pháp, bà ấy từng theo chồng về Pháp năm 1819.
Cả hai vị quan người Pháp, các bà vợ, thậm chí cả người Hoa đều diện trang phục theo kiểu người Việt. Vanier và Chaigneau đều ủng hộ phái Bảo hoàng, chống lại cách mạng Pháp. Năm 1825, khi làm Thống đốc Singapore, Crawfurd đã gặp lại hai người Pháp này khi họ đang trên đường rời bỏ Cochin China về nước.
Crawfurd cũng thấy miếu thờ các vị quan tử trận thời Gia Long, có những người ngoại quốc như Manuel hay một người Ai Len..., tức Nước Ngọt. Cuối cùng, đoàn đi đến làng Hai-mung. Chỗ này là nơi vào vịnh Vungdam [Vũng Đầm]. Crawfurd được biết khu rừng mà đoàn ông mới đi ngang có rất nhiều hổ, voi và chim chóc. Thực ra, cuộc hành trình đi bộ của Crawfurd là do khiêng bằng cáng (trên võng). Ông đánh giá rất cao tay nghề của người khuân cáng và cho rằng, người Việt nam có sức lực vượt trội nhiều lần so với người ở miền Tây Ấn Độ.
Ngày 19 tháng 10, đoàn Crawfurd về tới vịnh Đà Nẵng và lên lại tàu của mình. Ngày hôm sau, quà của nhà vua được chuyển đến. Ngày 22, một nhóm người cùng Crawfurd dùng thuyền nhỏ đi khám phá Faifo [
Hội An], nơi mệnh danh là thủ phủ của các thương nhân người Hoa. Họ đi theo một con kênh song song với bờ biển. Crawfurd cho rằng Faifo gần như là một khu định cư của người Hoa, hoặc con cháu của họ. Nơi này có khoảng 5.000 dân, trong đó khoảng 600 hộ người Hoa, và đây là nơi này là điểm buôn bán với nước ngoài chính yếu của cả nước. Crawfurd ước đoán, vào lúc cao điểm, số lượng thủy thủy và thương nhân người Hoa đến đây buôn bán không dưới 10 nghìn người. Đường cát và quế là sản phẩm xuất khẩu chủ lực. Faifo có hai ngôi miếu Trung Hoa đẹp, để thờ phượng Bà chúa bảo hộ Thương mại và Hàng Hải. Hai miếu này xây cách đây [1822] gần một thế kỷ, do người Hoa bỏ tiền, vật liệu và nhân công xây dựng. Tại Faifo, Crawfurd còn gặp một ngôi chùa Phật lớn nhất cả nước mà ông được biết. Chùa này chỉ có một tượng Phật, sau lưng là các tranh vẽ Phật giáo. Bức tượng được khoát áo cà sa có thêu vàng. Ông nhận thấy, các tượng Phật ở Việt Nam khác với các nước Xiêm hay Tây Ấn Độ như mang các yếu tố Trung Hoa, áo cà sa phủ cả hai. Các nhà sư ở xứ này không lập gia đình, không giết hay ăn thịt động vật, và họ đội một chiếc mũ màu vàng hoặc đỏ. Và nhà sư khi mất thì họ sẽ làm lễ hỏa táng, khác với người thường. Faifo không phải là thủ phủ của dinh Quảng Nam. Quan trấn thủ dinh ấy đóng ở thành trì cách Faifo 6 dặm, gọi là Fu-chi-am [Phủ Chiêm], và nơi đó mới là thủ phủ của dinh Quảng Nam. Toàn tỉnh [dinh Quảng Nam] này gọi là Cham [Chàm hoặc Chăm], bao trùm luôn cả phần núi đồi phía Tây Nam vịnh Đà Nẵng. Dân số ở đây khoảng 50.000 người.. Vị trí này được các nhà hàng hải châu Âu xem là giới hạn phía Nam của những cơn bão nhiệt đới hay Typhoons.
Nghiên cứu của Crawfurd về địa lý, văn hóa và lịch sử Việt Nam
Quyển sách "Journal of an Embassy from the Governor-general of India to the Courts of Siam and Cochin China: Exhibiting a View of the Actual State of Those Kingdoms" (tạm dịch: Nhật kí của một Đại sứ theo lệnh Toàn quyền Ấn Độ đến các nước Xiêm và Việt Nam: Phô bày một cái nhìn chân thật về các quốc gia ấy) được hoàn thành năm 1827, in lần đầu năm 1828, tái bản năm 1830 của Crawfurd tổng hợp không chỉ hành trình làm việc của ông mà còn chứa đựng nhiều thông tin về địa lý, văn hóa và lịch sử của các nước Xiêm, Mã Lai, Singapore và Việt Nam. Phần đầu tập sách (Volume 1) tường trình lại sứ mệnh đến Xiêm và Việt Nam, phần sau (Volume 2) tổng hợp lại các hiểu biết của Crawfurd về văn hóa, ngôn ngữ, lịch sử,... của các vương quốc này.
Crawfurd đã thực hiện điều tra thực địa nhiều hòn đảo ở vịnh Thái Lan và Biển Đông, trong đó có nhiều đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam như: Hòn Khoai, Nam Du, Phú Quốc, Côn Đảo,... Thậm chí một số đảo nhỏ ở rất xa như Pulo Sapata, tức hòn Hải thuộc quần đảo Phú Quý, cũng được ông miêu tả chi tiết.
Cộng đồng người Việt và sức ảnh hưởng của họ ở Xiêm cung được Crawfurd đề cập. Các thầy lang ở Xiêm hầu như chỉ toàn là người Hoa và Việt. Người Việt sinh sống nhiều nơi ở Xiêm, ngược lại không thấy người Xiêm sinh sống ở Việt Nam.
Năm 1824, sứ giả Miến Điện là Gibson trên đường đi sứ từ Việt Nam về nước có quá cảnh Singpaore và gặp Crawfurd. Gibson đã giao lại bản tường trình của mình cho Crawfurd. Bản tường trình của Gibson được Crawfurd chỉnh sửa và cho in chung vào phần phụ lục của quyển sách "Journal of an Embassy...".
Địa lý Việt Nam
Về địa lý của Đế quốc Cochin China [Empire of Cochin China], theo Crawfurd, gồm các lãnh thổ: một phần đất quốc gia cổ Kamboja, Cochin China [
Điểm cực nam của nước này là đảo Pulo Ubi [
Kamboja [
Quốc hiệu Việt Nam thời nhà Nguyễn
Mặc dù từ năm 1804, Gia Long đã đặt quốc hiệu Việt Nam và quy định việc sử dụng nó, thế nhưng, người phương Tây vẫn sử dụng tên gọi Cochin China cho quốc gia của nhà Nguyễn. Thậm chí đến thời Minh Mạng (1822), khi dịch thư từ, các quan chức nhà Nguyễn vẫn dùng danh xưng An Nam mà không đề cập đến tên hiệu Việt Nam. Đến tận năm 1832, tên gọi Việt Nam (thay thế cho An Nam) mới được các quan nhà Nguyễn đề cập cho sứ giả Hoa Kỳ Edmund Roberts khi ông này ghé Phú Yên.
Đối với tên gọi Cochin China (được dùng hầu hết trong sách) của nước này, Crawfurd dẫn chứng tài liệu Nouvelles Letters Édifiianttes (Paris 1821), là do người Bồ Đào Nha đặt ra để phân biệt với xứ Cochin ở Malabar. Cư dân bản địa gọi nước này là Dang-traoing [
Như vậy, Cochin China vốn là tên gọi của riêng Đàng Trong nhưng sau này nó được người phương Tây (cụ thể là Anh, Hoa Kỳ) dùng để gọi tên quốc gia của nhà Nguyễn, gồm cả ba vùng Tonquin, Cochin China và Kamboja.
Dân tộc, tôn giáo và văn hóa nước Việt Nam thời Minh Mạng
Bên cạnh quốc gia An Nam [
Người Kambojans khá đông, còn gọi là Kammer, Kammen, Komen, Tang-po-cha, Kamboja và Cambodia. Người Kambojans có ngôn ngữ riêng nhưng vẻ ngoài và văn hóa gần với người Xiêm. Người Kambojans từng có một quốc gia hùng mạnh rồi dần sụp đổ. Năm 1750, Việt Nam chiếm Dong-nai và các tỉnh trên sông Saigun. Năm 1777, vua Ong-tong [
Người Champa, tiếng An Nam gọi là Loye hoặc Loi [Lời, Hời], sống từ Mũi St. James tới Phu-yen. Trước khi bị người Việt chinh phục, người Champa đã có một chính quyền ở vịnh Phan-rye. Họ theo một dạng tôn giáo Hindooism gần giống với Phật giáo hay Jain giáo, từng có ở đảo Java trước khi bị Islam hóa. Tiếng Champa khác với tiếng Việt và tiếng Khmer. Người Champa từng có sự giao thương mạnh với quần đảo Malaysia. Từng có công chúa Champa làm hoàng hậu ở Java. Người Champa cũng sống ở nhiều nơi quanh vịnh Xiêm và cộng cư với người Malayan. Nước Champa bị chinh phục bởi người Việt vào khoảng thời gian họ [người Việt] chiếm Dong-nai. Người Champa phải lùi xa bờ biển để người Việt chiếm lấy. Như người Kambojans, người Champa cũng bị cai trị khắc nghiệt, thường hay nổi dậy. Chính quyền Việt Nam phải xây dựng nhiều đồn lính trên các đồi, cửa ải để canh phòng họ.
Còn một giống người khác sống ở lãnh thổ của người Việt là người Moi [Mọi]. Họ chưa có văn minh nhưng vô hại, sống nhiều ở Dong-nai.
Những giống người ngoại quốc khác sống ở Việt Nam là người Mã Lai, người lai Bồ Đào Nha theo Công giáo, và người Hoa.
Công giáo được truyền bá vào Việt Nam khoảng năm 1624 bởi các thầy tu Bồ Đào Nha từ Macao và sau sự bức hại người Bồ Đào Nha ở Nhật Bản. Sau đó là các đợt di cư của người Bồ Đào Nha từ Malacca, tạo nên giống người lai ở nước này, mà con cháu của họ vẫn còn; khó phân biệt giống người lai này, ngoại trừ dựa vào tôn giáo của họ. Gia Long và Minh Mạng chưa có chính sách khuyến khích hay cấm đoán Công giáo. Sự cấm đa thê gây mâu thuẫn lớn với tập tục của người bản xứ. Chính quyền nhà Nguyễn thù ghét Công giáo vì nó tạo ra một tầng lớp người ngoại quốc, có sức mạnh và tham vọng. Người Công giáo là những người nghèo khổ nhất. Họ không có quyền hạn chính trị kể từ sau cái chết của Hoàng tử Cảnh, người từng theo Giám mục d'Adran sang Pháp.
Người Hoa là giống người ngoại quốc đông nhất Việt Nam, nhưng ở Xiêm và bán đảo Mã Lai họ còn đông hơn. Nhà Nguyễn cảnh giác và đàn áp nghiêm khắc họ vì sự ghen ghét với nền công nghiệp của người Hoa. Người Hoa mới đến định cư được miễn quân dịch, và con cái của họ được quyền đóng tiền để miễn đi lính, trong khi người bản địa thì không có quyền đó. Con cháu người Hoa nếu chưa kết hôn thì được tự do rời Việt Nam. Ở Tonquin có khoảng 25.000 người Hoa làm việc ở các mỏ sắt, bạc, vàng. Ở Cachao có khoảng 1.000 người Hoa làm nghề buôn bán. Số người Hoa ở Huế là 600, Fai-fo là 3.000, Saigun là 5.000; cả nước không quá 40.000 người Hoa. Đặc biệt, các mỏ kim loại (vàng, bạc, sắt,...) đều do người Hoa khai thác. Họ đến chủ yếu từ các tỉnh Hải Nam, Kiang-nan, Phúc Kiến.
Dân tộc An Nam, chỉ chung cho cả người Đàng Trong lẫn người Đàng Ngoài, có vóc người thấp lùn, có chiều cao thấp nhất nếu so với các giống dân Trung Á. Tứ chi của họ mạnh mẽ, khéo léo. Họ có vẻ giống với dân Mã Lai nhất, nhưng hiền hậu, lạc quan, và hài hước hơn. Phụ nữ An Nam đẹp đẽ hơn đàn ông, kể cả người nghèo cũng có dáng đẹp. Về trình độ mỹ nghệ thuật, người An Nam giỏi hơn hết thảy các dân ở Xiêm, Đông Nam Á hải đảo, Đại Ấn Độ; chỉ thua người Trung Quốc và Nhật Bản. Về quân sự, người An Nam rất giỏi sao chép các loại vũ khí. Nhưng họ không biết luyện kim và súng hỏa mai họ làm ra chỉ có vẻ ngoài, vô dụng. Họ chỉ biết dựa vào các thiết kế có sẵn của người châu Âu, người Hoa để làm việc. Họ lệ thuộc hoàn toàn vào vũ khí mua của nước ngoài.
Ngôn ngữ An Nam là thứ tiếng đơn âm tiết, gần giống với các phương ngữ Trung Quốc. Tiếng Việt không có biến tố, dễ tiếp thu bởi người nước ngoài, trừ phần phát âm. Người Việt không có chữ viết, họ lấy tất cả sách vở từ người Trung Quốc, thầy của họ. Họ chế ra một số chữ mới [
Về tính cách, người Việt ôn hòa và ngoan ngoãn. Những người ở tầng lớp thấp thể hiện điều này rất sinh động. Họ luôn trò chuyện và cười đùa, cứ như họ chẳng có gì để than phiền, cứ như họ đang sống dưới một chế độ hiền hòa và phúc lợi tốt nhất thế giới, thay vì họ đang là nô lệ của một chế độ đàn áp và bạo ngược bậc nhất. Lối sống vui vẻ đó lại không được cho phép thể hiện, người nghèo sẽ bị đánh roi nếu giỡn hớt, còn người giàu thì nhiễm thói nghiêm nghị của người Trung Quốc. Người Việt là những kẻ ở dơ. Giống với các dân Ấn Độ, họ cũng hay tắm gội; nhưng họ lại để tóc dài, da, bàn tay, móng tay dài khiến họ không sạch sẽ... Người Việt còn có sự thô lỗ và khiếm nhã khi trần truồng tắm hoặc bơi xuồng trên sông. Thực đơn của họ cũng dơ và bừa bãi. Họ ăn côn trùng, thịt cá sấu, khoái khẩu món trứng vịt lộn; và loại nước chấm [
Về tôn giáo của người Việt, Crawfurd thấy rằng họ không sùng tín như người dân ở Xiêm hay Ấn Độ. Tuy nhiên, người Việt và người Trung Quốc rất mê tín, tuy nhiên họ không thật sự sùng đạo. Các chức sắc tôn giáo dẫu được tôn trọng, nhưng cũng không hơn người bình thường là bao. Bên cạnh đó, Crawfurd thấy người Việt còn có các miếu thờ các thế lực siêu nhiên tầm thường và các ác thần; họ đốt giấy vàng bạc, thấp hương và cầu khấn. Thứ tôn giáo duy nhất có hệ thống và ăn sâu trong tâm trí người Việt Nam là đạo thờ cúng tổ tiên; được toàn thể dân chúng áp dụng, chính quyền bắt buộc. Bên cạnh đó, đạo Phật và đạo Khổng thịnh hành ở Việt Nam, không khác mấy so với ở Trung Quốc. Kẻ nghèo, phụ nữ, người mù chữ theo đạo Phật; kẻ làm quan, người có học theo đạo Khổng. Theo Crawfurd, đạo Phật ở Việt Nam chỉ là thiểu số, không phải là đạo của giới cầm quyền nên đạo này không nhận được sự hỗ trợ hay giao thoa với đạo Phật ở các nước phía tây.
Thể chế chính trị và sức mạnh quân sự của nhà Nguyễn
Chính quyền nhà Nguyễn vô cùng chuyên chế, cả về lý thuyết lẫn thực tế. Nó bắt chước mọi thứ theo chính quyền Trung Quốc; với mục tiêu cai trị đất nước như một gia đình. Nhà vua sở hữu tất cả mọi thứ. Quan chức gồm hai loại văn và võ, chia thành 10 cấp bậc. Mỗi tỉnh có một vị quan võ làm Tổng trấn, hai vị quan văn làm phó. Tỉnh lại chia làm các Huyện, và huyện lại chia làm các Tou [Tổng], tổng lại chia làm các thôn. Triều đình cử quan cai trị tỉnh, huyện, tổng; người dân tự chọ ra người đứng đầu thôn. Chính quyền tổng thể của nhà Nguyễn gồm có một Hội đồng tối cao và sáu bộ: bộ Lại; bộ Lễ; bộ Hộ; bộ Binh; bộ Hình và bộ Công. Ngoài ra còn có ba vị quan cao cấp gọi là Kun [Quân]. Họ là Tổng trấn Bắc Thành [Chưởng Hậu quân], Tổng trấn Gia Định Thành [Chưởng Tả quân] và Chưởng Tượng quân kiêm Ngoại trưởng.
Toàn bộ đàn ông, từ 18 đến hơn 60 tuổi, đều phải phục vụ lao dịch, quân dịch cho triều đình. Sự cưỡng bức phục vụ quân đội gây ra nhiều hệ lụy, tinh thần và kỹ năng của quân lính kém cỏi. Vệ binh Hoàng gia có khoảng 30.000 quân ở kinh đô. Tổng số tượng binh khoảng 800, trong đó 130 con ở kinh thành. Nhà Nguyễn không có kỵ binh. Về thủy binh, quân lính được tổ chức từ các vùng ven biển thành các trung đoàn thủy quân. Tàu chiến có từ 16-22 súng, chứa được 200 lính; thuyền chiến lớn, loại 50-70 ta chèo, có trang bị thần công, chứa được 100 lính... Sau khi Gia Long chinh phục xong Bắc Thành, 150.000 quân được túc trực sẵn sàng chiến đấu. Sang thời Minh Mạng, số quân này bị giảm chỉ còn 40.000-50.000 và kém hiệu quả. Quân đội nhà Nguyễn được trang bị súng hỏa mai, lưỡi lê hoặc giáo. Súng được bảo quản tốt, quân lính có kỷ luật và diễn tập theo chiến thuật châu Âu. Người lính thời Nguyễn nhìn chung dễ bảo và biết nghe lệnh; tuy thấp bé nhưng mạnh mẽ, linh hoạt, và khóe léo bền bỉ.
Crawfurd đánh giá rất cao người lính nhà Nguyễn. Tuy nhiên, ông cho rằng quân đội nhà Nguyễn dù cho có kỷ luật tốt và học theo cách châu Âu, nhưng người lính không có đủ can đảm. Và quân Nguyễn cũng chỉ đe dọa được các nước nhỏ kế bên, họ không có cơ hội nào để chống lại một lực lượng châu Âu. Thậm chí, Crawfurd tin rằng, ở châu Á, Việt Nam là quốc gia dễ dàng bị chinh phục bởi quân châu Âu nhất. Hai vùng Bắc Thành và Gia Định Thành nằm cách xa, hay có nổi loạn. Các đồn binh và kho vũ khí, kể cả kinh đô, đều nằm sát bờ biển, rất có khả năng bị tập kích. Quân Nguyễn không thể đấu lại kỹ thuật và lòng can đảm của quân châu Âu; khi họ bị thua, triều đình sẽ mất nguồn lực, đồng nghĩa với việc đất nước bị đánh bại. Miền Trung phụ thuộc vào các nguồn cung và lương thực từ miền Bắc và miền Nam theo đường biển. Đường biển này dễ bị cắt đứt, nhất là Gia Định Thành, chỉ cần một lực lượng bình thường cũng làm được, có khi còn hỗ trợ người dân nổi dậy. Chapman khi đến Đàng Trong hồi đầu cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, cho rằng chỉ cần hợp tác với một bên và có 50 quân bộ châu Âu, nửa đội pháo binh, và 200 quân Sepoys là có thể chinh phục vương quốc này. Crawfurd cho rằng, đối với thời Minh Mạng, chỉ cần một lực lượng quân châu Âu với 5.000 người, và một đội tàu chiến cỡ nhỏ cũng dư sức chinh phục và thiết lập sự cai trị vĩnh viễn nước này. Crawfurd nhìn thấy một viễn cảnh mà nước Việt Nam bị cai trị bởi một chính quyền của người châu Âu, nhất là người Pháp. Nước Việt Nam với sự ngoan ngoãn của người dân, tài nguyên dồi dào, nhiều cảng biển tốt, vị trí địa lý trung tâm và thuận lợi, rồi sẽ bị một thế lực nào đó thiết lập sự cai trị, và nó sẽ gây phương hại, cạnh tranh thương mại với thuộc địa Ấn Độ của đế quốc Anh.
Lịch sử Việt Nam theo John Crawfurd
Theo Crawfurd, nước Việt Nam thời Nguyễn chủ yếu gồm hai nước An Nam [
Nước An Nam bị Trung Quốc xâm chiếm năm 214 TCN [
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc các sản phẩm thô, bạch đậu khấu, hạt cau, đường, gỗ trang trí, trầm hương, gỗ mun, vải, gạo, sticlac, ngà voi, da động vật, sừng, thịt nai, lông chim, quế, khô cá, muối, đồ sứ... Đổi lại, Việt Nam nhập khẩu thuốc phiện, len, tơ lụa, trà,... Tổng cộng, có khoảng 116 thuyền buôn Trung Quốc với 20.000 tấn hàng trao đổi với Việt Nam; chưa tới một nửa lượng hàng hóa giao thương giữ Trung Quốc với Xiêm.
Nền ngoại thương của Việt Nam hoàn toàn do người Hoa đảm nhiệm, họ là thương nhân và thủy thủ. Người Việt Nam hiếm khi dám đi ra khỏi vùng ven biển nước mình.
Các sản phẩm bị cấm xuất khẩu là tiền đồng, vàng bạc nén, đồng, trầm hương, gạo và muối. Việc cấm các sản phẩm này có lẽ chỉ là hình thức. Ngoài ra cũng có lệnh cấm "xuất khẩu" nam nữ [cấm buôn người]. Thuốc phiện bị cấm nhập khẩu.
Dân cư Việt Nam thời Minh Mạng
Đàn ông Việt Nam cưới vợ ngay khi có đủ tiền, thường cần khoảng 40-50 quan tiền. Đàn ông bình dân hiếm khi kết hôn trước 20 tuổi, thường là 30. Người giàu thì thường kết hôn từ tuổi 15. Phụ nữ bình dân thường kết hôn từ 17-20 tuổi. Độ tuổi kết hôn ở Việt Nam có lẽ là thấp nhấp ở châu Á, cho thấy sự kiểm soát tăng dân số của nước này. Đa thê được cho phép, và những người vợ chỉ được xem là tài sản của các ông chồng. Vợ cả thường có địa vị cao hơn vợ bé, và vợ bé không khác gì hầu gái của bà lớn. Một cô gái không thể kết hôn mà trái ý cha mẹ. Hôn nhân là điều không thể phá vỡ, trừ phi cả hai vợ chồng cùng đồng ý ly hôn. Trước khi lấy chồng, phụ nữ Việt Nam được phép tự do, phóng túng. Sự mất trinh tiết của người con gái không phải là tội lỗi hay rào cản hôn nhân. Khi một cô gái chưa kết hôn có thai, tình nhân sẽ bị bắt phải cưới cô ấy với tiền cưới ít hơn bình thường. Nếu việc mang thai là chuyện bất lợi thì việc bí mật phá thai được nhiều người chấp nhận. Việc giết trẻ sơ sinh dù phổ biến ở Trung Quốc nhưng lại hiếm khi xảy ra ở Việt Nam, và nếu có, đó sẽ bị xem là phạm tội. Sau khi kết hôn, phụ nữ Việt Nam mất hết tự do. Tội ngoại tình sẽ bị giết, cả hai người phạm tội; đôi khi cũng được giảm nhẹ bằng hình phạt thể xác. Tội này không chỉ bị xem là vô đạo đức mà còn là ăn cướp tài sản [của người chồng]. Phụ nữ Việt Nam không bị giam hãm trong nhà như phụ nữ Tây Á. Một người chồng Việt Nam có thể đánh vợ rất nặng mà không bị luật pháp trừng trị. Khi ở làng Candyu [
Đàn ông Việt Nam phải làm nhiều việc lao dịch cho triều đình. Do đó phụ nữ phải làm thay đàn ông nhiều việc nặng nhọc như cày bừa, gặt hái, khuân vác, bán buôn, đổi tiền. Hầu hết các trường hợp, phụ nữ làm việc giỏi và thông minh hơn đàn ông. Nhưng điều khiến Crawfurd kinh ngạc nhất, chưa bao giờ biết ở đâu trên thế giới, đó là phụ nữ và đàn ông ở Việt Nam được trả lương bằng nhau. Không như những nơi khác trên thế giới, ở Việt Nam không có sự phân biệt lao động nam hay nữ. Nguyên nhân là do đàn ông bị cưỡng bức làm các công việc của triều đình quá mức, khiến phụ nữ phải làm việc nhà thay họ. Điều đó không có nghĩa là các ông chồng ở xứ này rất được các bà vợ yêu thương. Phụ nữ Việt Nam thích lấy chồng ngoại quốc hơn, nhất là người Hoa. Bởi vì người Hoa không bị bắt phải đi quân dịch hay lao động không công cho nhà nước; mà họ còn nuông chiều và chăm sóc vợ tốt hơn đàn ông bản xứ.
Không có nước nào ở châu Á phải gánh chịu sự tàn phá của những thảm họa nội chiến [
Crawfurd không thấy người ăn xin ở Gia Định Thành hay miền Trung, nhưng ông nghe người Hoa bảo rằng ở Bắc Thành có rất đông ăn mày. Sự đàn áp của triều Nguyễn còn tạo ra nhiều băng nhóm trộm cướp ở Gia Định Thành và Bắc Thành. Quan Thao Kun [
Về dân số Việt Nam thời Minh Mạng, Vanier cho rằng dân số Việt Nam không quá 10 triệu. Crawfurd phỏng đoán, dân số Đế Quốc Việt Nam chỉ hơn 5.194.000 người và là một nước thưa dân. Theo Chaigneau: người Việt sống tập trung theo các con sông, cả nước có khoảng 15-20 triệu người. Dù đa thê được cho phép, nhưng đàn ông thực ra chỉ có một vợ; vợ lẽ chỉ là người giúp việc cho chủ. Khí hậu tốt và thực đơn chủ yếu gồm gạo và cá có lẽ là nguyên nhân tăng dân số Việt Nam. Thức ăn rẻ nên người ta không ngại sinh thêm con.
Thống đốc thường trú tại Singapore
nhỏ|Quang cảnh thị trấn và những con đường của Singapore từ ngọn đồi chính phủ Crawfurd được bổ nhiệm là Thống đốc Thường trú Singapore vào tháng 3 năm 1823. Ông được lệnh giảm chi tiêu cho nhà máy hiện có ở đó, nhưng thay vào đó, ông lại đáp lời các đại diện thương mại địa phương, và chi tiền cho công việc cải tạo trên sông. Ông cũng ký kết thỏa thuận cuối cùng giữa Công ty Đông Ấn và Sultan Hussein Shah của Johor, với Temenggong (quý tộc Mã Lai), về tình trạng của Singapore vào ngày 2 tháng 8 năm 1824. Đó là đỉnh điểm của các cuộc đàm phán được bắt đầu bởi Raffles vào năm 1819, và thỏa thuận đôi khi được gọi là Hiệp ước Crawfurd. Ông cũng có dự vào Hiệp ước Anh-Hà Lan năm 1824 liên quan đến các phạm vi ảnh hưởng ở Đông Ấn.
Crawfurd cũng quen thuộc với Munshi Abdullah. Ông đã chỉnh sửa và đóng góp cho Biên niên sử Singapore của Francis James Bernard, tờ báo địa phương đầu tiên xuất hiện ngày 1 tháng 1 năm 1824. Đường Crawford và cầu Crawford ở Singapore được đặt theo tên ông.
Crawfurd tại triều đình đã thấy Bagyidaw (vua thứ 7 của Triều Konbaung) tạm thời có vị trí yếu kém trước các lực lượng Anh ở Arakan và Tenasserim. Nhà vua chỉ thừa nhận một thỏa thuận thương mại, đổi lại sự chậm trễ trong thanh toán bồi thường; và đã gửi sứ đoàn của riêng mình đến Calcutta.
Đoàn thám hiểm đã bị trì hoãn trên hành trình trở về do phải sửa chữa tàu. Crawfurd thu thập đáng kể các hóa thạch, ở phía bắc Magwe bên bờ trái của sông, trong bảy chiếc rương. Quay trở lại London, William Clift đã xác định được một loài mastodon mới (chính xác hơn là Stegolophodon) từ chúng; Hugh Falconer cũng làm việc với bộ sưu tập. Phát hiện này, gồm xương và gỗ hóa thạch, đã được thảo luận thêm trong một bài báo của William Buckland, đưa ra chi tiết; và chúng đã mang đến cho Crawfurd tình bạn với Roderick Murchison, Thư ký Ngoại giao của Hiệp hội Địa chất. Họ cũng đã thu thập được 18.000 mẫu vật thực vật, nhiều trong số đó đã đi đến Vườn thực vật Calcutta. nhỏ| Hóa thạch xương hàm được thu thập bởi John Crawfurd gần Yenangyaung ở Miến Điện, hiện là mẫu vật của Stegolophodon latidens. Tấm 36 của bài báo gốc của William Clift.
Cuộc đời lúc sau
Tại Vương quốc Anh, Crawfurd đã dành khoảng 40 năm cho các hoạt động khác nhau. Ông viết sách như một nhà phương Đông học, nhà địa lý học và nhà dân tộc học. Ông đã thử tham gia chính trị quốc hội, nhưng không thành công; ông kích động để buôn bán tự do; và ông là một nhà quảng bá và chống lại các kế hoạch thực dân, theo quan điểm của ông. Ông cũng đại diện cho lợi ích của các thương nhân người Anh có trụ sở tại Singapore và Calcutta.
Ứng cử viên quốc hội cấp tiến
Crawfurd đã thực hiện một số nỗ lực không thành công để vào Quốc hội Anh vào những năm 1830. Tài liệu chiến dịch của ông đề cao quyền bầu cử phổ thông và lá phiếu bí mật, thương mại tự do và phản đối độc quyền, giáo dục công cộng và giảm chi tiêu quân sự, và phản đối việc đánh thuế thoái lui và đánh thuế những người bất đồng chính kiến đối với một nhà thờ của nhà nước, với việc quốc hữu hóa các tài sản của Giáo hội Anh. Ông gia nhập Hiệp hội Ứng cử viên Nghị viện, được thành lập bởi Thomas Erskine Perry (anh rể của ông), để thúc đẩy các Thành viên Nghị viện "phù hợp và đúng đắn". Ông cũng tham gia Câu lạc bộ cấp tiến, một sự ly khai khỏi Liên minh chính trị quốc gia được thành lập năm 1833 bởi William Wallis.
Crawfurd đã không thành công trong cuộc thi, với tư cách là một người cấp tiến, ở Glasgow năm 1832, Paisley năm 1834, Stirling Burghs năm 1835 và Preston năm 1837. Tại Glasgow, ông đã có số phiếu thứ tư (có hai nghị sĩ cho quận), với Sir Daniel Sandford thứ ba. Vào tháng 3 năm 1834, chính Sandford đã được bầu tại Paisley. Tạp chí Đông Ấn và Thuộc địa của Alexander (Alexander's East India and Colonial Magazine) đã ghi lại sự tiếc nuối sau thất bại của ông tại Stirling Burghs.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 1834, Crawfurd đã hỗ trợ Thomas Perronet Thompson trong một cuộc họp kích động chống lại Luật Ngô. Thomas Carlyle đã ám chỉ, trong các ghi chú về một trong những lá thư của Jane Welsh Carlyle, về việc Crawfurd phát biểu tại một cuộc họp cấp tiến tại Quán rượu London do Charles Buller thiết lập vào ngày 21 tháng 11 năm 1834; trong đó ông ta thể hiện sự độc đáo hơn nhiều so với John Arthur Roebuck, nhưng đã lạc chủ đề.
Tại Preston trong cuộc tổng tuyển cử năm 1837, Crawfurd đã có đề cử Tự do trong cuộc đấu tranh ba người cho hai ghế, vì Peter Hesketh-Fleetwood được coi là người phục vụ bởi đảng Bảo thủ đã điều hành Robert Townley Parker chống lại ông; nhưng ông chỉ có số phiếu thứ ba. Ông cũng ủng hộ ứng cử viên của John Temple tại Westminster chống lại Sir Francis Burdett, là phó chủ tịch trong ủy ban bầu cử của ông (với Thomas Prout, chủ tịch Sir Ronald Craufurd Ferguson). Crawfurd đã nói chuyện với George Grote trong một cuộc họp cho Nhà lãnh đạo tại khách sạn Belgrave.
Thương mại tự do
nhỏ|Đông Ấn Độ châu Á, bức tranh năm 1836 của William John Huggins. Là một người suốt đời ủng hộ các chính sách thương mại tự do, trong Quan điểm của Nhà nước hiện tại và triển vọng tương lai của thương mại tự do và thuộc địa Ấn Độ (A View of the Present State and Future Prospects of the Free Trade and Colonization of India; 1829), Crawfurd đã đưa ra một trường hợp mở rộng chống lại cách tiếp cận của Công ty Đông Ấn, đặc biệt là loại trừ các doanh nhân Anh và trong việc không phát triển vải bông Ấn Độ. Ông đã có kinh nghiệm ở Java về khả năng xuất khẩu hàng dệt bông. Sau đó, ông đã đưa ra bằng chứng vào tháng 3 năm 1830 cho một ủy ban quốc hội, về sự độc quyền thương mại của Công ty Đông Ấn với Trung Quốc. Robert Montgomery Martin chỉ trích Crawfurd, và bằng chứng của Robert Rickards, một cựu nhân viên của Công ty, vì đã phóng đại gánh nặng tài chính của việc độc quyền về trà. Crawfurd đưa ra một cuốn sách nhỏ, Độc quyền Trung Quốc được kiểm tra (Chinese Monopoly Examined). Ross Donnelly Mangles bảo vệ Công ty Đông Ấn vào năm 1830, trong một câu trả lời gửi tới Rickards và Crawfurd. Khi điều lệ công ty được đưa ra để đổi mới vào năm 1833, độc quyền thương mại Trung Quốc đã bị phá vỡ. Phần của Crawfurd với tư cách là đại lý quốc hội cho các lợi ích ở Calcutta đã được trả (ở mức £ 1500 mỗi năm); công việc công khai của ông đã bao gồm các sự kiện cho một bài báo Edinburgh Review (Đánh giá của Edinburgh) được viết bởi một tác giả khác.
Thuộc địa ở Úc
Khi xem xét tài liệu Tỉnh Nam Úc mới (New British Province of South Australia) của Edward Gibbon Wakefield, và sau đó viết trong Tạp chí Westminster, Crawfurd đã đưa ra ý kiến chống lại việc thực dân hóa có hệ thống. Ông coi rằng đất đai phong phú và doanh nghiệp cá nhân là những yếu tố cần thiết. Robert Torrens, người đã thả nổi Công ty Đất đai Nam Úc, đã trả lời dòng Đánh giá Westminster trong Thuộc địa Nam Úc (Colonization of South Australia; 1835). Phần I của cuốn sách là một lá thư gửi Crawfurd.
Năm 1843, Crawfurd đã đưa ra bằng chứng cho Văn phòng Thuộc địa trên Cảng Essington, trên bờ biển phía bắc Australia, do ảnh hưởng của khí hậu khiến nó không phù hợp để định cư. Ông trở lại chủ đề này trong một cuộc tranh luận năm 1858 về các khu định cư trên sông Victoria, như đã được đề xuất b