Rama III (31 tháng 3 năm 1788 – 2 tháng 4 năm 1851), miếu hiệu là Phra Nangklao Chaoyuhua, là vị vua thứ ba của Vương triều Chakri, Xiêm La. Rama III trị vì từ năm 1824 tới năm 1851. Sử nhà Nguyễn gọi là Sa Đa Phố Đinh (沙多鋪丁, "Sadabodin"), sử Trung Quốc gọi là Trịnh Phúc (鄭福). Quốc vương Rama III cai trị trong một thời kỳ đầy sôi động ở bán đảo Trung - Ấn.
Tiểu sử
Ban đầu
Quốc vương Nangklao (Rama III) sinh ngày 31 tháng 3 năm 1788 dưới triều đại của ông nội mình: Phật vương: Phra Buddha Yodfa Chulaloke tại thành đô Krung Thep (Bangkok). Ông là con trai trưởng của hoàng tử: Issaraundhorn (tức vua Rama II sau này) với một người em họ của ông ta và cũng là một bà phi trong cung, công chúa Chao Chom Manda Riam (về sau đổi thành KromSomdej Phra Srisulalai sau khi ông lên ngôi), ban đầu ông được đặt tên là Tub. Năm 1809, nhờ có công dẹp cuộc nổi loạn do người con trai của vua Taksin lãnh đạo, ông được vua cha phong là Poramin Maha Jessadabodindra (hoàng tử Jessadabodindra) và được giao nhiều công việc triều chính.
Thiếu thời
Trước khi lên ngôi, Rama III giữ vị trí như Bộ trưởng ngoại giao và thương mại cho vua cha. Ở cương vị này, ông đã thúc đẩy quan hệ thương mại với nhà Thanh và đem lại nguồn thu lớn cho triều đình. Cũng qua đó, ông chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc.
Lên ngôi và cai trị
Năm 1824, khi hoàng tử Jessadabodindra 37 tuổi, quốc vương Rama II bị bệnh nặng và đột ngột qua đời không truyền lại sẽ để ai kế vị. Tuy nhiên, theo luật kế vị thì con trai của vua Rama II với hoàng hậu là hoàng tử Mongkut sẽ được lên làm vua, tuy nhiên hoàng tử vừa mới xuất gia đi tu theo truyền thống Xiêm La không lâu. Trong khi đó hoàng tử Jessadabodindra là người có kinh nghiệm triều chính và quân sự nhiều năm và cũng là con trưởng nên triều đình và hoàng gia bèn tôn ông làm vua.
Trong thời gian trị vì, Rama III đã có quan hệ tốt với Anh quốc qua việc tham gia liên quân với Anh đánh Miến Điện. Vua còn có chính sách tránh xung đột với Anh ở một số vùng tranh chấp. Nhờ đó, hiệp ước hòa bình giữa Anh và Xiêm được thành lập vào năm 1825.
Khi vua Anouvong của Lào nổi dậy chống lại Xiêm, Rama III đã phái quân đội đánh bại Anouvong ở Isan năm 1825. Năm 1827, quân Xiêm lại một lần nữa đánh bại quân của Anouvong và bắt được vị vua Lào này đem về Bangkok.
Năm 1833, nhân việc Lê Văn Khôi nổi dậy chống vua Minh Mạng và xin chi viện của Xiêm, Rama III quyết định giành lại ảnh hưởng ở Campuchia bằng cách lập vua mới của nước này thân với Xiêm. Rama III đã cử một cánh quân bộ do Rajasupawadi chỉ huy và một cánh quân thủy do một vị đại thần chỉ huy tiến đánh Gia Định, ngoài ra còn có quân Campuchia của Ang Im (Nặc Yêm) và Ang Duong (Nặc Đôn). Tuy nhiên, kế hoạch chinh phạt Đại Nam này đã bị đập tan. Năm 1842, Rama III lại sai quân đánh Đại Nam, nhưng cũng không thành công. Phnom Penh trở thành nơi tranh giành qua lại giữa quân Xiêm và quân Việt Nam. Xung đột Xiêm-Việt dừng lại khi quân Pháp xâm lược Việt Nam năm 1847 khiến triều đình Thiệu Trị phải hòa hoãn với Xiêm.
Tuy không đi tu hành như người anh em khác mẹ là hoàng tử Mongkut, nhưng Rama III vẫn rất mộ đạo Phật. Thời ông trị vì, hơn 50 chùa chiền đã được triều đình bảo trợ xây mới hoặc trùng tu, trong đó có tháp ở Wat Arun và Wat Pho.
Về quốc phòng và quân sự, Xiêm chỉ có duy nhất một tàu kiểu phương Tây vào thời kỳ đầu cầm quyền của Rama III. Đến 1830, Rama III đã mời các kiến trúc sư quân sự châu Âu tới phục vụ cho Xiêm. Đến cuối đời mình, Rama III đã có đạo quân bộ binh 10.000 người, và pháo binh, tất cả được huấn luyện theo kiểu châu Âu, 500 chiến thuyền được cải tiến. 4 chiến hạm và 12 hải phòng hạm theo kiểu phương Tây. Bờ biển và cửa sông Chao Phraya (tên tiếng Việt là Mê Nam) của Xiêm đều được bảo vệ bởi các công sự, tiền đồn xây dựng theo kiểu mới nhất khi đó.
Năm 1847, Xiêm đã có 20 tàu buôn lớn được sản xuất ngay tại Bangkok, trong đó có 13 chiếc là thuộc nhà vua. Tàu mới của Xiêm đã cạnh tranh có kết quả với tàu ngoại quốc. Ví dụ, năm 1838, trong số 9 tàu kiểu châu Âu ghé Bangkok, thì có 6 chiếc thuộc Anh, 3 chiếc thuộc Xiêm; năm 1846 tỷ lệ này của Anh là 10, Xiêm là 4; và năm 1849 thì tỷ lệ này biến đổi là 4 chiếc thuộc Anh , trong khi đó 14 chiếc là của Xiêm.
Về phát triển kinh tế và thương mại, vào đầu những năm 20 của thế kỷ XIX, xuất khẩu gạo của Xiêm là đứng hàng thứ 2 ở châu Á, chỉ sau Bengal.
Còn tác phẩm Journal of an embassy from the governor-general of India to the courts of Siam and Cochin China: exhibiting a view of the actual state of those kingdoms của quan chức ngoại giao người Scottland John Crawfurd ghi lại những gì tai nghe mắt khi đi công cán tại Xiêm La vào những năm 1821-1822, Xiêm La là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới thời bấy giờ. Vào thời điểm ông Crawfurd sang Xiêm, thương mại và ngoại thương Xiêm La đã rất phát triển và phồn thịnh. Hệ thống chợ xuất hiện ở khắp mọi nơi, đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hoá trong và ngoài nước. Có khoảng 60 nghìn người tham gia vào mạng lưới buôn bán và trao đổi ở thị trường trong nước. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XIX, hàng năm Xiêm đã xuất khẩu sang Trung Quốc khoảng 3,6 triệu tấn hạt tiêu, 1,8 triệu tấn đường, 6 tấn ngà voi và nhiều mặt hàng quý hiếm khác. Ông Crawfurd có ghi lại, lợi nhuận buôn bán với Trung Quốc thời kỳ này đã đem về cho vương quốc Xiêm hàng năm khoảng 76.556 bảng Anh.
Bên cạnh đối tác làm ăn số một Trung Hoa, tiểu vương quốc trên bán đảo Malacca và quần đảo Indonesia cũng giữ vai trò đối tác quan trọng đứng hàng thứ hai trong việc hoạt động thương mại buôn bán của Xiêm La. Vào 1825, có từ 30 đến 40 tàu Xiêm tới các cảng của người Mã Lai; 26 tàu đến Singapore (lúc này là thuộc địa của Anh); và 6 tàu tới các cảng Java và Borneo. Xiêm cũng có quan hệ buôn bán rộng rãi với Campuchia, Lào, Việt Nam.
Trong nửa đầu thế kỷ XIX, tổng giá trị buôn bán hàng năm trong xuất khẩu của Xiêm có năm lên tới 5,5 triệu baht; còn trong nhập khẩu là 4,3 triệu baht.
Năm 1851, sau 27 năm làm vua Xiêm, quốc vương Nangklao (Rama III) băng hà và cũng giống như cha của ông, không truyền lại việc ai sẽ được kế vị. Hoàng gia và triều đình đã suy tôn người anh em của ông là hoàng tử Mongkut lên ngôi vua. Có thể rằng ông nhận thức được sự thông minh và tầm nhìn của người em Mongkut đối với ngai vàng, cho nên Rama III đã chọn cách không nêu tên người kế vị, do đó để lại rõ ràng ngôi vị cho người em trai của mình.
Tước vị và tôn hiệu
1788–1807: Mom Chao Chai Thap ()
1807–1808: Phra Chao Lang Thoe Phra Ong Chao Chai Thap ()
1808–1813: Phra Chao Luk Ya Thoe Phra Ong Chao Chai Thap ()
1813–1824: Phra Chao Luk Ya Thoe Kromma Muen Chetsadabodin ()
1824–1851: Somdet Phra Borommarachathirat Ramathibodi v.v... ()
thụy hiệu (Rama IV): Phrabat Somdet Phra Paramathiworaset Maha Chetsadabodin Phra Nangklao Chao Yu Hua ()
*thụy hiệu (Rama VI): Phra Bat Somdet Phra Ramadhibodi Srisindra Maha Chetsadabodin Phra Nangklao Chao Yu Hua ()
Tổ tiên
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Rama III** (31 tháng 3 năm 1788 – 2 tháng 4 năm 1851), miếu hiệu là **Phra Nangklao Chaoyuhua**, là vị vua thứ ba của Vương triều Chakri, Xiêm La. Rama III trị vì từ
**Cầu Rama III** (, , ), còn được gọi là **cầu Krungthep mới**, là một cây cầu bắc qua sông Chao Phraya tại Bangkok, Thái Lan. Cầu hoàn thành vào năm 1999 và được thiết
**Phra Bat Somdet Phra Phutthayotfa Chulalok Maharat** (, 20 tháng 3 năm 1736 – 7 tháng 9 năm 1809), tên khai sinh là **Thongduang** (), còn được gọi là **Rama I**, thụy hiệu đầy đủ
**Rama II** (24 tháng 2 năm 1767 – 21 tháng 7 năm 1824), có miếu hiệu đầy đủ là **Phra Buddha Loetla Nabhalai** (), là vị vua thứ hai của Vương triều Chakri, Xiêm La
**Rama IV**, đế hiệu là **Phra Bat Somdet Phra Poramenthra Maha Mongkut Phra Chom Klao Chao Yu Hua** (), là vị vua thứ tư của Vương triều Chakri và là con trai của Rama II.
Tên người Thái Lan có địa vị chính trị thường bao gồm phần danh xưng và tước hiệu. Các địa vị khác nhau sẽ có danh xưng và tước hiệu khác nhau. ## Quốc vương
**Baht** (; , , phát âm **bạt**, ký hiệu **฿**, mã ISO 4217 là **THB**) là đơn vị tiền tệ của Thái Lan. Đồng baht được chia ra 100 _satang_ (, ). Ngân hàng Thái
**Rattanakosin** () hay **Xiêm** (สยาม) (1782-1932) là tên nước Thái Lan vào đầu thời Triều Chakri. Xiêm là một quốc gia quân chủ tuyệt đối hùng mạnh, có các chư hầu là Campuchia, Lào, và
**Chao Phraya Bodin Decha** (1777-1849) (), là viên tướng Thái Lan đầu thế kỷ 19. ## Thân thế và sự nghiệp Ông tên thật là **Sing Singhaseni** (สิงห์ สิงหเสนี). Ông còn được gọi với các
**Triều đại Chakri** cai trị Thái Lan kể từ khi thiết lập thời đại Ratthanakosin năm 1782 sau khi vua Taksin của Thonburi đã bị tuyên bố là điên và kinh đô của Xiêm được
**Chiến tranh Việt – Xiêm** (1833–1834) là một cuộc chiến gồm hai đợt tấn công của quân Xiêm vào lãnh thổ Việt Nam thời Nhà Nguyễn của vua Minh Mạng, đợt thứ nhất khởi đầu
**_Somdet Chao Phraya_ Borom Maha Prayurawongse** (, rtgs:_Somdet Chao Phraya Borom Maha Prayurawong_) cá nhân tên **Tish Bunnag** (, rtgs: _Dit Bunnak_; 1788–1855) là một trong những nhân vật chính trị nổi bật nhất giữa
**Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi
nhỏ|Bức đại tượng trong Wat Pho nhỏ|Lòng bàn chân mô tả chi tiết 108 tướng tốt của Đức Phật Thích Ca **Chùa Phật Nằm** hay **Wat Pho** (tiếng Thái: **วัดโพธิ์**, đọc là Vát Bo), tên
**Chùa Phật Ngọc** hay **Wat Phra Kaew** (tiếng Thái: **วัดพระแก้ว**, đọc là wắt-p'rắ-keo^ ), tên chính thức là **Wat Phra Sri Rattana Satsadaram** (tiếng Thái: **วัดพระศรีรัตนศาสดาราม**, phiên âm: wắt-p'rắ-xỉ-rắt-tặ-nắ-xạt-xặ-đa-ram ) là một ngôi chùa ở
**Thái Lan**, gọi ngắn là **Thái**, quốc hiệu là **Vương quốc Thái Lan**, là một quốc gia ở Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanmar, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam
Dưới đây là **danh sách trung tâm thương mại nổi bật tại Băng Cốc, Thái Lan**: ## A thumb|[[Gaysorn Amarin]] * Gaysorn Amarin, Ratchaprasong * Asiatique, Ga Saphan Taksin BTS ## B * Bangkok Mall,
nhỏ|Kính hiển vi được người Nhật mô tả trong quyển sách "Những câu chuyện về người Hà Lan" (xuất bản năm 1787). **Rangaku** (trong tiếng Nhật có nghĩa là **Hà Lan học**, hay gọi tắt
**Đại cung Ananta Samakhom** ( _Phra Thinang Anantasamakhom_) là một đại sảnh hoàng gia đặt tại phức hợp Cung điện Dusit ở quận Dusit, thủ đô Băng Cốc, Thái Lan. Cung do Đức vua Chulalongkorn
**Chế độ quân chủ Thái Lan** (với vua được gọi là **Quốc vương Thái Lan**, **vua Thái** hoặc **vua Xiêm** trong một số giai đoạn lịch sử) đề cập đến chế độ quân chủ lập
Toàn cảnh Wat Ratchanaddaram **Wat Ratchanaddaram** (tiếng Thái: **วัดราชนัดดาราม**, phiên âm: Vát Lát-cha-na-đa-lam) là một ngôi chùa khá lớn nằm ngay giao lộ Ratchadamnoen Klang và Mahachak Road, thuộc quận Phra Nakhon, Bangkok. Ngôi chùa
**Chùa Thiện Kiến** hay **Wat Suthat** (Vát Xu-thát), tên đầy đủ là **Wat Suthatthepwararam Ratchaworamahawihan** (tiếng Thái: **วัดสุทัศนเทพวรารามราชวรมหาวิหาร**, phiên âm: **Wạt Xủ-thát-thép-wa-ra-ram Rát-cha-wo-la-ma-hả-wi-hản**) là một trong 6 ngôi chùa nổi tiếng nhất Thái Lan nằm
thumb|Mộ vua Ang Duong. **Preah Bat Ang Duong**(1796-19 tháng 5 năm 1860) (trị vì 1841-1844, 1845-1860), (, ), tên phiên âm Hán-Việt là **Nặc Ông Đôn, Nặc Ong Đuông** (匿螉) hay **Nặc Ong Giun, Sá
thumb|337x337px|Bán đảo Đông Dương năm 1750. **Anouvong** (, , 1767-1829), hoặc Chao Anouvong, **Chao Anou**, hay **Chaiya-Xethathirath III**, sử nhà Nguyễn gọi là **A Nỗ** (阿弩), là vị vua cuối cùng của vương quốc Viêng
**Chùa Bình Minh** hay **Wat Arun** (_Vát A-lun_), tên đầy đủ là **Wat Arun Ratchawararam Ratchaworamahawihan** (tiếng Thái: **วัดอรุณราชวรารามราชวรมหาวิหาร**, phiên âm: Vát A-lun Lát-cha-va-la-lam Lát-cha-vo-la-ma-ha-vi-han) là một ngôi chùa nằm trên bờ tây sông Chao
**Bamnet Narong** () là một huyện (‘‘amphoe’’) ở tây nam tỉnh Chaiyaphum, đông bắc Thái Lan. ## Lịch sử Trong thời kỳ trị vì của vua Rama II thuộc Rattanakosin, khu vực Bamnet Narong là
**Yan Nawa** hay **Yannawa** (tiếng Thái: **ยานนาวา**, phiên âm: Dan Na-va) là một trong 50 quận (_khet_) của thành phố Băng Cốc, Thái Lan. Quận này giáp ranh với các quận (theo chiều kim đồng
**Ga trung tâm Krung Thep Aphiwat** (, , ), trước đây gọi là **Ga Bang Sue lớn** (, , ; ), là một ga trung tâm ở Băng Cốc và hiện là trung tâm đường
** Hoàng hậu Sri Suriyendra** (; ; 1767-1836) là Hoàng hậu của Xiêm, vợ của Phutthaloetla Naphalai, là người anh em họ của mình, và mẹ của Mongkut và Pinklao. Bà sau đó được đặt
Nước Lào chỉ bắt đầu từ năm 1945. Ý tưởng về một quốc gia Lào riêng biệt được hình thành từ thế kỷ 19, khi những tư tưởng phương tây về đặc tính quốc gia
Bằng chứng về sự hiện diện của con người ở các vùng cao nguyên phía bắc và trung tâm bán đảo Đông Dương đã tạo nên lãnh thổ của dân tộc Lào hiện đại từ
**Sanam Luang**(; ) là một bãi cỏ hình ô van rộng lớn, mệnh danh là "cánh đồng của Hoàng gia", dùng làm chỗ hỏa táng các nhân vật hoàng tộc Thái Lan. Đây còn là
**Mom Men** (, 1779-1809) hay **Chaofa Men** (), là một hoàng tử Xiêm La (Thái Lan). Ông là con trai của vua Taksin (Trịnh Quốc Anh). Mẹ là hoàng phi Chim Yai, một con gái
: _Đối với cầu thủ cricket người Ireland cùng tên, xem John Crawfurd (cricketer)_ **John Crawfurd** FRS (13 tháng 8 năm 1783 - 11 tháng 5 năm 1868) là một bác sĩ người Scotland, nhà
**Phra Nakhon** (; ) là một quận của Bangkok, Thái Lan. Quận Phra Nakhon có diện tích 5,5 km², dân số là 51.231 người. Nó là quận trung tâm Bangkok, bao gồm Bán đảo Rattanakosin. Những
**Bang Saphan** hay **Bangsaphan** () là một huyện (_amphoe_) ở phía nam của tỉnh Prachuap Khiri Khan, miền trung Thái Lan. Sử Việt thế kỷ 19 gọi là **Ban Tà Phan**. ## Lịch sử Bang
**Người Thái**, hay trước kia tên do bên ngoài gọi là **người Xiêm**, một dân tộc phân nhóm của nhóm sắc tộc Thái, là dân tộc chiếm đa số sống tại lãnh thổ Thái Lan
**Pom Prap Sattru Phai** (tiếng Thái: **ป้อมปราบศัตรูพ่าย**, phiên âm: Bom Bơ-láp Xát-tơ-lu Bai) là một trong 50 quận của thành phố Bangkok, Thái Lan. Các quận giáp ranh (từ phía bắc theo chiều kim đồng
**Hoàng hậu Debsirindra cúa Xiêm** (; ), trước đây là nữ hoàng Ramphoei Phamaraphirom (), sinh ra chúa Ramphoei Siriwongse (; ngày 17 tháng 7 năm 1834 - ngày 09 tháng 9 năm 1861) là
**Ngày 2 tháng 4** là ngày thứ 92 trong mỗi năm dương lịch thường (ngày thứ 93 trong mỗi năm nhuận). Còn 273 ngày nữa trong năm. ## Sự kiện ### Trong Nước * 1938
**Phanat Nikhom** () là một huyện (‘‘amphoe’’) ở phía bắc của tỉnh Chonburi, phía đông Thái Lan. ## Lịch sử Phanat Nikhom là một thành phố cổ thời Khmer. Các nhà khảo cổ đã phát
**Lom Sak** () là một huyện (_amphoe_) ở phía bắc của tỉnh Phetchabun, phía bắc Thái Lan. ## Lịch sử Huyện này được chính thức thành lập dưới thời kỳ trị vì vua Nangklao (Rama
**Wichian Buri** () là một huyện (_amphoe_) ở phía nam của tỉnh Phetchabun, phía bắc Thái Lan. ## Lịch sử Trước đây, khu vực Wichian Buri thuộc quản lý của _Mueang_ Tha Rong. Vua Rama
**Sunthorn Phu** (hay **Sunthon Phu**, , 1786–1855)là nhà thơ nổi tiếng nhất Thái Lan. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông (30.000 dòng) là sử thi _Phra Aphai Mani_. Tên phổ biến của ông lấy
Tượng của [[Thao Suranaree (Khun Ying Mo) đánh dấu trung tâm thành phố, giữa phố cổ ở phía Đông và khu phát triển mới hơn ở phía Tây.]] **Nakhon Ratchasima** (tiếng Thái: **นครราชสีมา**, phiên âm:
**Sathon** hay **Sathorn** (tiếng Thái: สาทร) là một trong 50 quận (_khet_) của Bangkok, Thái Lan. Quận này giáp 6 quận khác (từ phía bắc theo chiều kim đồng hồ): Bang Rak, Pathum Wan, Khlong
**Ga Bang Sue MRT** (, ; mã BL11) là một ga tàu điện Bangkok MRT trên Tuyến MRT Xanh Dương, nằm gần Ga nút giao Bang Sue, Băng Cốc. Nó kết nối với Tuyến SRT
**Bảo tàng Siam** () là một bảo tàng khám phá nằm ở đường Sanam Chai, Băng Cốc, Thái Lan. Bảo tàng được thành lập vào năm 2007 trên nền đất của Bộ Thương mại trước
**Phrabat Somdet Phra Pinklao Chaoyuhua** () (04 Tháng 9 năm 1808 - 07 tháng 1 năm 1866) là Nhị vương Xiêm. Ông là em trai của vua Mongkut (Rama IV), người đăng quang anh như
**Sri Sulalai** (; ) hoặc **Sri Suralai** (; , nhũ danh **Riam** (เรียม) 1770 - 1837) hay thụy hiệu đầy đủ là Chao Chom Manda Riam (), là một hoàng phi của vua Buddha Loetla