✨Di cư của người Việt Nam

Di cư của người Việt Nam

Di cư của người Việt Nam là nói đến di cư của người Việt Nam trong nước và ra nước ngoài trong lịch sử tới nay. Người Việt Nam do tác động của chiến tranh, kinh tế và chính trị đã có nhiều đợt di cư lớn.

Di cư thời phong kiến

Tiến trình Nam Tiến của dân tộc Việt Xem thêm Nam tiến

Suốt thời phong kiến, luồng di cư chủ đạo của người Việt Nam là từ bắc xuống nam. Theo sau các đợt xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ qua các triều đại là những đợt di dân lớn. Ngoài ra sử sách cũng ghi nhận một số nhóm nhỏ lẻ di cư chính trị ra nước ngoài, chủ yếu là ở Trung Quốc, đây là bộ phận bị xem là bán nước, theo gót quân xâm lược Trung Quốc, điển hình là một số hoàng thân, quốc thích nhà Trần như Trần Ích Tắc hay hoàng thân, quốc thích nhà Lê như vua Lê Chiêu Thống...

Năm 1069, vua Lý Thánh Tông mang 10 vạn quân vào đánh Chiêm Thành, sáp nhập ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh. Vua Lý Thánh Tông đặt tên cho vùng đất mới này là trại Tân Bình, lãnh thổ Đại Việt thêm vùng đất này, nay là Quảng Bình và bắc Quảng Trị. Sau khi nhà Trần thay thế nhà Lý, một bộ phận hoàng tộc họ Lý do Lý Long Tường dẫn đầu đã di cư ra nước ngoài, đến Triều Tiên sinh sống và hòa nhập với cư dân bản địa.

Năm 1306, nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Mân (Jaya Simhavarman), đổi lại là quyền kiểm soát Châu Ô và Châu Rí. Các vùng đất này được vua Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, nay thuộc vùng nam Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế, lãnh thổ Đại Việt phía nam tới Hải Vân Quan (đèo Hải Vân ngày nay).

Năm 1470, vua Lê Thánh Tông phái danh tướng Đinh Liệt cầm 20 vạn quân đánh Chiêm Thành. Năm 1471, quân Đại Việt chiếm kinh đô Vijaya (thuộc Bình Định ngày nay). Lê Thánh Tông đã sáp nhập miền bắc Chiêm Thành, từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông vào Đại Việt, đặt tên vùng đất mới là thừa tuyên Quảng Nam.

Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng phái Lê Văn Phong đem quân vào đánh nước Chiêm Thành, lấy đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc Phú Yên.

Việt Nam thời [[Trịnh-Nguyễn phân tranh|Trịnh - Nguyễn phân tranh năm 1650]] Dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, nhiều người Việt Nam ở Đàng Trong bỏ dải đất miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất làm ruộng ở Bà Rịa, Đồng Nai, Sài Gòn vốn là đất của Chân Lạp, nhưng không gặp phản kháng gì đặc biệt. Theo đó năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên nhân quan hệ hữu hảo với vua Chân Lạp Chey Chetta II (cha vợ - con rể), đã mượn vùng đất Prey Nokor (Sài Gòn ngày nay) của Chân Lạp đặt trạm và quan chức thu thuế lưu dân Việt đang sinh sống xung quanh ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa.

Năm 1658, chúa Nguyễn Phúc Tần lợi dụng lục đục trong hoàng thân nước Chân Lạp để làm chủ vùng đất người Việt đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa. Tại khu vực này lưu dân người Việt đến sinh sống ngày càng đông đúc, chúa Nguyễn có cử một đội quân để giữ gìn an ninh cũng như đặt các quan cai trị và thu thuế.

Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh chiếm phần đất còn lại cuối cùng của Chiêm Thành. Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận.

Năm 1708, chúa Nguyễn Phúc Chu thành lập Trấn Hà Tiên bao gồm Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc. Lúc đó, đây là vùng đất nằm dưới sự kiểm soát của Mạc Cửu, một người nhà Minh sang khai khẩn và cai quản từ năm 1680, gồm toàn lưu dân. Để tránh áp lực thường xuyên của Xiêm La sang cướp phá, Mạc Cửu đã dâng đất khai phá xin nội thuộc chúa Nguyễn.

Từ năm 1735 - 1739 Mạc Thiên Tứ (con trai Mạc Cửu) mở rộng đất đai kiểm soát của mình sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ. Đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong.

Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm vùng đất ngày nay là Vĩnh Long, Bến Tre, dựng dinh Long Hồ trực thuộc phủ Gia Định.

Năm 1755, chúa Nguyễn Phúc Khoát chiếm hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp từ Chân Lạp, (nay là Tân An và Gò Công).

Năm 1757, chúa Nguyễn giành đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc).

Năm 1830, vua Minh Mạng sáp nhập vùng đất Tây Nguyên ngày nay và đưa vào bản đồ Đại Nam.

Di cư thời Pháp thuộc

Chính sách di dân của chính quyền Pháp đề ra là việc mộ dân ở Bắc và Trung Kỳ đưa vào Nam làm phu đồn điền cao su hoặc nông trại miền núi Cao nguyên Trung Kỳ hay thượng du Bắc Kỳ. Riêng niên khóa 1926-27, 35.000 người dân từ Bắc và Trung Kỳ được mộ làm phu và đưa vào Nam Kỳ làm công trong các đồn điền. Năm 1930, có khoảng 50.000 công nhân làm việc trong ngành khai thác than đá, chủ yếu ở Hà Tu và Hòn Gai (Pháp gọi là Hongay) và Cẩm Phả của công ty "Société de Charbonnages du Tonkin". Hãng "Société de Charbonnages du Đông Triều" thì khai thác ở Kê Bào. Nguồn nhân lực này chủ yếu được tuyển mộ từ nông dân ở các vùng nông thôn.

Người Việt cũng được khuyến khích di cư sang Lào và Cao Miên. Thống kê năm 1908 ghi nhận 60.000 người Việt trên đất Miên. Đến năm 1921 thì tổng số người Việt ở Cao Miên là hơn 140.000 và 191.000 vào năm 1937. Cùng thời gian sau đó vào cuối thập niên 1930 thì số người Việt ở Lào đã tăng lên gần 40.000. Một số khác được đưa sang đảo Tân Thế giới và Tân Đảo làm phu mỏ và đồn điền của Pháp.

Di cư từ 1945-1954

Di cư từ 1954-1975

Sau Hiệp định Genève 1954 đã diễn ra đợt di cư lớn. Theo đó, trên 1 triệu người đã di cư từ Bắc vào Nam (trong đó có khoảng 800.000 người Công giáo) và 182.000 người từ miền Nam ra Bắc (phần lớn là lực lượng kháng chiến của Việt Minh).

Từ năm 1961, tại miền bắc Việt Nam nhiều người di dân từ đồng bằng sông Hồng lên các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc theo chính sách Xây dựng các vùng kinh tế mới của chính phủ.

Di cư từ 1975-1995

Di cư ra nước ngoài

Di tản tháng 4 năm 1975

Di tản tháng 4 năm 1975 được hiểu là hành động rời khỏi Việt Nam theo cách chính thống và có tổ chức. Khi ấy, nhiều đợt rời khỏi Việt Nam của các nhân viên, gia đình các đại sứ quán và công ty nước ngoài được các cơ quan Hoa Kỳ và các nước đồng minh tổ chức. Bắt đầu từ ngày 29 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford đã chính thức ra lệnh khởi động chương trình "Frequent Wind" để di tản quân nhân, nhân viên dân sự Hoa Kỳ và một số người Việt đã từng cộng tác hay có liên hệ với chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa để rời khỏi Việt Nam. Cùng thời điểm này, rất nhiều người Việt ở miền Nam cũng đã quyết định di tản theo chương trình trên nhưng có thể bằng phương tiện riêng. Chương trình di tản "Frequent Wind" trên nguyên tắc chỉ kéo dài từ 3 giờ 30 chiều ngày 29 tháng 4 đến đúng 21 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 - khi người lính Mỹ cuối cùng được trực thăng bốc khỏi Sài Gòn và trụ sở của Sở Tùy viên Quốc phòng (Defence Attachés Offfice, DAO) của Hoa Kỳ bị Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ cho phá nổ. Có 50.493 người (trong đó có 2.678 trẻ mồ côi Việt Nam) được di tản từ Tân Sơn Nhất.

Thuyền nhân

Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Theo số liệu của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn, trong khoảng thời gian 1975-1995 đã có 849.228 người vượt biên bằng đường biển và đường bộ. Theo số liệu của Indonesia, trong khoảng thời gian 1975-1996 đã có 250.000 người Việt Nam và Campuchia tá túc trên đảo Galang.

Di cư sang Liên Xô cũ và Đông Âu

Ở Việt Nam, các dòng lao động nước ngoài bắt đầu có từ cuối những năm 1970 cho đến những năm 1995. Người lao động Việt Nam được gửi sang các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Rất nhiều người đã về nước nhưng rất nhiều người khác đã ở lại.

Di cư trong nước

Thống nhất đất nước, chính sách "Xây dựng các vùng kinh tế mới" được mở rộng ra cả nước. Trong khi việc di dân từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng lên các tỉnh miền núi phía Bắc, nhất là các tỉnh biên giới vẫn được tiếp tục, các chương trình di chuyển lao động và di dân từ các tỉnh đồng bằng phía Bắc tới Tây Nguyên (đặc biệt là Đăk Lăk, Lâm Đồng), Đông Nam Bộ (đặc biệt là Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai), di dân từ thành phố Hồ Chí Minh [http://www.chicucptnthcm.com/chinhsach/BC-CT%20di%20dan%20KTM%2091-2005.doc] sang các địa phương nông thôn ở Đông và Tây Nam Bộ được triển khai làm lược đồ dân số có sự thay đổi.

Di cư từ 1995-nay

Di cư ra nước ngoài

Hàng năm, có khoảng 80.000 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Các lao động Việt Nam làm việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Di cư theo hôn nhân: hiện tượng cô dâu Việt Nam kết hôn với người nước ngoài.

Số lượng lớn lên đến 60.000 du học sinh Việt Nam ở nước ngoài. Riêng tại Mỹ, năm học 2011-2012 có tới 15000 sinh viên Việt Nam theo học.

Di cư trong nước

Cùng với di dân theo chính sách, xuất hiện dòng người di cư tự do lớn đến các vùng kinh tế mới: Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Phú Quốc...

Ảnh hưởng đô thị hóa với dòng di cư từ nông thôn lên thành thị và các khu công nghiệp. Người di cư đến Hà Nội và Khu Kinh tế Đông Bắc chủ yếu từ các tỉnh phía Bắc, nhất là Đồng bằng Sông Hồng, do sự gần gũi về mặt địa lý. Người di cư đến Tây Nguyên, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam bộ lại từ rất nhiều vùng khác nhau mà không có vùng nào nổi trội.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Di cư của người Việt Nam** là nói đến di cư của người Việt Nam trong nước và ra nước ngoài trong lịch sử tới nay. Người Việt Nam do tác động của chiến tranh,
**Tên người Việt Nam** được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 TCN và càng ngày càng đa dạng hơn, trong khi có ý kiến khác cho rằng: "sớm
**Đánh giá người Việt Nam** là những đánh giá và nhận xét về tư duy, tính cách, tâm lý và tập quán của người Việt Nam qua các thời kỳ khác nhau đã được một
**Họ người Việt Nam** gồm các họ của người dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số khác sống trên lãnh thổ đất nước Việt Nam. Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam
**Bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XIV** diễn ra vào ngày 22 tháng 5 năm 2016 thông qua biểu quyết trước đó của Quốc hội vào ngày 24 tháng 11 năm 2015. Qua đó,
**Người Việt** hay **người Kinh** là một dân tộc hình thành tại khu vực địa lý mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Đây là dân tộc chính, chiếm
nhỏ|327x327px|Phụ nữ Việt Nam thời kỳ [[Chiến tranh Việt Nam (miền Bắc, 1954-1959)|chiến tranh (theo học ở Leipzig, Đông Đức).]] **Phụ nữ Việt Nam** là nguồn nhân tố quan trọng đối với sự phát triển
**Cuộc bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa I**, còn là **cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa**. Cuộc bầu cử đã diễn ra tại 71 tỉnh thành
**Trung tâm Việt Nam và Lưu trữ Việt Nam Sam Johnson** là tổ chức chuyên thu thập và lưu giữ hồ sơ, tài liệu về chiến tranh Việt Nam. Trung tâm Việt Nam và Lưu
Vào ngày 14 tháng 12 năm 1995, **trận bán kết môn bóng đá nam tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1995** giữa đội tuyển Myanmar và đội tuyển Việt Nam đã diễn ra
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
Trong đời sống hôn nhân của người Việt Nam, khi trai gái lấy nhau, người Việt gọi là **đám cưới**, **lễ cưới** hoặc gọn hơn là **cưới**, gọi theo tiếng Hán-Việt là **giá thú**. Đối
**Bánh mì** là một loại baguette của Việt Nam với lớp vỏ ngoài giòn tan, ruột mềm, còn bên trong là phần nhân. Tùy theo văn hóa vùng miền hoặc sở thích cá nhân mà
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
Logo của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam ** Đường sắt Việt Nam** là một trong những ngành công nghiệp lâu đời của Việt Nam. Ngành Đường sắt Việt Nam ra đời năm 1881
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Người Việt tại Thái Lan** là những nhóm dân người Việt cư ngụ tại Thái Lan. Người Việt có mặt tại Thái Lan ít ra từ thế kỷ 18 qua nhiều đợt di cư từ
Việt Nam là quốc gia thịnh hành **tục thờ cúng động vật** xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Tín ngưỡng thờ linh thú trong các đình, đền, miếu là một trong những
Đại dịch COVID-19 tại Việt Nam bùng phát đã tác động nhất định đến xã hội Việt Nam. ## Dòng thời gian ### 2020 #### Giáo dục ##### Công lập Một số trường đã quyết
**Việt Nam** qua các thời kỳ, triều đại nhà nước khác nhau với những tên gọi hoặc quốc hiệu khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng chính thức hoặc không chính thức
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
**Người Việt tại Đức** là nhóm người ngoại quốc gốc Á lớn nhất tại quốc gia này, theo Văn phòng Thống kê Liên bang có 87.214 người có quốc tịch Việt Nam đang sinh sống
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
là cộng đồng người nước ngoài lớn thứ hai tại Nhật Bản, xếp trên cả người Triều Tiên tại Nhật Bản và chỉ xếp sau người Hoa tại Nhật Bản, theo thống kê của Bộ
**Phân biệt dân tộc ở Việt Nam** là thái độ phân biệt của người Kinh chiếm đa số đối với các dân tộc thiểu số như người Thượng, người Chăm, người Khmer Krom và người
**Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954** gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng căn bản và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội Việt Nam:
**Người Hàn Quốc tại Việt Nam**, theo thuật ngữ tiếng Việt hiện đại, là một trong những nhóm người nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam mang quốc tịch Hàn Quốc. Họ gồm chỉ
**Lá cờ của Việt Nam cộng hòa** được giới thiệu lần đầu tiên vào ngày 2 tháng 6 năm 1948, sau đó được sử dụng làm quốc kỳ của Quốc gia Việt Nam và Việt
**Vụ 39 người Việt chết trong container ở Essex, Anh Quốc** xảy ra khi cảnh sát phát hiện thi thể của 39 công dân Việt Nam đã tử vong trong thùng của một chiếc container
**Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa** () là thuật ngữ mô tả ngành kĩ nghệ chế tác phát hành và phê bình điện ảnh tại Việt Nam Cộng hòa thời kì từ 1955 đến 1975.
Chiều ngày 17 tháng 11 năm 2020, trong phiên bế mạc kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết về Ngày **bầu cử đại biểu Quốc
thế=Tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long.|nhỏ|Tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long. Thấy rõ
Việt Nam là nước có một kho tàng **nhạc cụ cổ truyền** hết sức phong phú và đa dạng. Kho tàng ấy được hình thành trong suốt hành trình cuộc sống và chiều dài lịch
**Lịch sử Thánh nhạc Công giáo Việt Nam** nói về quá trình hình thành và phát triển của dòng nhạc Thánh ca Công giáo tại Việt Nam. ## Lịch sử Khi nói đến bài thánh
**Quan hệ Đài Loan – Việt Nam** là một mối quan hệ ngoại giao phi chính thức giữa chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính quyền Trung Hoa Dân quốc.
**Opera Việt Nam** đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nhưng sự hình thành và phát triển của thanh nhạc Việt Nam nói chung và opera nói riêng mới
**Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam** là quá trình hình thành, phát triển của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem đây là đội quân từ nhân
**Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (còn gọi là _"Cờ đỏ sao vàng"_ hay _"Cờ Tổ quốc"_), nguyên gốc là quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được
nhỏ|Trại thuyền nhân Whitehead Sau Chiến tranh Việt Nam, có nhiều người Việt đã tị nạn ở Hồng Kông giữa thập niên 1970. Do chính sách nhân đạo của chính quyền thuộc địa, và dưới
nhỏ|Tỉnh lộ 943 đoạn đi qua Thị trấn [[Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang]] nhỏ|Hệ thống giao thông Việt Nam 2000 Các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không trong **mạng lưới giao thông
thumb|Bản đồ các dòng di cư sớm thời tiền sử theo [[DNA ty thể. Các con số thể hiện là Ka BP.]] **Các dòng di cư sớm thời tiền sử** bắt đầu khi Người đứng
thumb|Khẩu hiệu được giăng tại Hà Nội hậu [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Đệ nhị Thế Chiến. "Việt dân chủ Việt quốc" (_Nước Việt-Nam của người Việt-Nam)_]]**Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam**, là một hình
Công ty TNHH Tư vấn QP Việt Nam là công ty tư vấn quốc tế về đầu tư, phát triển dự án, truyền thông - quan hệ công chúng và tối ưu hóa quản lý
**Người Khmer tại Việt Nam** là bộ phận dân tộc Khmer ở Việt Nam, người Khmer là dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Người Khmer được công nhận
**Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc** (_Quan hệ Việt-Trung_, ) là mối quan hệ giữa hai nước láng giềng vì có chung biên giới trên bộ và trên biển, hai nước có chung thể
**Người Việt tại Ba Lan** tạo thành một trong những nhóm dân tộc thiểu số lớn ở Ba Lan. Cộng đồng người Việt ở Ba Lan là cộng đồng người Việt đông thứ ba ở
Công ty TNHH Tư vấn QP Việt Nam là công ty tư vấn quốc tế về đầu tư, phát triển dự án, truyền thông - quan hệ công chúng và tối ưu hóa quản lý