✨Viện Viễn Đông Bác cổ

Viện Viễn Đông Bác cổ

|- | colspan="2" style="padding-bottom: 4px; font-size: 90%; text-align: center;" | Tập tin:EFEO Paris 1.jpg
Trụ sở chính của EFEO tại Paris |- | style="background: #C5D2AA;"|   | style="background: #DEE5D1;"|   |- |valign="top" style="text-align: left;"|**||École française d'Extrême-Orient |- |valign="top" style="text-align: left;"|Thành lập|| 20 tháng 1 năm 1900 |- |valign="top" style="text-align: left;"|Lĩnh vực
nghiên cứu||valign="top"| Đông phương học |- |valign="top" style="text-align: left;"|Giám đốc
  – Nhiệm kỳ|| Franciscus Verellen
2004 – |- |valign="top" style="text-align: left;"|
Trụ sở|| 22 đại lộ Président Wilson
Quận 16, Paris |- |valign="top" style="text-align: left;"|
Chi nhánh|| 17 trung tâm tại 12 quốc gia |- |valign="top" style="text-align: left;"|Chi nhánh Hà Nội,
Việt Nam|| 1 phố Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
ĐT: +84.4 38220623 |- |valign="top" style="text-align: left;"|**
|| [http://www.efeo.fr/ http://www.efeo.fr/] |- | style="background: #C5D2AA;"|   | style="background: #DEE5D1;"|   |} Viện Viễn Đông Bác cổ (tiếng Pháp: École française d'Extrême-Orient, viết tắt EFEO) là một trung tâm nghiên cứu của Pháp về Đông phương học, chủ yếu trên thực địa. Tiền thân là Phái đoàn Khảo cổ tại Đông Dương từ năm 1898 và chính thức thành lập với tên gọi Viện Viễn Đông Bác cổ ngày 20 tháng 1 năm 1900, Viện có nhiệm vụ nghiên cứu, khai quật khảo cổ trên toàn bán đảo Đông Dương. Trụ sở đầu tiên của Viện Viễn Đông Bác Cổ ở Sài Gòn, Nam Kỳ trong ngày đầu thành lập năm 1900, tới năm 1902 Viện dời ra Hà Nội. Bởi các biến động của thời cuộc chiến tranh, năm 1957, Viện phải rời Hà Nội tới Campuchia, sau đó lại rời Phnôm Pênh về Paris năm 1975. Hiện nay, Viện Viễn Đông Bác cổ thuộc Bộ Giáo dục đại học và Nghiên cứu Pháp, có 17 trung tâm nghiên cứu tại 12 quốc gia châu Á.

Trong hơn một thế kỷ tồn tại, Viện Viễn Đông Bác cổ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về Đông phương học. Tạp chí nghiên cứu Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient (Tập san Viện Viễn Đông Bác cổ, viết tắt BEFEO), đã trở nên quen thuộc trong phần danh mục tham khảo của nhiều sách, bài viết về khảo cổ và lịch sử Á châu. Viện Viễn Đông Bác cổ cũng có những ảnh hưởng quan trọng đối với các sử gia Việt Nam thế kỷ 20.

Lịch sử

Thời kỳ Đông Dương

nhỏ|Bảo tàng Louis Finot của EFEO đầu thế kỷ 20, nay là [[Bảo tàng Lịch sử Việt Nam]] Viện Viễn Đông Bác cổ được thành lập năm 1900 nhờ sự thúc đẩy của Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn chương (Académie des Inscriptions et Belles-Lettres) và Chính phủ Liên bang Đông Dương. Trong khi Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn chương mong muốn gửi những nhà nghiên cứu tới châu Á thì chính phủ toàn quyền Đông Dương muốn thành lập một cơ quan để tìm hiểu và bảo tồn các di sản văn hóa Đông Dương.

Năm 1902, trụ sở của EFEO được đặt tại Hà Nội với nhiệm vụ chính là khai quật khảo cổ, thu thập các tài liệu viết tay, bảo tồn các công trình, nghiên cứu về dân tộc học, ngôn ngữ và lịch sử các nước châu Á, từ Ấn Độ cho tới Nhật Bản. Năm 1907, EFEO nhận trách nhiệm bảo tồn quần thể kiến trúc Angkor và còn theo đuổi dự án này trong nhiều năm. Với tham vọng rộng lớn về mặt khoa học, EFEO xây dựng ở Hà Nội một thư viện và bảo tàng, về sau trở thành Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Tiếp theo đó, EFEO cũng thành lập nhiều bảo tàng khác ở Đà Nẵng, Sài Gòn, Huế, Phnôm Pênh, Battambang... Giai đoạn khởi đầu của EFEO ghi dấu ấn nhờ những đóng góp của các học giả, những tên tuổi lớn về Đông phương học như Paul Pelliot, Henri Maspero, Paul Demiéville về Hán học, Louis Finot, George Cœdès về khoa văn khắc Đông Dương, Henri Parmentier về khảo cổ học, Paul Mus về lịch sử tôn giáo...

Tuy vậy, EFEO cũng đã thành lập được nhiều chi nhánh ở châu Á. Từ 1955 tại Ấn Độ, các thành viên của EFEO cộng tác với Trung tâm Pháp ở Puducherry (Institut français à Pondichéry, IFP), tham gia nghiên cứu văn học và nghệ thuật vùng Nam Ấn. Trung tâm ở Puducherry về sau còn có thêm một chi nhánh ở Pune. Cũng khoảng cuối thập niên 1950, một trung tâm được thành lập tại Jakarta chuyên về nghiên cứu văn khắc tôn giáo và khảo cổ. Từ năm 1968, tại Nhật Bản, Viện Hobogirin tập trung nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Trung Hoa và Nhật. Vài năm sau đó, một trung tâm khác về Phật giáo Đông Nam Á được mở tại Chiang Mai, Thái Lan. Các học giả quan trọng của EFEO giai đoạn này có thể kể tới Jean Filliozat về Ấn Độ học, Rolf Stein về Hán học và Tây Tạng học, Bernard Philippe Groslier về khảo cổ ở Angkor, Charles Archaimbault về dân tộc học, Maurice Durand nghiên cứu về Việt Nam...

Sau Hà Nội, EFEO không ngừng mở thêm các chi nhánh, tại Hồng Kông, Kuala Lumpur, Đài Bắc, Tokyo, Seoul và cuối cùng tại Bắc Kinh vào năm 1997. Cùng với sự phát triển trên phương diện địa lý, lĩnh vực nghiên cứu của EFEO cũng mở rộng, hướng dần về đương đại: nhân khẩu học Đông Dương, nghiên cứu về thương mại ở Ấn Độ, các thay đổi về tôn giáo tại Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia... Thế kỷ 21, Viện Viễn Đông Bác cổ tiếp tục tham gia các chương trình hợp tác quốc tế, nghiên cứu về châu Á.

Tổ chức

Hiện nay, EFEO là một cơ quan thuộc Bộ Giáo dục đại học và Nghiên cứu (Ministère de l'Enseignement supérieur et de la Recherche) với nhiệm vụ tìm hiểu về các nền văn minh cổ châu Á chủ yếu trên thực địa. Lĩnh vực nghiên cứu của EFEO trải dài từ Ấn Độ cho tới Trung Hoa và Nhật Bản, bao trùm toàn bộ Đông Nam Á theo ba hướng chính: các truyền thống về công trình kiến trúc, truyền thống chữ viết và tôn giáo, nghiên cứu về lịch sử và nhân loại học. 17 trung tâm và chi nhánh tại 12 quốc gia, bao gồm các nhà khoa học địa phương và quốc tế, giúp EFEO tiến hành các nghiên cứu về khảo cổ, lịch sử, tôn giáo... Bên cạnh những trung tâm riêng biệt, nhiều chi nhánh của EFEO được đặt trong các trường đại học, viện hàn lâm, bảo tàng...

Trụ sở tại Paris

Trụ sở chính của EFEO được đặt trong Maison de l’Asie (Nhà Á châu), số 22 đại lộ Président Wilson, Quận 16 thành phố Paris (). Đây là trung tâm chính có vai trò kết nối các chi nhánh ở nước ngoài. Maison de l’Asie đồng thời cũng là một địa điểm chuyên nghiên cứu về châu Á, nơi tổ chức các hội nghị, gặp gỡ, giới thiệu các tác phẩm mới liên quan đến châu Á. EFEO tại Paris còn mang chức năng một nhà xuất bản và cũng là trung tâm lưu trữ với một thư viện và một phòng trữ ảnh.

Thư viện

Lão oa giảng độc, còn gọi là Thầy đồ Cóc, tranh dân gian Việt Nam lưu trữ tại thư viện EFEO Thư viện của EFEO được thành lập ở Hà Nội vào năm 1903. Sự phát triển của thư viện chính là bằng chứng cho các thành tựu nghiên cứu của EFEO. Trong thời kỳ EFEO tại Hà Nội và Phnôm Pênh, từ 1900 tới 1957, thư viện đã tập hợp nhiều các tác phẩm in và viết tay liên quan tới Đông Dương. Nhờ mua lại, trao đổi, bộ sưu tập của thư viện không ngừng tăng lên. Vào năm 1944, thư viện ở Hà Nội đã tập trung được 80 ngàn cuốn sách, bao gồm cả các tác phẩm viết tay, trong đó một nửa là tài liệu với ngôn ngữ châu Âu. Vào cuối thời kỳ thuộc địa, theo các thỏa thuận giữa Viện Viễn Đông Bác cổ và ba quốc gia Đông Dương, những tài liệu với ngôn ngữ châu Âu thuộc về viện, còn những tài liệu ngôn ngữ địa phương thuộc về ba quốc gia bản địa. EFEO đã tiến hành sao chụp lại các tài liệu này rồi gửi về Paris. Hơn 12 ngàn cuốn sách, chủ yếu về Đông Nam Á, trở thành hạt nhân xây dựng nên thư viện tại Paris, được mở cửa vào năm 1968.

Thư viện EFEO ngày nay tập hợp khoảng 83 ngàn bản chuyên khảo vào hơn 1000 tựa ấn phẩm định kỳ cùng nhiều tranh in tay, các bức hình. Các tài liệu lưu trữ thuộc nhiều lĩnh vực hơn, bao gồm cả Nhật Bản, Trung Quốc và Nam Á. EFEO còn hợp tác với những cơ sở có lưu trữ tương tự (Collège de France, Thư viện ngôn ngữ phương Đông) và trao đổi ấn phẩm cùng một số trung tâm nghiên cứu châu Á khác ở châu Âu và Mỹ.

Hiện nay bộ sưu tập của EFEO gồm khoảng 30 ngàn bức ảnh về Campuchia, 7 ngàn về Việt Nam, 3 ngàn về Trung Hoa, 3 ngàn về Lào và một số lượng lớn nữa về Ấn Độ. Một phần trong số tư liệu này đã được số hóa. Cùng với Viện Hán Nôm, EFEO tiến hành dự án kiểm kê và công bố những tài liệu văn khắc trên các bia đá ở Việt Nam. EFEO cũng tham gia giám định hoàng thành Thăng Long, nghiên cứu về các nhóm dân tộc phía Bắc, lịch sử các triều đại Đại Việt và tiếp tục chương trình khảo cổ Óc Eo ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Trung tâm EFEO Thành phố Hồ Chí Minh

Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp đầu tiên tại Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) vào năm 1900, sau đó hai năm cơ quan EFEO mới chuyển văn phòng đặt tại Hà Nội.

Để tăng cường mở rộng sự hợp tác nghiên cứu giữa EFEO và các nhà nghiên cứu ở phía Nam, Tòa trụ sở Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO) chính thức khánh thành vào ngày 25 tháng 2 năm 2013 tại 113 Hai Bà Trưng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh để đi vào hoạt động nghiên cứu tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

Trung tâm EFEO Puducherry

Trung tâm của EFEO tại Puducherry Năm 1955, nhà Ấn Độ học nổi tiếng Jean Filliozat, người giữ chức giám đốc EFEO hơn 20 năm, với sự ủng hộ của Thủ tướng Jawaharlal Nehru, đã mở một viện tại Puducherry chuyên nghiên cứu về Ấn Độ (Institut français à Pondichéry, IFP). Trong vòng nhiều năm, các thành viên của EFEO nhận trách nhiệm trong những chương trình của IFP về Ấn Độ học (triết học, lịch sử nghệ thuật, kiến trúc...). Hợp tác này vẫn còn tiếp tục sau năm 1964, khi EFEO có được trụ sở đầu tiên để lưu trữ các bộ sưu tập của mình. Đồng thời nơi đây cũng trở thành địa điểm để các học giả Pháp của EFEO gặp gỡ, hợp tác với các đồng nghiệp Ấn Độ.

Đội ngũ của trung tâm hiện nay bao gồm các nhà nghiên cứu, kỹ thuật viên cả người châu Âu và Ấn Độ. Rất nhiều kết quả được in trong bộ Collection Indologie (Bộ sưu tập Ấn Độ học) do EFEO và IFP phát hành hiện đã vượt quá 100 cuốn. Những nghiên cứu về văn học, khảo cổ, lịch sử cổ và đương đại của Ấn Độ còn được EFEO công bố trên các tạp chí chuyên ngành thế giới.

Cùng các nhà khoa học Trung Quốc, EFEO tiến hành các dự án nghiên cứu về thủy nông và xã hội miền Bắc Trung Quốc, về đạo Lão, kiến trúc quốc phòng thời Minh và Thanh, lịch sử văn hóa, ngành in và xuất bản ở Huệ Châu... Một phần nhiều trong số những dự án này được các tổ chức quốc tế tài trợ. Trung tâm EFEO Bắc Kinh cũng xuất bản Pháp quốc Hán học (法国汉学 - Sinologie française), một tạp chí hàng năm bằng tiếng Trung Quốc do Bộ Ngoại giáo Pháp giúp đỡ.

Trung tâm EFEO Kyōto

Thành lập vào năm 1966, trung tâm EFEO Kyōto ngày nay có nhiệm vụ nghiên cứu về Nhật Bản trên nhiều lĩnh vực đa dạng thuộc khoa học xã hội. Từ năm 2003, EFEO Kyōto hợp tác với Viện nghiên cứu cổ học của Đại học Kyōto trong nhiều hoạt động, trong đó có việc tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề nghiên cứu. Bên cạnh đó, EFEO Kyōto cũng phối hợp cùng nhiều trung tâm nghiên cứu khác, cả Nhật Bản và Hoa Kỳ. Từ 2002, EFEO Kyōto tổ chức hàng tháng Kyoto Lectures, một hội thảo về Nhật Bản học và Hán học. Trung tâm còn phát hành Cahiers d'Extrême-Asie, tạp chí khoa học tôn giáo bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, kết nối giới nghiên cứu Pháp và quốc tế.

EFEO Kyōto cũng quản lý một thư viện đặc biệt phong phú về tôn giáo phương Đông, chủ yếu là Phật giáo và đạo Lão. Vào năm 1984, thư viện đã được giáo sư Étienne Lamotte di tặng lại một bộ sưu tập lớn. Các tài liệu từ Kyōto cũng góp phần làm phong phú cho thư viện EFEO ở Paris..

|} |width="50%"|

|} |}

Nghiên cứu khoa học và các hoạt động

trái|[[Angkor Thom, công trình EFEO tham gia trùng tu]] Cuối thế kỷ 19, việc nghiên cứu về châu Á có nhiều thay đổi lớn. Sự phát triển của khoa học kéo theo những phương tiện nghiên cứu mới. Cách tiếp cận mang tính phương pháp luận làm thay đổi việc xử lý các tư liệu về phương Đông. Mặt khác, để khảo cứu các công trình kiến trúc, những văn bia, để điều tra về dân tộc học, ngôn ngữ... đòi hỏi các học giả phải có mặt tại chính châu Á. Việc tập hợp, bảo tồn các hiện vật, tư liệu cũng đòi hỏi các điều kiện phức tạp, bắt buộc phải thành lập những viện nghiên cứu tại bản địa.

Năm 1898, các học giả hàng đầu của Pháp về Ấn Độ học đã đệ trình dự án xây dựng một Trường Chandannagar thuộc Pháp nhưng không nhận được sự quan tâm của giới cầm quyền. Nhiệm vụ của EFEO giai đoạn đầu bao gồm hai điểm chính: hoạt động nghiên cứu về khảo cổ học và ngữ văn học của bán đảo Đông Dương; góp phần vào việc nghiên cứu bác học những vùng và những nền văn minh lân cận như Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia...

Louis Finot, giám đốc đầu tiên của EFEO trình bày trong số chuyên san nhân dịp kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập viện: "...việc nghiên cứu thực tế cụ thể đòi hỏi một điều khác hẳn những sự tự biện liều lĩnh của tư duy: nó đòi hỏi sự quan sát kiên trì của nhà ngôn ngữ học và nhà dân tộc học đòi hỏi sự phân tích tỉ mỷ, những sự kiện tôn giáo và xã hội, đòi hỏi sự xem xét kỹ lưỡng những công trình kiến trúc có chạm hình; nó xem nhẹ việc coi lý thuyết như một công cụ để nghiên cứu mà nắm chắc trong tay cái cuốc của nhà khảo cổ học, cái compa của nhà nhân chủng học, chiếc ống kính của nhà nhiếp ảnh và chiếc bàn chải của nhà in rập. Tất cả những công việc đó không phải là những công việc của một du khách thoảng qua. Những kết quả đó chỉ thu được trải qua quá trình lao động liên tục, có tổ chức, giống như một học viện nghiên cứu thường trực thì mới có thể có được". Vì vậy, các thành viên EFEO đã phải nghiên cứu trên các công trình kiến trúc song song với việc nghiên cứu các văn tự.

Kết quả đầu tiên của EFEO tại Đông Dương, 100 tác phẩm và 300 tập sách nhỏ bằng tiếng Khmer được tập hợp lại. Năm 1900, Viện Viễn Đông Bác cổ phát hành ấn phẩm đầu tiên: Tiền cổ học An Nam. Sau năm đầu, bốn tập san (ba tháng một kỳ) của EFEO được in thành một tập 431 trang kèm theo 75 bức ảnh minh họa và ba tấm bản đồ. Những nghiên cứu đầu tiên này bao gồm các lĩnh vực: tôn giáo, kiến trúc Chăm, văn học dân gian Việt Nam, khảo cổ học ở Lào, phong tục Campuchica... Cũng trong tập này còn có hai bài nghiên cứu về Trung Hoa và Nhật Bản. Năm 1902, Séraphin Couvreur đã đưa ra phương pháp Latinh hóa chữ Hán. Hệ thống này gần tương tự Bính âm Hán ngữ và được sử dụng rộng rãi cho tới giữa thế kỷ 20.

Với một thời gian dài nghiên cứu, thực hiện nhiều cuộc khai quật ở Đông Nam Á, EFEO đã sưu tập được một số lượng lớn hiện vật, tài liệu. Và cũng sau một thời gian dài, bởi các chính sách của EFEO, bởi các biến động lịch sử, các hiện vật này có những số phận khác nhau. Ngay từ những năm 1930, hoạt động bán lại hiện vật của EFEO đã bị báo chí Pháp chỉ trích. Tháng 1 năm 1943, 23 thùng, khoảng 8 tấn các tác phẩm điêu khắc Campuchia được EFEO gửi đến bảo tàng Tokyo. Cũng có những hiện vật được EFEO tặng lại cho chính quyền bản địa. Như ngày 3 tháng 11 năm 1942, EFEO đã tặng vua Campuchia một bức tường được điêu khắc dài 10 mét, đặt tại Vương cung Campuchia ở Phnôm Pênh. Khi EFEO phải rời Việt Nam, kho tư liệu của viện được phân chia theo nguyên tắc: những tác phẩm ngôn ngữ châu Âu thuộc về EFEO, còn các tài liệu ngôn ngữ bản địa thuộc về chính quyền Việt Nam. Tuy vậy, không ít tư liệu đã được EFEO gửi về Paris. Bộ sưu tập về Đông Nam Á của bảo tàng Guimet có một phần không nhỏ nhờ hoạt động của EFEO trong đầu thế kỷ 20.

Về mặt khoa học, EFEO đã giành được những thành tựu to lớn. Với lĩnh vực nghiên cứu trải rộng về địa lý, EFEO không đi sâu vào từng nền văn hóa. Nhưng cũng vì lý do đó, EFEO trở thành nơi gặp gỡ lý tưởng cho các viện nghiên cứu chuyên sâu. Hơn một thế kỷ hoạt động, viện cũng là cái nôi đào tạo những học giả tiêu biểu của Pháp về Đông phương học.

Một số học giả nổi tiếng

Louis Finot

[[Louis Finot, giám đốc đầu tiên của EFEO]] Louis Finot sinh năm 1864 ở Bar-sur-Aube. Sau khi tốt nghiệp ngành luật và văn chương, Finot làm việc tại Thư viện quốc gia Pháp. Cũng khoảng thời gian này, ông bắt đầu học tiếng Phạn tại École des hautes études rồi làm việc tại trường sau khi nhận bằng. Năm 1898, Louis Finot được bổ nhiệm làm giám đốc Mission archéologique en Indochine (Phái đoàn Khảo cổ tại Đông Dương) và sau đó trở thành giám đốc đầu tiên của EFEO. Chính Louis Finot đã cho phát hành những tập san đầu tiên của Viện Viễn Đông Bác cổ. Sau khi hết nhiệm kỳ vào năm 1904, Louis Finot trở về Paris rồi trở thành giáo sư của École des hautes études và Collège de France. Khoảng thời gian sau, Louis Finot lại tới Đông Dương rồi trở về Pháp năm 1918. Cuối năm 1920, Louis Finot tiếp tục trở lại Đông Dương và giữ chức giám đốc EFEO lần thứ hai. Sau năm 1926, Louis Finot sang Campuchia cùng nhóm nghiên cứu về Angkor. Năm 1930, Louis Finot rời Đông Dương về sống tại Toulon. Năm 1933, Louis Finot được bầu vào Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn chương và mất hai năm sau đó cũng tại Toulon. Trong suốt khoảng thời gian gần 40 năm, Louis Finot đã công bố nhiều công trình nghiên cứu về văn học, khảo cổ, văn khắc các nước Đông Đương.

George Cœdès

George Cœdès sinh năm 1886 tại Paris. Cœdès theo học tiếng Phạn và tiếng Khmer tại École pratique des hautes études. Năm 18 tuổi, ông đã công bố bài báo đầu tiên trên BEFEO. George Cœdès có tham gia quân ngũ một thời gian và khi kết thúc, ông trở thành thành viên của EFEO, tới Đông Dương năm cuối 1911. Sau một thời gian dài làm việc ở Xiêm, George Cœdès tới Hà Nội năm 1929 trở thành giám đốc EFEO và giữ chức vụ này cho tới khi nghỉ hưu vào năm 1947. Chính George Cœdès đã phát triển EFEO tại Hà Nội, mở thêm thư viện, phòng ảnh và bảo tàng Louis Finot, tiền thân của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam sau này. Năm 1944 tại Hà Nội, George Cœdès công bố Histoire ancienne des États hindouisés d'Extrême-Orient (Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa tại Viễn Đông). Sau chiến tranh, công trình này được xuất bản tại Paris năm 1948 với tên Les États hindouisés d'Indochine et d'Indonésie, giành được thành công lớn. Rời Đông Dương trở về Paris, George Cœdès làm việc tại bảo tàng Ennery và còn tham gia giảng dạy. Ông cũng được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học Hải ngoại (Académie des Sciences d'Outre-Mer) và Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn chương. Năm 1969, George Cœdès mất tại Paris.

Henri Parmentier

Henri Parmentier (Paris, 1871 - Phnôm Pênh, 22/2/1949) là một nhà khảo cổ học người Pháp, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa Chăm Pa cổ xưa. Ông góp phần quan trọng trong việc thu thập, bảo tồn những hiện vật thuộc nền văn hóa Chăm Pa tại Mỹ Sơn và phục hồi các di tích Angkor.

Ông cũng góp phần thực hiện các chương trình bảo tồn Angkor Wat và các nâng cấp các bộ sưu tập khảo cổ tại bảo tàng của Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội (nay là Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam). Ông cũng góp phần xây dựng Viện bảo tàng của Viện tại Đà Nẵng, (nay là Viện Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng).

Louis Malleret

Louis Malleret (1901-1970) là nhà khảo cổ học người Pháp, giám đốc của viện từ năm 1949 đến 1956, người đã tiến hành các cuộc khai quật ở Đông Nam Á vào những năm 1940, chủ yếu tại khu vực thuộc vương quốc Phù Nam và Óc Eo ở đồng bằng sông Cửu Long.

Nguyễn Văn Huyên

Nguyễn Văn Huyên sinh năm 1908 tại Hà Nội trong một gia đình trí thức. Năm 1926, ông tới Pháp học về văn và luật. Năm 1934, Nguyễn Văn Huyên trở thành người Việt Nam đầu tiên bảo vệ luận án tiến sĩ tại Sorbonne với đề tài Les chants alternés des garçons et des filles en Annam (Hát đối đáp nam nữ thanh niên ở An Nam). Năm 1935, Nguyễn Văn Huyên về Việt Nam và giảng dạy tại École du protectorat (Trường bảo hộ). Đến 1938, ông gia nhập EFEO. Đồng thời, từ năm 1941, Nguyễn Văn Huyên cũng tham gia Comité de recherches scientifiques de l'Indochine (Ban nghiên cứu khoa học Đông Dương). Sau tháng 8 năm 1945, Nguyễn Văn Huyên làm việc cho chính phủ Hồ Chí Minh, giữ chức giám đốc Đại học học vụ, tham gia xây dựng chương trình giáo dục. Từ 1946, Nguyễn Văn Huyên trở thành bộ trưởng Bộ Giáo dục quốc gia và giữ chức vụ này tới khi mất vào năm 1975. Kể từ nghiên cứu đầu tiên vào năm 1934, Nguyễn Văn Huyên đã công bố nhiều công trình giá trị về văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam.

Giám đốc của viện

  • 1898: Louis Finot
  • 1905: Alfred Foucher
  • 1908: Claude Eugène Maitre
  • 1920: Louis Finot
  • 1926: Léonard Aurousseau
  • 1929: George Cœdès
  • 1947: Paul Lévy
  • 1950: Louis Malleret
  • 1956: Jean Filliozat
  • 1977: François Gros
  • 1989: Léon Vandermeersch
  • 1993: Denys Lombard
  • 1998: Jean-Pierre Drège
  • 2004: Franciscus Verellen
  • 2014: Yves Goudineau

Viện Viễn Đông Bác cổ và Việt Nam

nhỏ|[[Bảo tàng Chăm|Bảo tàng Chàm tại Đà Nẵng của EFEO, đầu thế kỷ 20]] Được thành lập tại Việt Nam và đặt trụ sở chính ở đây trong suốt hơn nửa thế kỷ, Việt Nam học luôn là một trong những lĩnh vực nghiên cứu chính của EFEO. Qua các tập san cũng như các tổng kết, có thể thấy những đóng góp quan trọng về Việt Nam học của các học giả Viện Viễn Đông Bác cổ, cả người Pháp và người Việt. trái|nhỏ|[[Bãi đá cổ Sa Pa, địa điểm EFEO nghiên cứu và bảo tồn]] Những nghiên cứu của EFEO bao trùm nhiều lĩnh vực của Việt Nam học, như tín ngưỡng, tôn giáo, kiến trúc, văn học, ngôn ngữ, dân tộc học... và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Các khái niệm của lịch sử văn minh Việt Nam như văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh... đều do EFEO công bố trước 1954. Viện Viễn Đông Bác cổ đã sưu tầm, bảo tồn hiện vật và biện soạn nhiều tài liệu về Việt Nam học. Kho sách của EFEO về sau được chuyển giao cho Thư viện Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Thư viện Khoa học Kĩ thuật Trung ương và Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Một phần khác hiện được lưu trữ tại các thư viện, trung tâm nghiên cứu của Pháp.

Một số di tích quan trọng của Việt Nam cũng do các nhà khoa học của EFEO khám phá vào đầu thế kỷ 20. Năm 1898, Thánh địa Mỹ Sơn được một người Pháp phát hiện. Không lâu sau đó, các nhà khoa học của EFEO đã tới nghiên cứu kiến trúc, điêu khắc và các văn bia của quần thể di tích này. Kết quả đã làm sáng tỏ các câu hỏi về Mỹ Sơn, cũng như xác định được giá trị của di tích. Tên gọi các khu vực đền tháp ở đây (A10, B5...) đều do học giả của EFEO đặt. Năm 1924, Viện Viễn Đông Bác cổ tìm ra Bãi đá cổ Sa Pa ở miền Bắc Việt Nam. Đến nay, EFEO vẫn tiếp tục nghiên cứu và cùng phía Việt Nam tìm kiếm phương án bảo vệ bãi đá trước sự phá hoại của người dân và khách du lịch.

Viện Viễn Đông Bác cổ cũng xây dựng nền móng cho hệ thống bảo tàng lịch sử ở Việt Nam. Do nhu cầu bảo tồn các hiện vật lịch sử, năm 1926, EFEO thành lập bảo tàng Louis Finot, tức Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ngày nay. Tương tự ở Đà Nẵng, Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng được EFEO bảo trợ, thành lập năm 1919 mang tên học giả Henri Parmentier.

Các thành công của EFEO đã giúp đỡ cho chính giới học giả Việt Nam và cả giới Đông phương học thế giới tiến hành các nghiên cứu về Việt Nam học.

Viện Viễn Đông Bác cổ Hà Nội đã từng bị tai tiếng vì không tổ chức đúng đắn việc khảo cổ trong nửa đầu thế kỷ 20. EFEO đã dung túng những người không chuyên môn khai quật sai quy cách vì chỉ cần những người này đem về một phần di vật cho viện.

Một trong những chuyện đố kỵ ở EFEO trước đây, là sự việc bà Madeleine Colani (1866-1943) được mời làm cộng tác viên, và bà đã có những đóng góp lớn lao cho khảo cổ học Đông Dương, thể hiện ngay từ Hội nghị Tiền sử Viễn Đông lần thứ Nhất tại Hà Nội tháng 1 năm 1932. Colani là người đã khai quật nhiều địa điểm nhất, lập ra tên gọi văn hóa Hòa Bình, khảo sát tại các văn hóa Bắc Sơn, Hạ Long, Sa Huỳnh,... ở Việt Nam, và phát hiện di tích Cánh đồng Chum ở Lào. Sau này bà được vinh danh trong Hội nghị các nhà khảo cổ thế giới kỷ niệm 60 năm công trình về văn hóa Hòa Bình của bà - "The Hoabinhian 60 Years after Madeleine Colani: Anniversary Conference" - tổ chức cuối năm 1993 tại Hà Nội. "Thế mà, dù cộng tác lâu năm với trường Viễn Đông Bác cổ, bà chưa bao giờ được nhận là thành viên của Trường này. Có lẽ vì tiếng tăm nổi bật, bà là nạn nhân của ganh tị, ghen ghét đến từ các nam đồng nghiệp."(Trích Nguyễn Quang Trọng, 2003).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
|- | colspan="2" style="padding-bottom: 4px; font-size: 90%; text-align: center;" | Tập tin:EFEO Paris 1.jpg
Trụ sở chính của EFEO tại Paris |- | style="background: #C5D2AA;"|   | style="background: #DEE5D1;"|   |- |valign="top" style="text-align: left;"|****||École française
**Cánh đồng Chum** (Tiếng Lào: ທົ່ງໄຫຫິນ ) là một cảnh quan khảo cổ cự thạch ở Lào. Nó bao gồm hàng ngàn chum đá nằm rải rác dọc theo thung lũng và cánh đồng thấp
phải|Khu trưng bày di tích khảo cổ Gò Cây Thị A và B hiện nay ([[2013)]] **Khu di tích khảo cổ Gò Cây Thị** nằm giữa một cánh đồng trồng lúa rộng lớn ở thị
Kho tư liệu đồ sộ và sắp xếp khoa học của hầu hết dự án sưu tập, khảo sát và nghiên cứu do Viện Viễn đông Bác cổ EFEO Pháp trực tiếp thực hiện trong
**Đồng Khánh địa dư chí** (chữ Hán: 同慶地輿志), còn gọi là **Đồng Khánh địa dư chí lược** (chữ Hán: 同慶地輿志略) là bộ sách địa chí viết bằng chữ Hán. Theo các nhà nghiên cứu, sách
Một tảng đá trong bãi đá cổ ở Sa Pa Hình khắc trên đá **Bãi đá cổ Sa Pa** là khu di tích các khối đá có khắc hoa văn và ký tự cổ, tại
**Thần Đồng Cổ** là vị thần núi có công trong sự nghiệp chống ngoại xâm và nội xâm trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. ## Truyền thuyết Theo truyền thuyết, thần Đồng Cổ là
**Bắc Ninh** là một tỉnh ở Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
Tập san _Sử Địa_ số cuối cùng, 1975 **_Tập san Sử Địa_** là một tập san học thuật sưu tầm, khảo cứu chuyên ngành do nhóm giáo sư, sinh viên Trường Đại học Sư phạm
**Phạm Quỳnh** (chữ Hán: 范瓊; 17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là
**Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh** tọa lạc tại số 2 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Bến Nghé, Quận 1, trong khuôn viên Thảo Cầm Viên Sài Gòn. Đây là nơi bảo
**Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng** là bảo tàng trưng bày hiện vật Chăm quy mô nhất ở Việt Nam, trực thuộc Bảo tàng Đà Nẵng. Đây là bảo tàng do người Pháp xây
**Nguyễn Văn Huyên** (1905-1975) là một giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ
thumb|Louis Finot **Louis Finot** (1864 tại Bar-sur-Aube - 1935 tại Toulon) là nhà khảo cổ học người Pháp và là nhà nghiên cứu chuyên về các nền văn hóa của khu vực Đông Nam Á.
**Bắc Giang** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Bắc Giang nằm ở phía tây của tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà
thumb|Di chỉ 3 được Colani phát hiện và nghiên cứu tại [[Cánh đồng Chum, Lào.]] **Madeleine Colani** (13 tháng 8 năm 1866 – 2 tháng 6 năm 1943) là một nhà khảo cổ học người
**Trần Văn Giáp** (陳文玾, 1898 hay 1902–1973), tự **Thúc Ngọc** là một học giả Việt Nam thế kỷ 20. ## Tiểu sử Ông sinh ở Hà Nội nhưng nguyên quán ở Từ Ô, huyện Thanh
thumb|Lối vào phía trước **Bảo tàng Lịch sử Việt Nam**, cùng với Bảo tàng Cách mạng Việt Nam là hai bảo tàng đã được sáp nhập thành **Bảo tàng Lịch sử quốc gia**, tọa lạc
Thế Giới Của Truyện Nôm Năm 1998, Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại HN tổ chức xuất bản tập bản thảo LUnivers des Truyện Nôm bằng tiếng Phâp của GS. Maurice Durand. Năm 2022,
**Angkor Wat** (, ) là một quần thể đền đài tại Campuchia và là di tích tôn giáo lớn nhất thế giới, rộng 162,6 hecta (1.626.000 mét vuông). Ban đầu công trình được xây dựng
**Nguyễn Kinh Chi** (1899 – 1986) là một học giả, nhà y học, chính khách Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế. ## Xuất thân và sự nghiệp Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi sinh
Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp EFEO sở hữu một quỹ các tài liệu lưu trữ rất phong phú, mà tập tranh vẽ này là một minh chứng sống động. Với tất cả sự quan
**Henri Paul Gaston Maspero** (15 tháng 12 năm 1883 – 17 tháng 3 năm 1945), tên tiếng Trung là **Mã Bá Lạc**, là một nhà Hán học, ngôn ngữ học người Pháp. Ông là một
**Henri Parmentier** (1871 - 22 tháng 2 năm 1949) là một nhà khảo cổ học người Pháp, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa Chăm Pa cổ xưa. Ông góp phần quan trọng trong việc
nhỏ|phải|Trận thi đấu bóng rổ sinh viên ở Mỹ **Bóng rổ sinh viên** hay còn gọi là **Bóng rổ cao đẳng** (_College basketball_) là môn bóng rổ được thi đấu nội dung thể thao sinh
Cuốn sách dành cho các nhà nghiên cứu và những ai yêu mến Đà Lạt. Sach do NXB Tong Hop TPHCM va Vien Vien đong Bac Co EFEO thuc hien. Đay la cong trinh suu
**Louis Malleret** (1901-1970) là nhà khảo cổ học người Pháp, thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ–École Française d'Extrême-Orient (EFEO), người đã tiến hành các cuộc khai quật ở Đông Nam Á vào những năm 1940,
nhỏ **Philippe Papin** là một nhà sử học người Pháp, tác giả của nhiều cuốn sách và bài báo về lịch sử và văn hóa Việt Nam, đặc biệt về lịch sử Hà Nội. Philippe
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
**Hiệp hội nghệ sĩ truyền hình Bắc Kinh** (hay **Hiệp hội tầm nhìn Bắc Kinh**) được chính quyền thành phố Bắc Kinh phê duyệt thành lập vào năm 1985 và được Liên đoàn Văn học
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Bắc Kinh** (Tiếng Trung Quốc: **北京市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Běijīng shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Bắc Kinh thị Nhân dân Chính phủ
thumb|Tranh vẽ Viện Quý Tộc ngày xưa. Viện này bị cháy năm 1834. **Viện Quý tộc** (tiếng Anh: _House of Lords_) là thượng viện của Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
**Viên Thiệu** (chữ Hán: 袁紹; 154 - 28 tháng 6 năm 202), tên tự là **Bản Sơ** (本初), là một tướng lĩnh nhà Đông Hán và lãnh chúa quân phiệt vào đầu thời Tam Quốc
**Viên Thế Khải** (; 1859 - 1916), tự là **Uy Đình** (慰亭), hiệu là **Dung Am** (容庵); là một đại thần cuối thời nhà Thanh và là Đại Tổng thống thứ hai của Trung Hoa
**Bắc Ireland** (, ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ở đông bắc của đảo Ireland, giáp với Cộng hòa Ireland ở phía nam và phía tây.
**Đông Anh** là một huyện ngoại thành thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Đông Anh nằm ở phía bắc của thủ đô Hà Nội, nằm cách trung tâm thành phố
**Hà Bắc** (; bính âm bưu chính: **Hopeh**) là một tỉnh nằm ở phía bắc của Trung Quốc. Giản xưng của Hà Bắc là Ký, Hán tự: "", theo tên Ký châu thời Nhà Hán,
**Sơn Đông** () là một tỉnh ven biển phía đông Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Đông là tỉnh đông thứ hai về số dân, đứng thứ ba về kinh tế Trung Quốc với 100,4 triệu
**Chiến cục Đông Xuân 1953-1954** là tên gọi để chỉ một chuỗi các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương của lực lượng vũ trang Quân đội Nhân dân Việt Nam
**Chiến dịch tấn công Viên** là một trong các chiến dịch quân sự lớn cuối cùng ở châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch do Phương diện quân Ukraina 3 và
thumb|Toàn cảnh Hàn Lâm viện thời [[Khang Hi.]] :_Bài viết này nói về một cơ quan trong nhà nước phong kiến Á Đông thời xưa. Để tìm hiểu về các cơ quan học thuật nghiên
**Gấu xám Bắc Mỹ** (tên khoa học **_Ursus arctos horribilis_**; tiếng Anh: **Grizzly bear**), còn được gọi là **gấu đầu bạc**, **gấu xám**, hoặc **gấu nâu Bắc Mỹ**, là một **_phân loài khác_** của gấu
**Y học bệnh viện** là một chuyên ngành y tế tồn tại ở một số quốc gia như một nhánh của nội khoa, có bổn phận chăm sóc các bệnh nhân nhập viện cấp tính.
**Chính phủ Bắc Kinh Trung Hoa Dân Quốc** là chỉ chính phủ trung ương đặt thủ đô tại Bắc Kinh trong thời kỳ đầu kiến quốc Trung Hoa Dân Quốc, do nhân sĩ Bắc Dương