✨Chiến cục Đông Xuân 1953–1954

Chiến cục Đông Xuân 1953–1954

Chiến cục Đông Xuân 1953-1954 là tên gọi để chỉ một chuỗi các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương của lực lượng vũ trang Quân đội Nhân dân Việt Nam phối hợp với các lực lượng kháng chiến Lào, Campuchia trong chiến tranh Đông Dương (1945 – 1954). Mục đích nhằm đánh bại Kế hoạch Navarre, làm thất bại kế hoạch của Pháp và Mĩ muốn đảo ngược tình hình bằng một thắng lợi quyết định; làm thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho ba nước Đông Dương.

Hoàn cảnh ra đời

Tình thế chiến trường Đông Dương năm 1953

Sau 8 năm tiến hành chiến tranh, quân Pháp đã bị sa lầy trong một cuộc chiến tiêu hao không có lối thoát. Quân Pháp sa lầy và suy yếu nghiêm trọng: các chiến dịch liên tục bị thất bại, số quân thiệt hại từ đầu cuộc chiến đã lên đến 390.000 quân, vùng chiếm đóng bị thu hẹp. Quân Pháp một mặt phải tập trung lực lượng để mong xoay chuyển tình thế, mặt khác lại phải lo phân tán quân để chiếm đất giành dân, đối phó với du kích. Mâu thuẫn giữa 2 chiến lược ngày càng sâu sắc, không thể tháo gỡ.

Chi phí cho chiến tranh ngày càng cao làm cho nền kinh tế tài chính Pháp kiệt quệ. Tình hình chính trị xã hội bất ổn, nhiều chính phủ lập lên đổ xuống nhiều lần. Nước Pháp hầu như không còn đủ sức chịu đựng gánh nặng chiến tranh Đông Dương. Cuộc chiến sang năm thứ chín đã chứng tỏ Pháp chỉ còn cách duy nhất là tìm một "lối thoát danh dự", nếu không muốn dâng Đông Dương cho Mỹ.

Trong khi đó, lực lượng kháng chiến của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đã giải phóng nhiều khu vực rộng lớn ở Tây Nguyên, khu 5, các tỉnh Cao – Bắc – Lạng,... và nhiều khu vực ở đồng bằng Bắc bộ, kiểm soát hơn 2/3 lãnh thổ. Các đơn vị đã được tổ chức đến cấp sư đoàn, các binh chủng pháo binh và pháo cao xạ đã được huấn luyện hoàn thiện.

Trước tình hình đó, để cứu vãn tình thế, Pháp tranh thủ thêm viện trợ của Mỹ, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm ra một lối thoát "trong thắng lợi". Viện trợ của Mỹ cho Pháp tăng vọt, chiếm gần 80% chiến phí của Pháp. Pháp đề nghị Mỹ viện trợ 650 triệu đô la cho niên khóa 1953, và được chấp nhận 385 triệu. Mỹ hứa năm 1954 sẽ tăng viện trợ cho Pháp tại Đông Dương lên gấp đôi. Mỹ cũng chuyển giao cho Pháp nhiều trang thiết bị, vũ khí, trong đó có 123 máy bay và 212 tàu chiến các loại.

Ngày 7/5/1953, với sự thỏa thuận của Mỹ, Pháp cử tướng Henri Navarre sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp. Henri Navarre là đại tướng 5 sao, 55 tuổi, đang phụ trách nhiệm vụ Tham mưu trưởng cho Thống tướng Juin ở cơ quan phòng thủ OTAN (Cơ quan thuộc NATO). Navarre chưa hề bước chân tới Đông Dương, nên ban đầu Navarre đã từ chối, nhưng Thủ tướng Mayer khẩn khoản: "Việc Đại tướng không biết chút gì về Đông Dương cũng là một lý do để tôi cử đại tướng. Đại tướng sẽ nhìn vấn đề bằng một cặp mắt mới mẻ... Chúng ta đang bị kẹt trong một ngõ cụt. Chúng ta phải tìm một lối thoát danh dự cho nước Pháp, Đại tướng hãy giúp chúng tôi"

Ngày 21 tháng 5 năm 1953 tướng Navarre, có tướng Không quân Bodet và tướng Gambiez phụ tá, tới sân bay Gia Lâm cùng với Tổng trưởng Letourneau. Navarre điều tra và nghiên cứu tình hình Đông Dương trong một tháng, rồi trở về Pháp tường trình kết quả trước Hội đồng các Tham mưu trưởng do Thống chế Juin chủ tọa ngày ngày 17 tháng 7 năm 1953. Ngày 24-7, Navarre trình bày kế hoạch trước Hội đồng Quốc phòng do Tổng thống Pháp chủ tọa. Kế hoạch quân sự Navarre ra đời.

Kế hoạch Navarre

Kế hoạch quân sự Navarre là kế hoạch chiến lược có quy mô rộng lớn, thể hiện sự cố gắng lớn nhất và cũng là cuối cùng của quân đội Pháp, có sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược tại Đông Dương.

Kế hoạch này ra đời nhằm tìm kiếm một chiến thắng quân sự quyết định để làm cơ sở cho một cuộc thảo luận hòa bình trên thế mạnh. Kế hoạch của Bộ Chỉ huy Pháp tại Đông Dương gồm hai bước:

  • Bước thứ nhất: Thu Đông 1953 và Xuân 1954 giữ thế phòng ngự ở miền Bắc, tập trung một lực lượng cơ động lớn ở đồng bằng Bắc Bộ để đối phó với cuộc tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam; thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam nhằm chiếm đóng ba tỉnh ở đồng bằng Liên khu 5; đồng thời đẩy mạnh việc mở rộng lực lượng bản địa hỗ trợ là Quân đội Quốc gia Việt Nam và xây dựng một đội quân cơ động lớn đủ sức đánh bại các đại đoàn chủ lực Việt Minh.
  • Bước thứ hai: Từ Thu Đông năm 1954, sau khi đã hoàn thành những mục tiêu trên, sẽ dồn toàn lực ra Bắc, chuyển sang tiến công chiến lược trên chiến trường chính giành thắng lợi lớn về quân sự, buộc Việt Minh phải chấp nhận điều đình theo những điều kiện của Pháp, nếu khước từ, quân cơ động chiến lược của Pháp sẽ tập trung mọi nỗ lực loại trừ chủ lực Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Để thực hiện kế hoạch này, Pháp cho tiến hành xây dựng và tập trung lực lượng cơ động lớn, mở rộng quân đội bản địa - Quân đội Quốc gia Việt Nam, càn quét bình định vùng kiểm soát. Thực hành tấn công chiến lược ở vùng Khu V,... Navarre được nhà nước Pháp cấp thêm cho 9 tiểu đoàn tinh nhuệ, tăng cường bắt lính và phát triển quân đánh thuê bản xứ, chuyển quân từ các chiến trường khác tập trung về đồng bằng Bắc Bộ lên đến 84 tiểu đoàn.

Điều quan trọng hơn, Kế hoạch Navarre được Mỹ tán thành. Mỹ gánh chịu mọi khoản chi phí cho kế hoạch đó, gồm gần 400 triệu đôla. Tính đến tháng 1-1954, riêng về vũ khí và phương tiện chiến tranh, Mỹ đã viện trợ cho quân Pháp ở Đông Dương 360 máy bay, 1.400 xe tăng và xe bọc thép, 390 tàu chiến và tàu quân sự, 16.000 xe quân sự các loại, 175.000 súng trường và súng máy.

Thời gian này ở tất cả các cấp bộ trong quân đội viễn chinh Pháp đều có cố vấn Mỹ. Người Mỹ có thể đến bất cứ nơi nào kiểm tra tình hình không cần sự chấp thuận của Tổng chỉ huy Pháp. Sự phụ thuộc quá nhiều của Pháp vào Mỹ khiến tướng Navarre than phiền trong hồi ký: "Địa vị của chúng ta đã chuyển thành địa vị của một kẻ đánh thuê đơn thuần cho Mỹ".

Trước khi vào mùa khô năm 1953, Navarre đã đưa lực lượng cơ động chiến lược và chiến thuật lên tới 82 tiểu đoàn. Với việc phát triển ồ ạt quân đội bản xứ người Việt liên kết theo chủ trương của Mỹ, và quân tăng viện mới đưa từ Pháp sang, từ chiến trường Triều Tiên về, Navarre đã tổ chức được 18 binh đoàn cơ động chiến lược, trong đó có 11 binh đoàn Âu Phi, 7 binh đoàn lính Việt. Navarre tập trung già nửa số quân cơ động, 44 tiểu đoàn, ở đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có 7 binh đoàn cơ động mạnh được tổ chức từ trước, để đối phó với cuộc tiến công của QĐNDVN trên chiến trường chính.

Chủ trương của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Trước mùa khô 1953-1954, so sánh lực lượng về quân số, Pháp đã vượt lên khá xa. Tổng quân số của Pháp là 445.000 người, gồm 146.000 quân Âu Phi (33%) và 299.000 quân đánh thuê bản xứ của Quốc gia Việt Nam (67%). Tổng quân số của Quân đội Nhân dân Việt Nam là 252.000 người. Như vậy, quân Pháp đông hơn 193.000 người. Riêng quân đội đánh thuê bản xứ của Quốc gia Việt Nam cũng đã đông hơn 47.000 người.

Lực lượng cụ thể 2 bên lúc này như sau:

– Về bộ binh, Pháp có 267 tiểu đoàn. Về pháo binh, Pháp có 25 tiểu đoàn; quân bản địa có 8 tiểu đoàn. Về cơ giới, Pháp có 10 trung đoàn, 6 tiểu đoàn và 10 đại đội; quân bản địa có 1 trung đoàn và 7 đại đội. Về không quân, Pháp có 580 máy bay; quân bản địa có 25 máy bay thám thính và liên lạc. Về hải quân, Pháp có 391 tàu; quân bản địa có 104 tàu loại nhỏ và 8 tàu ngư lôi. Lực lượng QĐNDVN vẫn đơn thuần là bộ binh, gồm 6 đại đoàn, 18 trung đoàn và 19 tiểu đoàn. Về pháo binh, QĐNDVN có 2 trung đoàn, 8 tiểu đoàn và 4 đại đội. Về phòng không, QĐNDVN có 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn.

– Tính theo số tiểu đoàn bộ binh, QĐNDVN có tổng cộng 127 tiểu đoàn so với 267 tiểu đoàn của Pháp. Biên chế tiểu đoàn của QĐNDVN là 635 người; biên chế tiểu đoàn Pháp từ 800 - 1.000 người.

Pháp tuy có ưu thế vượt trội về binh lực, nhưng thế trận chiến tranh nhân dân của QĐNDVN đã làm cho Pháp phải phân tán trên khắp các chiến trường. Không những Pháp không thể tập trung toàn bộ ưu thế đó vào một trận đánh quyết định, mà cũng chưa đủ lực lượng để mở một cuộc tiến công lớn vào các đại đoàn chủ lực QĐNDVN trên miền Bắc. Trong tổng số 267 tiểu đoàn, thì 185 tiểu đoàn đã phải trực tiếp làm nhiệm vụ chiếm đóng, chỉ còn 82 tiểu đoàn làm nhiệm vụ cơ động chiến thuật và chiến lược. Già nửa lực lượng cơ động Pháp, 44 tiểu đoàn, phải tập trung trên miền Bắc để đối phó với chủ lực QĐNDVN. Vào thời điểm này, nếu tính chung trên chiến trường Bắc Bộ, lực lượng QĐNDVN mới bằng 2/3 lực lượng Pháp (76 tiểu đoàn/112 tiểu đoàn), nhưng tính riêng lực lượng cơ động chiến lược, thì lực lượng QĐNDVN đã vượt hơn về số tiểu đoàn (56/44).

Chủ trương chiến lược của Bộ Tổng Tham mưu là "Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực của địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa điểm xung yếu mà chúng không thể bỏ, do phải phân tán binh lực mà tạo ra cho ta những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng". Phương châm tác chiến là "Tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt; đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh."

Trong cuộc họp, chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: "Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn".

Từ chiều ngày 13 tháng 12 năm 1953, cuộc truy lùng quân Pháp diễn ra trên tất cả các hướng. Đại đoàn 316 chia làm nhiều nhóm đuổi theo quân Pháp hàng trăm km đường rừng, suốt ngày đêm, kết hợp tiến công vừa kêu gọi đầu hàng. Số hàng binh Thái rất đông, nhiều hàng binh có cả gia đình. Cán bộ 316 đã tập hợp tù binh cùng với dân tuyên truyền giải thích, nói sẽ trả tự do cho tù binh nếu được nhân dân bảo đảm là sẽ không để họ tiếp tục cầm súng chiến đấu cho Pháp.

Tổng kết sau 2 tuần, Đại đoàn 316 đã tiêu diệt và làm tan rã 25 đại đội, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Bernard Fall kết luận về cuộc hành quân Pollux: "Bây giờ chỉ còn công việc tính sổ những thiệt hại trong tuần lễ cuối cùng của cuộc đánh vận động. Khi lực lượng Pháp rời Lai Châu ngày 9 tháng 12, họ gồm 2.101 người, trong đó có 8 trung úy, và 34 hạ sĩ quan Pháp. Khi những người sống sót của đại đội lừa ngựa Thái và đại đội nhẹ 428 tới Điện Biên Phủ, ngày 22 tháng 12, chỉ còn 10 người Pháp, trong đó có viên Trung úy Ulpat và 175 binh lính Thái. Gần 2.000 lính biệt kích, hàng trăm người dân sự, cũng như 2 sĩ quan, 25 hạ sĩ quan Pháp không còn lên tiếng khi điểm danh. Hơn thế, Việt Minh đã thu được đủ vũ khí để trang bị cho một trung đoàn". Trong bản báo cáo của mình về trận đánh này, Lănggơle, chỉ huy G.A.P.2, đã nhấn mạnh "sự thuần thục lạ lùng của kẻ thù khi bố trí những vị trí pháo binh và vị trí trú quân ngoài tầm quan sát của không quân và lực lượng thám báo mặt đất..."

Tới đầu tháng 1-1954, QĐNDVN đã vượt qua đợt dự kiến cho chiến dịch Tây Bắc. Hình thái chiến trường lúc này đã thay đổi đáng kể: giữa Tây Bắc xuất hiện một tập đoàn cứ điểm lớn với gần 11.000 quân Pháp án ngữ tại Điện Biên Phủ. Bộ Chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam nhìn nhận trận Điện Biên Phủ như cơ hội đánh tiêu diệt lớn, tạo chiến thắng vang dội để từ đó chấm dứt kháng chiến trường kỳ, và đã chấp nhận thách thức của quân Pháp để tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đây là trận quyết chiến chiến lược của QĐNDVN. Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm: "Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh, trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương."

QĐNDVN sau đó đã huy động 4 đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo (khoảng 48 ngàn quân) bao vây và tiến công cụm cứ điểm suốt 3 tháng, cuối cùng đã giành thắng lợi quyết định cho toàn cuộc chiến tại nơi đây (xem chi tiết tại Chiến dịch Điện Biên Phủ).

Hướng Trung và Hạ Lào

Từ cuối tháng 11 năm 1953, cùng với cuộc tiến quân lên Tây Bắc, một cánh quân khác của QĐNDVN cũng lên đường tiến xuống Trung, Hạ Lào. Tham gia tiến công ở hướng này có Trung đoàn 66 của Đại đoàn 304, các trung đoàn 101 và 18 của Đại đoàn 325, cùng với các đơn vị tình nguyện của Liên khu 4, Liên khu 5 đã sang phối hợp với bạn hoạt động từ những năm trước, và một số đơn vị Pathet Lào. Bộ Chỉ huy chiến dịch Trung Lào, lấy mật danh là "Mặt trận D" được thành lập gồm Hoàng Sâm, Tư lệnh Đại đoàn 304, Trần Quý Hai, Tư lệnh kiêm Chính ủy Đại đoàn 325 được cử tham gia Bộ Chỉ huy Liên quân.

Lực lượng QĐNDVN tiến vào Trung, Hạ Lào theo ba đường. Các trung đoàn 66, 101, Tiểu đoàn 274 (thuộc Trung đoàn 18), và Đại đoàn Bộ binh 325 hành quân theo tỉnh lộ Nghệ An vào Chu Lễ, Hương Khê rồi vượt đèo Quân và dốc Trẫm - Trẹo sang bắc Trung Lào. Trung đoàn 18 (thiếu 1 tiểu đoàn) theo Quốc lộ 1 tới Kỳ Anh, vượt đèo Móng Gà sang Cổ Áng theo đường Ba Rền, U Bò tiến vào phía bắc đường 9. Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101 theo đường xuyên Trường Sơn tiến thẳng xuống Hạ Lào.

Những cánh quân và hàng vạn dân công đã bị máy bay trinh sát Pháp phát hiện. Tướng Buốcgun (Bourgound), Tư lệnh mới ở miền Trung Đông Dương, bố trí ba cụm phòng thủ nhằm bịt các cửa ngõ phía đông. Một cụm ở khu vực Căm Cớt, Lạc Sao trên đường số 8, gồm Tiểu đoàn số 9 và một đại đội pháo 105 ly. Một cụm ở Nhommarát trên đường số 12, gồm hai tiểu đoàn bộ binh Maroc, một tiểu đoàn bộ binh Algérie và một tiểu đoàn pháo 105 ly. Một cụm ở Nậm Thun, có Tiểu đoàn Bộ binh Cơ giới Xpahi (Spahis) số 6 làm lực lượng dự bị.

Bộ Chỉ huy Liên quân Lào - Việt đề ra trong kế hoạch đợt 1, tiến công cụm cứ điểm phòng ngự then chốt trên đường số 12. Lực lượng sử dụng là hai trung đoàn, dùng chiến thuật đánh điểm diệt viện. Trung đoàn 66 đánh cứ điểm Mụ Giạ, Trung đoàn 101 phục kích đánh viện trên đường số 12. Tiếp đó, hai đơn vị sẽ theo đường 12 đánh về Nhommarát để chiếm phía đông tỉnh Khăm Muộn.

Ở hướng thứ yếu của chiến dịch, một tiểu đoàn của Trung đoàn 101 và bộ đội Lào đánh Lạc Sao, Căm Cớt sau đó phát triển theo trục đường số 8, đánh xuống đường 12.

Theo kế hoạch, ngày 23 tháng 12, Trung đoàn 66 nổ súng tiến công cứ điểm Mụ Giạ mở màn chiến dịch. Nhưng một sự việc bất ngờ đã xảy ra. Sáng ngày 20, đoàn cán bộ Trung đoàn 101 do Trung đoàn trưởng Trần Văn Bành và Chính ủy Hoàng Văn Thái dẫn đầu, đi trinh sát thực địa trên đường 12 tìm nơi bố trí trận địa phục kích đánh viện. Tới suối Nậm On, đoàn cán bộ chạm trán với một toán lính Pháp đang lùng sục trong vùng. Cuộc đọ súng diễn ra chóng vánh, bắt sống một đại úy cùng với bốn lính Âu Phi thuộc cụm phòng thủ trên đường số 12. Viên đại úy cho biết cách đây bốn hôm, Tiểu đoàn Cơ động Algérie số 27 (27è BTA) và một đại đội pháo 105 ly từ Thà Khẹc, Nhommarát đã lên đây xây dựng thêm một cứ điểm ở khu vực cầu Khăm He, Binh đoàn Cơ động số 2 cũng mới thiết lập một sở chỉ huy ở gần cầu Kha Ma trên đường số 12.

Trung đoàn trưởng 101 nhận định quân Pháp mới tới còn đứng chân chưa vững nên đánh điện báo cáo Bộ Chỉ huy Liên quân, và đề nghị cho chuyển từ nhiệm vụ phục kích sang khẩn trương tập kích tiêu diệt tiểu đoàn Âu Phi ở cứ điểm Khăm He. Đề nghị của trung đoàn được bộ chỉ huy chấp thuận.

Bộ binh được lệnh bỏ lại trang bị nặng và lập tức lên đường. Trung đội trinh sát và một đại đội bộ binh đi đầu mở đường. Cán bộ chỉ huy trung đoàn và các tiểu đoàn trưởng cùng đi với phân đội trinh sát để kịp thời hạ quyết tâm chiến đấu. Trời vừa tối, trung đoàn ra tới đường 12. Đêm ngày 21 tháng 12, Trung đoàn 101 bí mật tiếp cận mục tiêu và nổ súng tiến công.

Các phân đội hiệp đồng đúng theo kế hoạch, thọc sâu vào giữa đồn rồi tỏa rộng chia cắt quân Pháp, phối hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào. Gần sáng, trận đánh kết thúc. Hầu hết binh lính thuộc Tiểu đoàn Algérie số 27 và đại đội pháo 105 ly bị tiêu diệt. QĐNDVN thu ở Khăm He nhiều vũ khí, quân trang quân dụng, trong đó có 4 khẩu lựu pháo 105 ly nguyên vẹn cùng với một ngàn viên đạn pháo.

Đêm ngày 23 tháng 12, theo kế hoạch, Trung đoàn 66 mở cuộc tiến công vào khu vực then chốt ở Trung Lào: cụm cứ điểm Mụ Giạ, Ba Chào. Tin thất thủ ở Khăm He, Kha Ma đã làm cho quân Pháp ở cả hai nơi này rút chạy. Cuộc công đồn biến thành truy kích. Trung đoàn cắt đường rừng, vượt sông, bắt kịp quân Pháp ở ngã ba Nacacham, tiêu diệt một số. Một tiểu đoàn Marốc từ Ba Chào rút về, cùng một đại đội lính Lào chạy vào đồn Pa Cuội, dựa vào công sự đối phó. Trung đoàn 66 tiến công đồn Pa Cuội, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn Marốc và đại đội Lào tại đây. Tướng Buốcgun chỉ có những lực lượng đóng rải rác nên không thể ngăn chặn những đợt tiến công của QĐNDVN.

Cũng trong hai ngày 23 và 24-12, một đơn vị QĐNDVN tiến công Lại Sao, Căm Cớt, diệt một loạt vị trí dọn đường số 12, chiếm thị xã Nhommarát, tiến vào Thà Khẹc, kiểm soát toàn tỉnh Khăm Muộn với 40.000 kilômét vuông và hàng chục vạn dân. Phòng tuyến Trung Lào của Pháp tan vỡ. Trước tình thế "Đông Dương bị cắt làm đôi", Navarre điều thêm một binh đoàn cơ động và một binh đoàn không vận từ đồng bằng Bắc Bộ vào, tổ chức Xên, nằm trên đường số 9 gần Xavanakhét, thành một tập đoàn cứ điểm với 10 tiểu đoàn.

Cuối tháng 12 năm 1953, quân Pháp ở Trung Lào đã lên tới 26 tiểu đoàn, trở thành nơi tập trung quân lớn thứ ba trên chiến trường Đông Dương. Chỉ trong đợt 1 chiến dịch, lực lượng QĐNDVN và quân Giải phóng Lào ở Trung Lào đã vượt dự kiến. 50.000 dân công các tỉnh từ Nghệ An trở vào đã cùng bộ đội lên đường qua Lào phục vụ chiến dịch. Như vậy, Navarre đã buộc phải phân tán khối cơ động ra ba nơi: đồng bằng Bắc Bộ, Tây Bắc và Trung Lào. Kế hoạch Navarre tập trung quân cơ động thành "Quả đấm thép" giành chiến thắng quyết định như dự kiến ban đầu đã phá sản.

Rạng sáng ngày 30 tháng 1, giai đoạn 2 trên chiến trường Hạ Lào cũng bắt đầu. Trong kế hoạch Đông Xuân 1953 – 1954, QĐNDVN chủ trương đưa một trung đoàn của Đại đoàn 325 thọc sâu xuống Hạ Lào, tạo thêm cho Pháp một bất ngờ nữa, đồng thời mở ra một địa bàn cho chủ lực phát triển xuống phía nam. Một khó khăn rất lớn ở hướng này là đường tiếp tế quá xa và hầu như không có dân. Từ vùng Thanh Hóa, Nghệ An đến Hạ Lào, bộ đội phải vượt 1.200 km đường rừng hiểm trở dọc Trường Sơn, cuộc hành quân phải kéo dài khoảng hai tháng. Trong chiến dịch nếu tiêu thụ hết số đạn mang theo, chỉ còn cách duy nhất là cướp súng đạn của Pháp để tiếp tục chiến đấu.

Sau khi bàn bạc với bạn Lào và đại đoàn, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định chỉ đưa Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101 của 325, do Trung đoàn phó Lê Kích chỉ huy; xuống Hạ Lào cùng phối hợp với 1 đại đội quân tình nguyện Liên khu 5 và bộ đội, du kích Pathet Lào. Đơn vị được Bộ tăng cường quân số, hỏa lực, biên chế lên tới 760 người, gồm 5 đại đội bộ binh, 2 đại đội hỏa lực. Các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên và Liên khu 5 sẽ lo việc tiếp tế, huy động dân công chuyển đạn, gạo tới khu vực tập kết, là một căn cứ du kích của bộ đội Lào ở tỉnh Atôpơ. Mũi thọc sâu của một tiểu đoàn tăng cường vào một hướng hiểm yếu sẽ có sức mạnh không kém một cánh quân.

Tiểu đoàn 486 bắt đầu rời Nam Đàn, Nghệ An. Sau gần hai tháng hành quân dọc Trường Sơn, 436 có mặt tại căn cứ ở tỉnh Atôpơ, cực nam Lào. Lực lượng Pháp ở đây có một tiểu đoàn tăng cường, gồm một ngàn quân, bố trí thành hai cụm phòng ngự. Cụm thứ nhất là khu vực thị xã Atôpơ và sân bay, có bốn đại đội. Cụm thứ hai là cứ điểm Pui, phía tây - nam thị xã Atôpơ 19 km, có một đại đội xung kích và một trung đội pháo. Đại đội xung kích này là đơn vị thiện chiến nhất trong khu vực, được đặt ở Pui nhằm án ngữ cửa ngõ khu du kích của Lào.

Kế hoạch của QĐNDVN gồm hai bước. Bước một, tập trung toàn Tiểu đoàn 436 đánh cứ điểm Pui, đại đội quân tình nguyện Liên khu 5 và bộ đội, du kích Lào bao vây khu vực thị xã. Bước hai, Tiểu đoàn 436 cùng các đơn vị bạn tiến công giải phóng toàn vùng Atôpơ.

Đêm ngày 29 tháng 1 năm 1953, Tiểu đoàn 436 tiến công vị trí Pui. Chỉ sau 30 phút chiến đấu, QĐNDVN đã tiêu diệt hoàn toàn vị trí. Quân Pháp ở thị xã Atôpơ bất ngờ, tưởng có một cánh quân lớn của QĐNDVN đang tràn xuống Hạ Lào, vội vã rút về Pắc Xế. Tình hình Pắc Xế cũng trở nên hoảng loạn. Quân Pháp đốt cháy kho tàng, phá hủy vũ khí nặng chuẩn bị rút lui. Khi Tiểu đoàn 436 vận động tới Pắc Xế, thấy trong thị xã có nhiều đám cháy, lập tức cùng bộ đội Lào tiến công thẳng vào thị xã. Quân Pháp chỉ chống cự lẻ tẻ rồi bỏ Pắc Xế, rút về Xaravan.

Cuộc tiến công của QĐNDVN ở Trung Lào đã khiến báo chí ở Paris loan tin: "Đông Dương đã bị cắt làm đôi". Đòn bồi tiếp làm cho tướng Navarre thêm lo ngại. Navarre muốn đưa thêm một lực lượng cơ động về hướng này nhưng đã sử dụng gần hết quân cơ động, mà còn phải lo tăng cường binh lực cho Điện Biên Phủ.

Tại Hạ Lào, tới giữa tháng 2-1954, Tiểu đoàn 436 và lực lượng vũ trang Lào đã kiểm soát toàn bộ cao nguyên Bôlôven, trong đó có tỉnh Atôpơ, rộng gần 20.000 km vuông. Navarre lại phải điều lực lượng xuống Hạ Lào tổ chức nhiều cụm cứ điểm bảo vệ các thị xã Xaravan và Pắc Xế.

Sau khi giải phóng cao nguyên Bôlôven, tháng 3-1954, một bộ phận liên quân Việt - Lào đã phát triển xuống phía nam, phối hợp với bộ đội Itxarắc Campuchia giải phóng Viên Sai, Xiêm Pang, uy hiếp Tung Trung. Ơ miền đông Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam cùng bộ đội Itxarắc giải phóng phần lớn Công-pông Chàm. Căn cứ miền đông và đông bắc Campuchia đã nối liền với vùng giải phóng ở Trung, Hạ Lào và Tây Nguyên.

Hướng Tây Nguyên và Liên khu 5

Tháng 2-1954, lúc bộ đội ở Điện Biên Phủ bắt đầu kéo pháo ra thì tiếng súng bắt đầu nổ ở Bắc Tây Nguyên. Tây Nguyên nằm ở Nam Trung Bộ nối liền hai miền Việt Nam, tiếp giáp với Hạ Lào và Bắc Campuchia, có vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất trên chiến trường Đông Dương. Từ lâu, Tây Nguyên vẫn được quân Pháp coi là một hậu phương an toàn.

QĐNDVN nhận định: chừng nào Tây Nguyên còn bị Pháp khống chế thì cục diện chiến đấu ở Nam Đông Dương còn khó được cải thiện. Và nếu Liên khu 5 không mở rộng vùng tự do về phía tây thì cũng khó giữ vững được các tỉnh ở đồng bằng hiện nay. Nhiệm vụ quân sự cho Liên khu 5 trong Đông Xuân này là "tranh thủ thời gian, tích cực tăng cường lực lượng võ trang của liên khu về số lượng và chất lượng, phát triển mạnh về hướng Tây Nguyên và Hạ Lào, chủ yếu hiện nay là hướng Bắc Tây Nguyên để tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa (kể cả vùng tự do hiện nay) về phía Tây, củng cố vùng hành lang Bắc Tây Nguyên nối Liên khu 5 và Hạ Lào và phát triển rộng ra, phá âm mưu của địch củng cố Tây Nguyên và chiếm rộng ra vùng ven biển".

Liên ủy khu 5 đã quyết định trao nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do cho lực lượng địa phương, tập trung bộ đội chủ lực tiến công lên Tây Nguyên. Nhiệm vụ của vùng tự do liên khu được quy định: địch đánh đến địa phương nào thì nơi đó tự tìm mọi cách đối phó, tiêu hao địch, kìm chân không cho Pháp nhanh chóng mở rộng phạm vi kiểm soát, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại. Địa phương nào Pháp chưa đánh tới, phải tích cực động viên, tổ chức nhân dân phục vụ tiền tuyến.

Nhiệm vụ của bộ đội chủ lực liên khu gồm hai trung đoàn 108, 803 và hai tiểu đoàn chủ lực độc lập là phối hợp với các lực lượng địa phương mở chiến dịch Bắc Kon Tum. Cuộc tiến công ở Tây Nguyên dự kiến sẽ tiến hành theo hai bước:

  • Bước một, trên hướng chủ yếu, sử dụng Trung đoàn 108 và liên đội đặc công diệt hai cứ điểm Măng Đen, Măng Bút, kéo quân tiếp viện của Pháp từ Kon Tum ra cho Trung đoàn 803 đánh viện trên đường Công Trây – Măng Đen; tiếp đó tiêu diệt Công Trây, uy hiếp thị xã Kon Tum, đánh quân cứu viện trên đường Kon Tum - Công Trây.
  • Bước hai, tiến công tiêu diệt hệ thống cứ điểm của Pháp từ Đắc Tô đến Đắc Lây, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Bắc Kon Tum. Trên hướng thứ yếu của chiến dịch, đường 19 - An Khê, Trung đoàn địa phương 120 cùng một tiểu đoàn chủ lực tiêu diệt các cứ điểm Kà Tưng, Ba Bả - Cà Tu, cắt đường giao thông, thu hút giam chân một bộ phận lực lượng của Pháp.

Bộ Chỉ huy chiến dịch được thành lập do Nguyễn Chánh, Bí thư liên Khu ủy trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh kiêm Chính ủy chiến dịch. Trước đó, bộ đội Liên khu 5 đã được tăng cường vũ khí, đặc biệt là ĐKZ (súng không giật) để làm nhiệm vụ công đồn. Bộ Tư lệnh Liên khu quyết định tổ chức một tuyến đường hành lang bí mật từ đồng bằng lên Tây Nguyên để bảo đảm tình huống bất ngờ. Các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đều lập kho dự trữ gạo, muối cho chiến dịch. Riêng trong đợt l, liên khu đã huy động 100.000 dân công làm công tác hậu cần.

Đêm ngày 26 tháng 1 năm 1954, trên hướng thứ yếu của chiến dịch, bộ đội tiêu diệt các vị trí Kà Tung, Ba Bả – Ka Tú, Búp Bê. Đêm hôm sau, 27 tháng 1, trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 108 và tiểu đoàn đặc công tiến công ba vị trí: Măng Đen, Măng Bút, Công Trây trong hệ thống phòng ngự Bắc Tây Nguyên. 2 vị trí sau nhanh chóng bị diệt, riêng trận Măng Đen diễn ra rất quyết liệt, do đây là cứ điểm then chốt trong hệ thống phòng thủ Bắc Tây Nguyên. Mỗi khu có những lô cốt bê tông nối liền với nhau bằng một hệ thống giao thông hào ngầm, xung quanh có hàng rào dây thép gai rộng từ 30 đến 90 mét, ở giữa có cả một sân bay nhỏ. Cuộc chiến đấu diễn ra giằng co suốt đêm, đến 7 giờ ngày 28 tháng 1, trận đánh mới kết thúc.

Chỉ sau một đêm, những cứ điểm mạnh trong hệ thống phòng ngự Bắc Tây Nguyên đã bị san phẳng. Đường vào Kon Tum đã để ngỏ, Bắc Tây Nguyên đứng trước nguy cơ tan vỡ trong khi quân Pháp không còn quân cơ động để phản ứng lại.

Mười ngày đầu tháng 2 năm 1954, bộ đội Liên khu 5 đã chiếm thị xã Kon Tum, kiểm soát cả vùng Bắc Tây Nguyên. Bộ đội Liên khu 5 còn truy kích quân Pháp rút về Plây Cu trên chặng đường dài 200 km, tiến đến sát đường 19. Ngày 18 tháng 2 năm 1954, Trung đoàn 80 tiến công cứ điểm Đắc Đoa, nam Kon Tum 15 km, loại khỏi vòng chiến đấu hai đại đội. Cùng thời gian đó đặc công tập kích vào các cơ sở kho tàng, cơ quan chỉ huy Pháp trong thị xã Plây Cu.

Tổng kết chiến dịch, QĐNDVN đã kiểm soát một địa bàn chiến lược quan trọng ở bắc Tây Nguyên rộng 16.000 km vuông, với 20 vạn dân, phá thế uy hiếp của Pháp đối với phía sau lưng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Vùng tự do từ ven biển Quảng Nam, Quảng Ngãi đến biên giới Việt - Lào, đã nối liền với vùng tây nam Bôlôven của nước Lào.

Trước tình hình Tây Nguyên bị uy hiếp nghiêm trọng, Navarre buộc phải ra lệnh cho De Beaufort tạm ngừng Chiến dịch Atlante ở đồng bằng Liên khu 5, rút một số đơn vị lên tăng cường cho Plây Cu, và điều chỉnh lại lực lượng ở miền nam Trung Bộ. Quân Pháp được bố trí thành hai khối lớn. Khối thứ nhất ở Tây Nguyên, 24 tiểu đoàn, có nhiệm vụ bảo vệ Plây Cu, và đề phòng tiến xuống phía nam đánh vào cao nguyên Đắc Lắc. Khối thứ hai ở đồng bằng, 16 tiểu đoàn, bảo vệ thị xã Tuy Hòa, những vị trí mới chiếm đóng ở Phú Yên, và làm lực lượng dự bị ở Nha Trang, Ninh Hòa. Với cách bố trí mới này, Navarre đã chuyển sang dành ưu tiên số một cho vùng rừng núi Tây Nguyên thay vì đồng bằng duyên hải miền Trung.

Hướng đồng bằng sông Hồng

Ở đồng bằng Bắc Bộ, Pháp chủ động tấn công bằng Chiến dịch Hải Âu, cấu thành từ hai cuộc hành quân lớn là cuộc hành quân Mouette (Hải Âu) vào tây nam Ninh Bình nhằm vào Đại đoàn 320 của Quân đội Nhân dân Việt Nam và cuộc hành quân Pélican (Bồ nông) vào ven biển Thanh Hóa. Cuộc tiến công không đạt được mục tiêu đề ra là đánh gục Đại đoàn 320, quân Pháp phải rút lui (xem chi tiết tại Chiến dịch Hải Âu).

Từ hạ tuần tháng 12 năm 1953, Liên Khu ủy Bộ Tư lệnh Liên khu 3, và Bộ Tư lệnh khu Tả Ngạn họp bàn xác định phương hướng, chủ trương tiếp tục tiến công trên toàn địa bàn. Hội nghị cán bộ đảng Liên khu 3 đề ra 4 mục tiêu:
– Tập trung lực lượng của liên khu cùng Đại đoàn 320 tiến công đập tan phòng tuyến Sông Đáy, mở rộng vùng tự đo liên khu nối liền với các khu du kích sau lưng địch ở đồng bằng.
– Triệt để đánh phá giao thông vận tải, uy hiếp hậu phương địch, ngăn chặn tiếp tế cho Điện Biên Phủ và các chiến trường khác.
– Tích cực phá kế hoạch bắt lính phát triển ngụy quân, đẩy mạnh công tác binh vận làm tan rã hàng ngũ quân địch.
– Động viên mọi lực lượng tập trung sức người, sức của chi viện cho chiến trường chính Tây Bắc, Điện Biên Phủ và các chiến trường khác.

Tháng 1 năm 1954, Đại đoàn 320 tiến công chọc thủng phòng tuyến Sông Đáy, nối liền các khu căn cứ Thanh Liêm (Hà Nam), Ý Yên (Nam Định) với vùng tự do ở đồng bằng Liên khu 3. Sau đó, đại đoàn tiến sâu vào đồng bằng Bắc Bộ, cùng với các trung đoàn 42, 46, 50, 246, 238, các tiểu đoàn địa phương tỉnh và dân quân du kích tiến công trên khắp những vùng quan trọng, phát triển các khu du kích, mở rộng cơ sở cách mạng. Hầu hết đường giao thông thủy bộ, đường sắt của Pháp đều bị đánh phá. Trên đường số 5, con đường huyết mạch nối liền Hà Nội với cảng Hải Phòng, dân quân du kích Hải Dương, đặc biệt là huyện Kim Thành, đánh nhiều trận địa lôi táo bạo, làm giao thông tê liệt hàng tuần lễ. Bộ đội liên khu dùng lực lượng nhỏ nhưng tinh nhuệ tập kích hậu cứ của Pháp, như trận đột nhập thị xã Đồ Sơn và thành phố Nam Định. Các căn cứ và khu du kích của đã chiếm 3/4 đất đai vùng Pháp tạm kiểm soát ở châu thổ sông Hồng.

Đêm ngày 4 tháng 3 năm 1954, tại đồng bằng Bắc Bộ, bộ đội bí mật đột nhập sân bay Gia Lâm, đốt cháy 12 máy bay và 1 kho xăng. Hai ngày sau, đêm 6 tháng 3, bộ đội địa phương Kiến An đột nhập sân bay Cát Bi, phá hủy 4 máy bay B-26 Invader và 6 máy bay Moran. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi ngay một bức điện tuyên dương toàn thể cán bộ, chiến sĩ đã tập kích sân bay Gia Lâm và Cát Bi đã "đánh thẳng vào nơi trung tâm quân sự của địch ở sát Hà Nội và Hải Phòng, đã phá hủy một bộ phận quan trọng không quân địch, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều chiến thắng sắp tới trên chiến trường toàn quốc".

Các hướng phối hợp khác

Ở Bình – Trị – Thiên, cực Nam Trung Bộ, du kích đánh mạnh trên các đường giao thông, lật đổ nhiều đoàn tàu, chống các cuộc càn quét, mở rộng các căn cứ du kích và khu du kích, tăng cường công tác binh vận làm tan rã hàng ngũ quân đội Quốc gia Việt Nam. Từ ngày 20 tháng 1 đến ngày 20 tháng 2 năm 1954, QĐNDVN đã phá hủy 17 cầu, 18 cống từ Đông Hà lên Rào Quán trên đường 9, tiêu diệt và bức rút 6 vị trí, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hóa. Riêng huyện Vĩnh Linh có tới ba vạn dân sát cánh cùng du kích phá hoại cầu đường.

Tại Thừa Thiên, bộ đội địa phương và dân quân du kích chống càn, giữ vững và mở rộng vùng căn cứ. Quân du kích còn đánh địa lôi liên tiếp trên nhiều đoạn đường ở Hương Thủy, Lăng Cô, Mỹ Chánh, Phú Lộc, Huế – Quảng Trị, Huế – Đà Nẵng,... lật đổ hàng chục đoàn tàu quân sự, mỗi lần tiêu diệt từ 1 trung đội đến 1 tiểu đoàn. Chỉ riêng trận Lăng Cô (Thừa Thiên) đã lật đổ 2 đầu máy, 19 toa, diệt 400 lính. Trận Phố Trạch (Quảng Trị), tập kích diệt 200 lính, thu 2 đại bác.

Để phối hợp với cuộc tiến công ở Tây Nguyên, bộ đội và du kích Nam Trung Bộ tập kích thành phố Nha Trang, đốt cháy hàng triệu lít xăng, đột kích thị trấn Ninh Hòa (Khánh Hòa), đột nhập Suối Dầu đốt cháy một kho xăng lớn. Bộ đội địa phương Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận đã diệt nhiều cứ điểm đại đội, tiểu đoàn, tập kích táo bạo vào La Lung (Phú Yên) diệt trên 1 tiểu đoàn, và tiến sâu vào vùng Pháp tạm chiếm tiêu diệt nhiều vị trí và tháp canh. Từng vùng rộng lớn được giải phóng như Điện Bàn ở Quảng Nam (có trên bốn vạn dân), vùng Hòn Khói và tây - bắc Khánh Hòa. Ở cực Nam Trung Bộ, kết hợp tiến công quân sự với đấu tranh của quần chúng, nhân dân đã cùng Trung đoàn 812 giải phóng hai huyện Tánh Linh và Lương Sơn ở Bình Thuận.

Tại Nam Bộ, từ giữa năm 1953, Pháp buộc phải rút quân ồ ạt từ Nam Bộ ra chi viện cho chiến trường Trung Bộ và Hạ Lào. Lực lượng Âu-Phi chỉ còn 3 tiểu đoàn không đủ biên chế, 12 tiểu đoàn quân đội Quốc gia Việt Nam mới thành lập thì khả năng chiến đấu yếu, tinh thần sút kém. Trung ương Cục chỉ thị "chuẩn bị đón lấy thời cơ". Lực lượng chủ lực của QĐNDVN ở Nam Bộ chỉ có ba tiểu đoàn của Khu là 302, 304, 307 và bảy tiểu đoàn của các tỉnh là: 300, 303, 306, 308, 310, 311, 410, ngoài lực lượng này còn có các đại đội, trung đội bộ đội địa phương của các huyện và dân quân du kích xã. So với địch không những ít hơn về số lượng mà trang bị vũ khí cũng kém hơn, vì vậy nhiệm vụ của Nam Bộ trong Đông Xuân 1953 – 1954 chủ yếu là hoạt động đều khắp ở các vùng địch hậu, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa theo kiểu du kích nhằm tiêu hao, cầm chân và gây bất ổn hậu phương.

Từ cuối năm 1953 sang những tháng đầu năm 1954, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh, bộ đội và du kích tổ chức thành từng phân đội nhỏ đánh tiêu hao trên khắp các vùng du kích và vùng tạm chiếm.

Trong thời gian phối hợp chiến đấu với Điện Biên Phủ, tại Phân liên khu miền Tây, các lực lượng vũ trang phát triển vùng giải phóng, tiêu diệt và bức rút trên 1.000 đồn trại, tháp canh. Ngày 24 tháng 2 năm 1954, Tiểu đoàn 309 phối hợp với bộ đội địa phương huyện Vàm Cỏ tổ chức phục kích ở Tầm Vu, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ Tiểu đoàn 502 của Quốc gia Việt Nam và Đại đội Pháp số 14, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Từ đêm ngày 1 tháng 3 năm 1954, 1 tiểu đoàn được tăng cường Đại đội 552 tỉnh Bạc Liêu, cùng du kích tiến hành bao vây quận lỵ An Biên và toàn bộ những tháp canh từ quận lỵ ra Xẻo Rô, dùng súng cối pháo kích đồn An Biên, nhằm kéo quân tăng viện từ Rạch Giá tới. Ngày 4, quân Pháp tại các tháp canh đều bị tiêu diệt, bức hàng hoặc chạy trốn. Nhiều đợt quân tăng viện bị phục kích, thiệt hại 1 tiểu đoàn, quân Pháp ở quận lỵ phải phá vây bỏ đồn.

Cuối tháng 3 năm 1954, QĐNDVN tiêu diệt tiếp đồn Xẻo Rô, kiểm soát hoàn toàn quận An Biên. Ở Mỹ Tho, chỉ một đại đội của tỉnh đã đánh tan một tiểu đoàn trong trận vận động ở Kênh Bùi, thu nhiều vũ khí với hàng chục trung liên, đại liên và súng cối.

Tại Phân liên khu miền Đông, Bộ đội Vĩnh Long đột nhập bến tàu, bắn chìm và hỏng nặng 7 tàu chiến. Bộ đội biệt động Sài Gòn đột nhập kho bom Tân Sơn Nhất, một trong những kho bom lớn nhất Đông Dương, phá hủy trên 800 tấn bom, tiêu diệt cả đại đội lính Âu Phi bảo vệ. Bộ đội Bà Rịa - Chợ Lớn đột nhập khách sạn Ô Cấp, diệt hơn 100 sĩ quan Pháp và cả cố vấn Mỹ...

Phối hợp tác chiến trên chiến trường toàn Đông Dương, toàn bộ Tiểu đoàn chủ lực 302 của Phân liên khu miền Đông, gồm 5 đại đội, được điều động sang Đông Campuchia. Tiểu đoàn 302 đã cùng bộ đội Itxarắc phát triển chiến tranh du kích, tiêu diệt đồn An Sông (Prâyveng), đồn Ta Pang Phóng, tiến công các đồn Păng Cà Nhây, Bốt Cho, Tà Nốt, chống càn ở Trắc Tô, diệt và bắt sống nhiều địch, thu nhiều vũ khí.

Tổng kết lại, Phân liên khu miền Đông đã đánh 2.133 trận lớn nhỏ, tiêu diệt và bức hàng 197 đồn bốt, tháp canh. 4.000 binh lính Quốc gia Việt Nam rã ngũ, trong đó có nhiều đại đội, trung đội không thể xây dựng lại. Hệ thống đồn bốt bị thu hẹp dần, vùng du kích ngày càng mở rộng. Chiến khu Đ phát triển, phía nam giáp sông Đồng Nai, phía bắc giáp đường 14, phía tây giáp đường 16. Chiến khu Dương Minh Châu nối liền với Định Thành, mở sang cả phía đông sông Sài Gòn, phía bắc giáp biên giới Campuchia. Chiến khu Đồng Tháp Mười mở rộng phía nam xuống sát kênh Nguyễn Văn Tiếp, phía tây ra tới ven sông Tiền, phía đông tới ven sông Vàm Cỏ Đông, phía bắc lên tới đường số 1. Ba chiến khu trên cùng với một số chiến khu khác và hàng trăm căn cứ vệ tinh, đã tạo thành một hệ thống căn cứ kháng chiến rộng lớn, liên hoàn, đan xen nhau trên toàn bộ chiến trường.

Kết quả

Trong khoảng thời gian một tháng, kể từ khi hoãn cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ đến cuối tháng 2 năm 1954, toàn bộ kế hoạch Đông Xuân 1953-1954 đã được triển khai trên toàn chiến trường Đông Dương. Với những đơn vị không lớn hoạt động ở những hướng khác nhau, quân dân ba nước Đông Dương đã thực hiện được mục tiêu đầu tiên, cơ bản nhưng rất quan trọng trong kế hoạch là làm cho lực lượng cơ động Pháp buộc phải phân tán.

Trong tháng 2 năm 1954, lực lượng cơ động Pháp đã buộc phải phân tán ra năm nơi:

  • Tại Trung và Hạ Lào: có Binh đoàn Cơ động người Việt số 51, và những tiểu đoàn rút từ binh đoàn cơ động số 1, số 5 và Binh đoàn Cơ động Dù ở Bắc Bộ (GM1, GM5, GM Pa ra). Navarre thành lập thêm một tập đoàn cứ điểm tại Xên, với tên gọi là "Binh đoàn tác chiến trung Lào" (GOML), và sau đó, một tập đoàn cứ điểm mới tại Xaravan, Hạ Lào.
  • Tại Thượng Lào: có Binh đoàn Cơ động số 7, Tiểu đoàn 1 Dù thuộc địa, Tiểu đoàn 10 Tabor, Trung đoàn 11 Bộ binh thuộc địa, Tiểu đoàn 414 Bộ binh thuộc địa (GM7, 1er BPC, 10è Tabor, 11è RIC, 414è RIC), Tiểu đoàn 301 Khinh quân Việt. Trong số này có 8 tiểu đoàn cơ động mới điều từ Bắc Bộ sang. Navarre lập thêm hai tập đoàn cứ điểm ở Luông Phabăng và Mường Sài.
  • Tại Tây Nguyên, có 5 binh đoàn cơ động: Binh đoàn Cơ động 100 (GM100) mới từ Triều Tiên về, Binh đoàn Cơ động 21 (GM21) từ Nam Bộ ra, Binh đoàn Cơ động 11 (GM11) từ Bình Trị Thiên vào, các binh đoàn 41, 42 (GM41, GM42) vốn ở tại chỗ. Thêm một tập đoàn cứ điểm nữa đang xuất hiện ở An Khê. Tại đồng bằng Liên khu 5 có 16 tiểu đoàn, trong đó có Binh đoàn Cơ động số 10 (GM10) mới từ Pháp sang.
  • Tại Điện Biên Phủ: có Binh đoàn tác chiến Tây Bắc (2 tiểu đoàn và 7 đại đội) gồm những tiểu đoàn được lựa chọn trong số những đơn vị ưu tú nhất, được coi là "ngọn giáo" (fer de lance) của đội quân viễn chinh.
  • Tại đồng bằng Bắc Bộ, nơi tập trung khối cơ động - nổi tiếng của Navarre hồi đầu mùa khô, chỉ còn lại 3 binh đoàn cơ động. Phần lớn những đơn vị của các binh đoàn này cũng không còn là cơ động, vì phải chia ra để bảo vệ những khu vực, tuyến đường quan trọng.

Có thể nói chín phần mười trong tổng số 82 tiểu đoàn cơ động chiến lược và chiến thuật của Navarre đã phân tán khi trận đánh chính chưa nổ ra. Những hoạt động Đông-Xuân của QĐNDVN đã làm đảo lộn thế bố trí của Pháp trên các chiến trường, mở động vùng giải phóng tại Việt Nam và Lào thêm hàng chục ngàn km vuông, tiếp tục phát triển ở nhiều hướng, đặc biệt là vùng địch hậu Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.

Điều quan trọng là QĐNDVN đã tạo ra một điểm quyết chiến chiến lược. Hạ tuần tháng 11 năm 1953, Navarre ném xuống Điện Biên Phủ 6 tiểu đoàn với ý định ngăn chặn một đại đoàn chủ lực của QĐNDVN đang tiến vào Tây Bắc. Vào lúc đó, Castor chỉ là một cuộc hành binh thứ yếu, một nhiệm vụ quân sự - chính trị có tính địa phương, nhằm giữ nguyên trạng tình hình trên chiến trường chính với chủ trương phòng ngự chiến lược của Navarre. Chỉ ba tháng sau, từ những cuộc điều binh của QĐNDVN trên bàn cờ chiến cuộc Đông Xuân, Điện Biên Phủ đã trở thành nơi quyết định vận mệnh chiến tranh.

QĐNDVN đã ghìm chân quân Pháp trên khắp các chiến trường, Navarre không còn gì nhiều để cứu nguy cho "con nhím" Điện Biên Phủ nếu nó bị bao vây. Tất cả đều đã chín muồi cho trận đánh quyết định của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến cục Đông Xuân 1953-1954** là tên gọi để chỉ một chuỗi các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương của lực lượng vũ trang Quân đội Nhân dân Việt Nam
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Hiệp định Genève 1954** (tiếng Việt: **Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954**) là hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định
**Chiến dịch tây nam Ninh Bình** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Đông Dương. Khởi nguồn từ hai cuộc hành quân lớn của quân đội Pháp là **cuộc hành quân Mouette** (Hải âu)
**Hà Văn Lâu** (9 tháng 12 năm 1918 – 6 tháng 12 năm 2016) là một chỉ huy quân sự, Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam và là một nhà ngoại giao Việt
**Đồng Sĩ Nguyên** (1 tháng 3 năm 1923 – 4 tháng 4 năm 2019), còn được viết là **Đồng Sỹ Nguyên**, tên thật **Nguyễn Hữu Vũ**, là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
**Đào Văn Trường** (1916 – 2017), là Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 351, chỉ huy pháo binh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. ## Tiểu sử Đại
**Chiến tranh** (Tiếng Anh: _war_) là một mức độ xung đột vũ trang giữa các quốc gia, chính phủ, xã hội hoặc các nhóm bán quân sự như lính đánh thuê, quân nổi dậy và
nhỏ|phải|Huy chương chiến thắng hạng Nhất năm 1958 **Huy chương Chiến thắng** là một loại huy chương của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một mốc son chói lọi, không những đánh dấu sự thất bại của quân Pháp ở Điện Biên Phủ mà còn báo trước sự sụp đổ của chế độ
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
**Sư đoàn 320**, còn gọi là **Sư đoàn Đồng Bằng**, là một sư đoàn chủ lực thuộc Quân đoàn 34, Quân đội nhân dân Việt Nam. Ban đầu có tên Đại đoàn, thành lập từ
**Quân đội Nhân dân Lào** (, _Kongthap Pasaxon Lao_) là lực lượng vũ trang chính quy của Lào, giữ trọng trách bảo vệ đất nước. Về danh nghĩa, Quân đội Nhân dân Lào đặt dưới
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp thủ đô Hà Nội, phía đông giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Nội chiến Trung Quốc** hay **Quốc Cộng nội chiến** (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Lê Duẩn** (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia người Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
**Chiến dịch CQ-88** (tên đầy đủ là **Chiến dịch Chủ quyền 1988**) là một chuỗi các hoạt động quân sự trên biển Đông do Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam tiến hành từ
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Võ Quang Hồ** (1922–2016) hay **Vũ Quang Hồ**, là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, từng giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Tác chiến (Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân
**Đinh Đức Thiện** (15 tháng 11 năm 1914 – 21 tháng 12 năm 1986), tên thật là **Phan Đình Dinh**, là một vị tướng lĩnh cấp cao, hàm Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc
**An toàn khu Định Hóa** (_ATK Định Hóa_) là một khu di tích rộng lớn nằm ở tỉnh Thái Nguyên. Khu di tích này đã được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt
**Quốc gia Việt Nam** () là một chính phủ thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa
**Sư đoàn 308** hay **Đại đoàn Quân Tiên phong** trực thuộc Quân đoàn 12 là Sư đoàn bộ binh chủ lực được thành lập đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thành lập
**Kế hoạch Navarre** hay **Kế hoạch 09** là một tài liệu hoạch định chiến lược quân sự do Tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương Henri Navarre (1898-1983) vạch ra năm
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Đặng Văn Việt** (1920 - 25 tháng 9 năm 2021) là một trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn 174 - một trong
**Lê Văn Tri **(13 tháng 9 năm 1920– 29 tháng 5 năm 2006 ) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Bí
Khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp và Mỹ
**Bảo tàng Pháo binh** trực thuộc Cục Chính trị, Binh chủng Pháo binh, Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập ngày 08/05/1981 theo Quyết định số: 182/QĐ-TM của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội
**Nội chiến Lào** là cuộc chiến tranh thường được tính bắt đầu từ tháng 5 năm 1959 và kết thúc vào tháng 12 năm 1975, theo các tài liệu truyền thống tại phương Tây, tại
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
**Trường Xuân** () là thủ phủ và là thành phố lớn nhất ở tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc. Nằm ở trung tâm bình nguyên Đông Bắc, Trường Xuân được quản lý như một thành phố
**Bế Văn Đàn** (1931-1953) là một Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương. ## Tiểu sử Bế Văn Đàn sinh năm 1931,
**Nguyễn Xuân** (1919–?), bí danh **Ta**, là một nhà cách mạng Việt Nam, nguyên Bí thư, Quyền Bí thư Tỉnh ủy các tỉnh Gia Lai, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến
**Phim về động vật** là thể loại phim có liên quan đến chủ đề, đề tài về các loài động vật, trong đó, các loài động vật có thể là nhân vật chính hoặc không.
**Mao Trạch Đông** (phồn thể: 毛澤東; giản thể: 毛泽东; bính âm: _Máo Zédōng_; 26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), còn được người dân Trung Quốc gọi với tên tôn kính
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Đà Lạt** là thành phố tỉnh lỵ cũ trực thuộc tỉnh Lâm Đồng nằm trên cao nguyên Lâm Viên, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Từ xa xưa, vùng đất này vốn là địa bàn
**Bảo Đại** (chữ Hán: , 22 tháng 10 năm 1913 – 31 tháng 7 năm 1997), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc (Phước) Vĩnh Thụy** (), là vị hoàng đế thứ 13 và là vị
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**An Giang** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, An Giang có diện tích: 9.889 km², xếp thứ 13; dân
**Ủy ban An ninh Quốc gia** (, ), viết tắt **KGB** (, ; ) còn được gọi là **Ủy ban An ninh Nhà nước**, là lực lượng cảnh sát mật chính, và là cơ quan
**Thế Lữ** (10 tháng 6 năm 19073 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là **Nguyễn Đình Lễ** (sau đó đổi thành **Nguyễn Thứ Lễ**), là một nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch
**T-54** và **T-55** là một thế hệ xe tăng sản xuất tại Liên Xô và trang bị cho quân đội nước này từ năm 1947. Đây là mẫu xe tăng sản xuất nhiều nhất trong
**7554** là trò chơi điện tử thể loại bắn súng góc nhìn thứ nhất có đồ hoạ đẹp đầu tiên của Việt Nam, do công ty Hiker Games thực hiện, lấy bối cảnh lịch sử