✨Kế hoạch Navarre

Kế hoạch Navarre

Kế hoạch Navarre hay Kế hoạch 09 là một tài liệu hoạch định chiến lược quân sự do Tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương Henri Navarre (1898-1983) vạch ra năm 1953, nhằm xoay chuyển cục diện Chiến tranh Đông Dương. Mục tiêu của kế hoạch này là trong vòng 2 năm sẽ giúp thực dân Pháp "kết thúc chiến tranh trong danh dự".

Nội dung

nhỏ|Chân dung tướng Henri Navarre trên trang bìa của tuần báo [[Time (tạp chí)|Time.]] Ngày 7 tháng 5 năm 1953, Đại tướng Henri Navarre được chính phủ Đệ Tứ Cộng hòa Pháp bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương thay cho người tiền nhiệm Raoul Salan (1899-1984), với hy vọng tướng Navarre có thể xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương để kết thúc cuộc chiến theo điều khoản có lợi cho Pháp trong vòng hai năm (hay còn gọi là kết thúc chiến tranh trong danh dự, bảo toàn thể diện cho đội quân thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai). Đây được xem là kế hoạch tham vọng nhất của Pháp nhằm đảm bảo quyền cai trị tại Đông Dương.

Ngày 19 tháng 5, Navarre đến Sài Gòn để nhậm chức, trở thành vị Tổng chỉ huy thứ bảy của Quân đội viễn chinh Pháp vùng Viễn Đông tham chiến ở Đông Nam Á này. Ngày 3 tháng 7, Navarre trở về thủ đô Paris sau gần một tháng nghiên cứu thực địa tại Đông Dương và trình lên Bộ Quốc phòng Pháp một bản kế hoạch chi tiết theo hai bước:

Trong giai đoạn mùa đông năm 1953 và mùa xuân năm 1954, quân đội Pháp giữ thế phòng ngự chiến lược tại miền bắc Việt Nam (Tonkin, "Bắc Kỳ") bằng cách tập trung một lực lượng cơ động lớn quanh khu vực đồng bằng Sông Hồng để chống trả các cuộc đột kích của bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam; thực hiện tiến công chiến lược để "bình định" miền Trung (Annam, Trung Kỳ) nhằm chiếm lấy 3 tỉnh đồng bằng thuộc Liên khu V do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cai quản; tăng cường lực lượng quân bản xứ người Việt cũng như thành lập một lực lượng cơ động khác có năng lực chiến đấu cao nhằm tiêu diệt bộ đội chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam hoạt động trên tất cả khu vực kể trên.

Trong giai đoạn thu - đông năm 1954, sau khi đã hoàn thành tất cả mục tiêu đề ra cho bước 1, người Pháp sẽ chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, qua đó giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đàm phán với những điều kiện có lợi cho Pháp nhằm kết thúc chiến tranh. Nếu phía Việt Nam tiếp tục từ chối đàm phán, quân Pháp sẽ tập trung các lực lượng mạnh nhất của họ để hủy diệt hoàn toàn bộ đội chủ lực của Quân đội Nhân Dân Việt Nam.

Để thực hiện hóa chiến lược trên, Kế hoạch Navarre lập ra 3 trọng tâm: phát triển quân đội Liên hiệp Pháp trên quy mô lớn, chuyển một số đơn vị quân đồn trú thành các lực lượng cơ động chiến lược, và yêu cầu thêm viện binh từ Pháp. Navarre có hướng dẫn chi tiết trong bản kế hoạch của ông về những công việc cần chuẩn bị:

  • Đẩy nhanh tiến độ thi hành chính sách trao quyền độc lập danh nghĩa cho các chư hầu thuộc Liên hiệp Pháp, biến họ thành các chính phủ bù nhìn tương tự như chính thể Quốc gia Việt Nam ở miền Nam Đông Dương. Từ đó, cải cách quân đội viễn chinh Pháp vùng Viễn Đông thành Quân đội Liên hiệp Pháp. Điều này sẽ giúp Navarre giải quyết vấn đề thiếu hụt lực lượng chiến đấu mà hạn chế tối thiểu việc chiêu mộ công dân Pháp nhập ngũ, nhờ đó giải tỏa bớt những căng thẳng trong lòng nước Pháp.
  • Thành lập lực lượng cơ động chiến lược để thoát khỏi tình trạng phòng ngự thụ động và đảm bảo lợi thế trên mặt trận bình định hậu phương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trên thực tế, kế hoạch Navarre dựa trên những ý tưởng mà cố Thống chế Jean de Lattre de Tassigny - cựu Tổng tư lệnh Quân viễn chinh Pháp, từng đề xuất để phù hợp với diễn biến của cuộc chiến.

Chuẩn bị

Ngày 30 tháng 6 năm 1953, chính phủ Đệ Tứ Cộng hòa Pháp đề nghị Hoa Kỳ tăng thêm viện trợ quân sự (gấp hai lần so với trước, chiếm 73% chi phí chiến tranh ở Đông Dương); và được chấp nhận. Tuy nhiên, người Mỹ không chấp nhận số kinh phí khổng lồ lên đến 100 tỉ franc để thực hiện hóa kế hoạch của Navarre. Cuối cùng, Thống chế Alphonse Juin phải chấp nhận lược bớt các hoạt động tại Lào để giảm bớt chi phí.

Từ năm 1953, Navarre đã tổ chức tổng cộng 84 tiểu đoàn quân bản xứ thuộc Quân đội Quốc gia Việt Nam (được xem là chính phủ bù nhìn của thực dân Pháp, do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng). Đến năm 1954, con số trên được tăng gấp đôi lên thành 168 tiểu đoàn, tương đương 300.000 lính (chưa kể binh sĩ người Việt thuộc biên chế quân đội viễn chinh Pháp). Đồng thời, ông cũng tổ chức 27 liên tiểu đoàn cơ động, bao gồm một sư đoàn lính dù.

Đồng thời tăng thêm 12 tiểu đoàn bộ binh tại Đông Dương hòng tập trung ở mặt trận Bắc Bộ một lực lượng cơ động gồm 44 tiểu đoàn (trong tổng số 84 trên toàn Đông Dương); và ra sức tăng cường lực lượng bản xứ người Việt trong quân đội Quốc Gia Việt Nam.

Phản ứng của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Từ tháng 9 năm 1953, Bộ tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam nhận được một bản sao kế hoạch Navarre do Liên Xô cung cấp.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kế hoạch Navarre** hay **Kế hoạch 09** là một tài liệu hoạch định chiến lược quân sự do Tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương Henri Navarre (1898-1983) vạch ra năm
**Chiến cục Đông Xuân 1953-1954** là tên gọi để chỉ một chuỗi các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương của lực lượng vũ trang Quân đội Nhân dân Việt Nam
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Hiệp định Genève 1954** (tiếng Việt: **Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954**) là hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 20 tháng 1: Dwight David Eisenhower nhận chức tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 ### Tháng 2 *11 tháng 2: Liên Xô cắt đứt quan hệ ngoại
Đại tá **Nguyễn Mạnh Quân** (1923-1988) là một sĩ quan chỉ huy cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là một trong những chỉ huy chiến trường quan trọng trong suốt thời
**Quân đội Nhân dân Lào** (, _Kongthap Pasaxon Lao_) là lực lượng vũ trang chính quy của Lào, giữ trọng trách bảo vệ đất nước. Về danh nghĩa, Quân đội Nhân dân Lào đặt dưới
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Philippe V của Pháp** (; khoảng 1292/93 - 3 tháng 1 năm 1322), hay **Felipe II của Navarra** (), biệt danh là **Philippe Cao kều** (), là vua Pháp và Navarra, đồng thời cũng là
**Chiến tranh Trăm Năm** là cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp kéo dài từ năm 1337 đến năm 1453 nhằm giành giật lãnh thổ và ngôi vua Pháp. Hai phe chính tham gia vào
**Cuộc hành quân Castor** là chiến dịch quân sự do Pháp phát động từ 20 đến 22 tháng 11 năm 1953, ngay trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra. Quân đội Liên hiệp
**Charles IX** (**Charles Maximilien**; 27 tháng 6 năm 1550 – 30 tháng 5 năm 1574) là Vua của Pháp từ năm 1560 cho đến khi qua đời vào năm 1574. Ông lên ngôi Pháp sau
**Philippe VI của Pháp** (tiếng Pháp: Philippe; 1293 - 22 tháng 8 năm 1350), được gọi là _Fortunate_ (tiếng Pháp: _le Fortuné_) là bá tước của Valois, là vị vua đầu tiên của Pháp từ
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Richard I** (8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Quốc vương nước Anh từ 6 tháng 7 năm 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy,
**Trận đồi C1**, mở màn ngày 31 tháng 3 năm 1954, là một trong những trận đánh quan trọng trong giai đoạn 2 và 3 của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của Quân
**Chiến dịch tây nam Ninh Bình** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Đông Dương. Khởi nguồn từ hai cuộc hành quân lớn của quân đội Pháp là **cuộc hành quân Mouette** (Hải âu)
**Trận Poitiers** diễn ra giữa Vương quốc Anh và Vương quốc Pháp vào ngày 19 tháng 9 năm 1356, kết thúc với đại thắng thứ hai trong bốn chiến thắng vĩ đại nhất của Quân
**Chiến dịch Hòa Bình** (10 tháng 12 năm 1951 - 25 tháng 2 năm 1952) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (Việt Minh) ở khu vực thị xã Hoà
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
**Ana của Navarra**, hay **Ana de Albret của Navarra** (tiếng Tây Ban Nha: _Ana de Navarra_; tiếng Basque: _Ana Nafarroakoa_; tiếng Occitan: _Ana de Navarra_; tiếng Pháp: _Anne de Navarre_; tiếng Anh: _Anne of Navarre_;
**Vòng vây Điện Biên Phủ** là quá trình diễn biến chiến sự từ tháng 1 đến đầu tháng 3, ngay trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra. Trong giai đoạn này, Quân đội
**Isabelle của Pháp, cũng là Isabel của Navarra** ( hay _Isabelle de Navarre_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_ hay _Isabel de Navarra_; ; 1295 - 22 tháng 8, 1385), có biệt danh là
nhỏ|Huy hiệu của Hồng y Richelieu **Armand Jean du Plessis, Công tước thứ nhất của Richelieu** (tiếng Pháp: [aʁmɑ̃ ʒɑ̃ dy plɛsi]; 9 tháng 9 năm 1585 – 4 tháng 12 năm 1642), được gọi
**Huguenot** là những tín hữu Kháng Cách tại Pháp chấp nhận nền thần học Calvin. Thuật từ này có từ đầu thế kỷ 16 và thường được dùng để gọi những người thuộc Giáo hội
**Trận đồi Độc Lập** là trận đánh diễn ra tại ngọn đồi cùng tên trong giai đoạn 1 của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là trận đánh thứ hai của chiến dịch, diễn ra
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**Gia đình Borgia** ( , ; tiếng Tây Ban Nha và ; ) từng là một gia đình quý tộc gốc Tây Ban Nha - Aragon, đã vuơn tới đỉnh cao quyền lực ở nước
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**Vua Tây Ban Nha** (), hiến pháp gọi là **Ngôi vua** (la Corona) và thường được gọi **chế độ quân chủ Tây Ban Nha** (Monarquía de España) hoặc **chế độ quân chủ Hispanic** (Monarquía Hispánica)
Ngày **1 tháng 1** là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. ## Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma,
**Jean Calvin** (tên khai sinh là _Jehan Cauvin_, 10 tháng 7 năm 1509 – 27 tháng 5 năm 1564) là nhà thần học có nhiều ảnh hưởng trong thời kỳ Cải cách Kháng Cách. Tại
**François I** (tiếng Pháp) hay **Franz I** (tiếng Đức) (8 tháng 12 năm 1708 – 18 tháng 8 năm 1765)), còn được gọi là **François Étienne** (tiếng Pháp) hoặc **Franz Stephan** (tiếng Đức), là Hoàng
**Vương tộc Trastámara** (tiếng Tây Ban Nha, tiếng Aragón và tiếng Catalan: _Casa de Trastámara_; tiếng Anh: _House of Trastámara_) là một triều đại từng cai trị Vương quyền Castilla và sau đó mở rộng
thumb|Tượng James V tại Đài tưởng niệm Scott **James V của Scotland** (tiếng Pháp: _Jacques V d'Écosse_; tiếng Scotland: _James V o Scotland_; 10 tháng 4 năm 1512 – 14 tháng 12 năm 1542), là
**Ramón Blanco Erenas Riera y Polo, Hầu tước thứ 1 xứ Peña Plata** (15 tháng 9 năm 1833 – 4 tháng 4 năm 1906) là chuẩn tướng và nhà quản lý thuộc địa người Tây
**_Bá tước phu nhân de Monsoreau_** (, ) là một bộ phim truyền hình lãng mạn do Vladimir Popkov đạo diễn, được xuất phẩm vào ngày 5 tháng 1 năm 1998 tại Moskva. ## Lịch
Cesare Borgia. Chân dung do [[Altobello Melone vẽ. Bergamo, Accademia Carrara.]] **Cesare Borgia** (13 tháng 9 năm 1475 - 12 tháng 3 năm 1507), thường gọi là Công tước xứ Valentinois, Thân vương xứ Andria
**Bayezid I Yildirim** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman: بايزيد الأول, (Ottoman: ییلدیرم); sinh 1354 – mất 1403) là sultan của Đế chế Ottoman, trị vì từ năm 1389 đến năm 1402. Ông là con trai
thumb|Từ bên trái: Hàn Chấn Kỷ, Lưu Thụy Long, Điền Thú Nghiêu, [[Trương Ái Bình và Vi Quốc Thanh, đánh dấu cuộc họp của Đơn vị 5 của Bát lộ quân và Bộ Tư lệnh
**Lý thuyết Flypaper** là chiến lược dùng trong lĩnh vực quân sự. Lý thuyết này là ý tưởng thu hút quân đội kẻ thù đến một khu vực chọn sẵn, nơi sẽ dễ dàng hơn
**Trận Muong Khoua** diễn ra từ ngày 13 tháng 4 đến ngày 18 tháng 5 năm 1953, ở miền bắc Lào trong chiến dịch Thượng Lào lần thứ nhất trong chiến tranh Đông Dương thuộc
nhỏ|François-René de Chateaubriand, vẽ bởi [[Anne-Louis Girodet de Roussy-Trioson, đầu thế kỷ 19]] **François-René**, Tử tước của Chateaubriand (4 tháng 9 năm 1768 - 4 tháng 7 năm 1848) là một nhà văn, chính trị
**Phan Văn Giáo** (1904 - 1965) là một dược sĩ và chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Phó thủ tướng, Thủ hiến miền Trung, dưới thời kỳ Quốc trưởng Bảo Đại. ## Thân
**Henri xứ Bourbon** (; 13 tháng 12 năm 1553 – 14 tháng 5 năm 1610), cũng gọi là **Henri IV của Pháp** () hoặc **Enrique III của Navarra** (), là Vua nước Pháp từ năm
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
**Paris** () là thủ đô và là thành phố đông dân nhất nước Pháp, cũng là một trong ba thành phố phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới cùng Luân Đôn với New York