✨Vòng vây Điện Biên Phủ
Vòng vây Điện Biên Phủ là quá trình diễn biến chiến sự từ tháng 1 đến đầu tháng 3, ngay trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra. Trong giai đoạn này, Quân đội Nhân dân Việt Nam thực hiện chiếm giữ các ngọn đồi xung quanh lòng chảo Điện Biên Phủ để tạo bàn đạp đánh chiếm cứ điểm.
Kế hoạch
Cuộc chiến đấu ở Điện Biên Phủ sẽ diễn ra trên cả địa hình đồi núi và đồng bằng. Những cứ điểm nằm trên dãy đồi phía Đông tạo thành bức bình phong che chở vững chắc cho khu Trung tâm.
Từ lâu, người ta đã nói tới vai trò của một đồn nhỏ bé đặt ở một vị trí hiểm trở, cũng như nhiều đồn như vậy được nối liền với nhau ở vùng rừng núi trong chiến tranh. Carl von Clausewitz, nhà lý luận quân sự kinh điển, mặc dù đã nhấn mạnh vào những nhược điểm cơ bản của một cuộc chiến tranh phòng ngự tuyệt đối ở vùng rừng núi, cũng đã viết: "Đương nhiên, phải thấy là một số lớn những đồn như vậy được xây dựng sát bên nhau, tạo thành một mặt trận có sức mạnh to lớn, hầu như không thể công phá được".
Mọi cuộc tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) trên cánh đồng đều phải vượt qua hỏa lực của máy bay, đại bác, xe tăng và sự phản kích của quân cơ động, kể cả quân dù, trước khi đối đầu với hỏa lực bắn thẳng, hàng rào dây kẽm gai và bãi mìn của bản thân cứ điểm. Nhiều nhân vật cao cấp của cả Pháp và Mỹ tới thăm Điện Biên Phủ đều đánh giá đây là một "pháo đài không thể công phá".
Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh, trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương. Vấn đề quyết định là phải tìm ra cách đánh thích hợp với trình độ của bộ đội, khoét sâu những nhược điểm cơ bản của Pháp, hạn chế tới mức thấp nhất sức mạnh phi pháo và phát huy tới mức cao nhất khả năng tác chiến của bộ đội và tính năng các loại vũ khí. Trung ương Đảng đã nhìn thấy hai nhược điểm lớn của "con nhím" Điện Biên Phủ: Trước hết là tính cứng nhắc và thụ động của hệ thống phòng ngự bằng tập đoàn cứ điểm. Tập đoàn cứ điểm là một kết cấu chặt chẽ của nhiều cứ điểm, nhưng trong thực tế, vẫn là những cứ điểm tách rời. Quân địch ở đó tuy đông, nhưng khi một cứ điểm bị tiến công thì lực lượng đối phó chủ yếu vẫn là lực lượng của bản thân cứ điểm, cộng thêm với sự yểm trợ hỏa lực từ xa, và sự can thiệp của một lực lượng quân ứng chiến không đông. Nhược điểm này cho phép QĐNDVN tập trung sức mạnh tiêu diệt từng cứ điểm lựa chọn, vào thời gian thích hợp. Thứ hai là tính cô lập của bản thân "con nhím Điện Biên Phủ". Điện Biên Phủ nằm chơ vơ giữa vùng rừng núi mênh mông, rất xa những căn cứ hậu phương, nhất là những căn cứ không quân lớn, mọi việc tăng viện và tiếp tế đều phải dựa vào đường không. Nếu đường không bị hạn chế hay bị cắt đứt sẽ nhanh chóng mất sức chiến đấu. Khống chế sân bay, hoặc cắt đứt sân bay Mường Thanh không phải là điều khó khăn với QĐNDVN nếu biết cách đào hầm ngụy trang, che chở cho pháo, hạn chế uy lực của pháo binh và không quân Pháp. Do đó, QĐNDVN đã chọn cách "đánh chắc tiến chắc". Thay vì một cuộc tiến công vào toàn bộ tập đoàn cứ điểm, QĐNDVN sẽ xây dựng trận địa bao vây quang khu lòng chảo, chia cắt quân Pháp, đưa pháo vào những vị trí an toàn, đặt các cứ điểm trong tầm bắn, khống chế sân bay, tiếp đến sẽ tiến hành một loạt trận công kiên, tiêu diệt từng trung tâm đề kháng, bắt đầu từ tiêu diệt phân khu Bắc, mở đường đưa bộ đội vào cánh đồng Mường Thanh, cắt đứt sân bay, tiến tới bóp nghẹt con nhím Điện Biên Phủ.
Để tiến hành công tác chuẩn bị, Đảng ủy đề ra một số công việc phải thực hiện ngay:
- Tổ chức đường cơ động cho lựu pháo.
- Tổ chức trận địa lựu pháo thật kiên cố.
- Xây dựng trận địa tiến công và bao vây.
- Chuẩn bị sức khỏe cho bộ đội, quân số chiến đấu, chiến thuật, kĩ thuật (nhất là xây dựng trận địa và hiệp đồng bộ binh - pháo binh).
- Chuẩn bị công tác cung cấp.
Diễn biến
Phát hiện lực lượng lớn của Quân đội Nhân dân Việt Nam đang tiến về lòng chảo Điện Biên, Chỉ huy trưởng quân Pháp tại Điện Biên Phủ Christian de Castries liên tục tung lực lượng giải tỏa các ngọn đồi. Tuy cứ điểm bắt đầu bị bao vây nhưng chỉ huy Pháp vẫn rất tự tin vào chiến thắng. Bộ trưởng Quốc phòng Pháp René Pleven đã báo cáo với Chính phủ Pháp sau chuyến đi thị sát tình hình Đông Dương: "Tôi không tìm được bất cứ ai tỏ ra nghi ngờ về tính vững chắc của tập đoàn cứ điểm. Nhiều người còn mong ước cuộc tiến công của Việt Minh".
Về phía QĐNDVN, công tác chính trị ngay trước trận đánh được triển khai một cách sâu rộng. Cán bộ, chiến sĩ được phổ biến chỗ mạnh, chỗ yếu của Pháp, những điều kiện tất thắng của mình. Ý nghĩa to lớn của chiến dịch thấm tới từng người: "Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch, đập tan kế hoạch Nava, đánh bại âm mưu kéo dài chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp - Mỹ, mở ra một cục diện mới cho kháng chiến".
Tổng Quân ủy gửi thư hiệu triệu toàn thể cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ Trung ương Đảng đã trao. Nhân ngày kỷ niệm thành lập Quân đội Nhân dân 22 tháng 12 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao cho mỗi đại đoàn, mỗi quân khu một lá cờ "Quyết chiến Quyết thắng" làm giải thưởng luân lưu. Các chi bộ đều mở hội nghị xác định thái độ đảng viên, kêu gọi đảng viên dẫn đầu trong chiến đấu, cắm bằng được lá cờ trên nóc sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm. Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng đã trở thành một biểu tượng trong cả chiến dịch, trong mỗi trận đánh.
Ngày 28 tháng 12 năm 1953, toán quân báo của Đại đoàn 308 do Đại đội trưởng Kim Giao chỉ huy, phục kích tại một bản gần đồi Độc Lập, nổ súng giết chết Trung tá Gaston Louis Guth, Tham mưu trưởng của tập đoàn cứ điểm, thu được một cặp tài liệu quan trọng và một bản đồ về cấu trúc của tập đoàn cứ điểm. Trinh sát Trần Mạnh Phấn, người bắn hạ Trung tá Guth và thu chiếc cặp, được Bộ Chỉ huy tặng thưởng ngay Huân chương Chiến công hạng Nhì. Tuy nhiên đây chỉ là tấm bản đồ tỷ lệ 1/100.000 được vẽ tay từ nhiều năm trước và còn sơ sài, chưa thể hiện được hết địa thế khu vực.
Cuối cùng vào đầu tháng 2 năm 1954, chiến sĩ quân báo Nguyễn Ngọc Bảo thuộc Đại đội 42, Tiểu đoàn 426 của Cục Quân báo đã lấy được một tấm bản đồ chi tiết hơn chụp bằng máy bay. Sự kiện này đã được Bernard Fall ghi lại: "Ngày 1 tháng 2 năm 1954, hồi 15 giờ 30, Tiểu đoàn Thái số 2 đang tiến về cao điểm 628 nhằm mục đích phát hiện trận địa pháo của địch thì bị một loạt đạn dữ dội quét vào cuối đội hình. Trung úy Nègre (Negơrơ) cùng với 16 binh lính gục ngã ngay tại trận địa. Sau đó một trận đánh giáp lá cà diễn ra. Nhờ sự can thiệp nhanh của một đơn vị dù mà tiểu đoàn này tránh khỏi bị tiêu diệt. Những thiệt hại về sinh mạng đã là một đòn nặng, nhưng cộng vào đó còn một đòn khác mang điềm dữ hơn nhiều. Trong người trung úy Nègre, có một tấm bản đồ 1/25.000 mới in về thung lũng Điện Biên Phủ mà quân đội vừa kịp dựng lại từ những bức ảnh do máy bay chụp được. Có tấm bản đồ này, Việt Minh sẽ có điều kiện hiệu chỉnh đường bắn pháo binh của họ với độ chính xác cao nhất".
Ngày 31 tháng 1 năm 1954, lần đầu đường băng sân bay bị oanh tạc bằng sơn pháo 75 ly. Một máy bay nằm trên đường băng bị phá hủy. Bộ Chỉ huy quân Pháp cho rằng có ít nhất 2 trận địa pháo nằm trên những cao điểm ở ngay bên trong thung lũng, nên đã điều động Tiểu đoàn Algérie số 5 (5e bataillon du 7e régiment de tirailleurs algériens - V/7e RTA) và Tiểu đoàn Thái số 3 (3e bataillon thaï - BT 3) xuất phát từ Gabriel tiến về cao điểm 633, nằm cách đồi Độc Lập không đầy 1 km về phía bắc, nhằm tấn công tiêu diệt các trận địa pháo này. Trong ngày hôm đó, quân Pháp mở liên tiếp 7 đợt tiến công lên cao điểm 633. Tại đây, QĐNDNVN chỉ có một trung đội của Đại đội 915 thuộc Tiểu đoàn 542 (Trung đoàn 165, Đại đoàn 312), với 27 người đóng giữ, nhưng đã chiến đấu ngoan cường đẩy lui các cuộc tấn công, buộc Pháp phải bỏ cuộc. Trung đội được Bộ Chỉ huy chiến dịch tặng huân chương. Cao điểm 633 từ đó được gọi là đồi 75. trái|Vị trí Điện Biên Phủ (chấm đỏ). Khu vực quanh Điện Biên Phủ, Đồi Xanh (cao điểm 781) có vị trí chiến lược, ngăn cách cánh đồng Mường Thanh với dãy Tà Lèng và là lá chắn phía đông đối với khu vực chỉ huy của Pháp trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đối với QĐNDVN thì Đồi Xanh án ngữ con đường kéo pháo vào trận địa và là bàn đạp quan trọng để tấn công địch ở khu trung tâm Mường Thanh. Vì vậy QĐNDVN đã ra tay trước, nhân lúc Pháp sơ hở, chiếm lĩnh trận địa phòng ngự trên Đồi Xanh. Ngay trong đêm mồng Một Tết Giáp Ngọ (3 tháng 2 năm 1954), Tiểu đoàn 439 thuộc Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 đã hành quân ra chiếm lĩnh trận địa phòng ngự trên Đồi Xanh.
Sở Chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ bất ngờ khi biết tin Đồi Xanh đã do bộ đội Việt Nam chiếm giữ và xây dựng một trận địa pháo nằm ở sườn núi đối diện với Điện Biên Phủ, trực tiếp đe dọa nhiều cứ điểm bằng đạn bắn thẳng, được ngụy trang rất kỹ. Không thể tiêu diệt những khẩu pháo này bằng những trận phản pháo cũng như các loại máy bay ném bom như B-26, Bearcat, Sở Chỉ huy quân Pháp đành phải sử dụng lực lượng bộ binh để tìm cách tiêu diệt trận địa pháo này. Tuy nhiên họ đều không thành công. Đặc biệt, với trận đánh ngày 6 tháng 2, Pháp sử dụng lực lượng Tiểu đoàn Maroc số 1 (1er bataillon du 4e régiment de tirailleurs marocains - I/4e RTM) và Tiểu đoàn Thái số 2 (2e bataillon thaï - BT 2), mở liên tiếp 6 đợt tấn công nhưng đều thất bại. Nhật ký hành quân trong ngày của Pháp ghi cụ thể: 93 người chết, trong đó có 3 sĩ quan và 12 hạ sĩ quan. Riêng tiểu đoàn Maroc chết 1 người, bị thương 50 người, trong đó có những người bị trúng đạn pháo của Pháp bắn yểm hộ quá gần, mất tích 5 người. Một đại úy (Faisti ?) bị thương và chết ngày 11 tháng 2.
Liên tiếp trong các ngày từ 6 đến 8 tháng 2 tức mồng 4 Tết đến mồng 6 Tết, Tiểu đoàn 439 và các đơn vị phối thuộc đã liên tiếp đánh bại 3 lần tiến công, diệt gần 400 lính Pháp, bắn hỏng một xe tăng, bắn rơi 2 máy bay, trận địa Đồi Xanh được giữ vững. Đại đoàn 316 đã biến khu vực Đồi Xanh gồm nhiều cao điểm 781, 754, 518, 502... thành một bức thành ngăn cản Mường Thanh với dãy núi Tà Lũng ở phía trong, nơi bộ đội đang triển khai xây dựng trận địa.
Việc xây dựng các hầm pháo tốn khá nhiều công sức. Hầm pháo nằm sâu trong lòng núi, có công sự bắn, công sự ẩn nấp riêng, đủ rộng để pháo thủ thao tác dễ dàng khi chiến đấu. Nắp hầm dày trên 3 mét, gồm nhiều lớp gỗ, đất, xen với những lớp bó trút, đủ sức chịu đựng pháo 105 ly. Cạnh hầm pháo là hầm chỉ huy và hầm chứa đạn. Cứ bốn khẩu đội lại có chung một hầm làm nơi hội họp hoặc vui chơi. Nối liền các hầm pháo là hào giao thông khá rộng và sâu, có rãnh thoát nước và hố tránh bom napan. Lại có đường hào nối từ trận địa pháo về tuyến cung cấp, nơi có đủ hầm ăn, hầm ở, hầm thương binh, hầm nấu ăn, hầm giấu xe... Bên mỗi trận địa thật đều có một trận địa giả để thu hút bom đạn địch. Gỗ lát nóc hầm có đường kính từ 30 cm trở lên. Toàn bộ số gỗ này phải lấy từ xa, khoảng 9 – 10 km, đưa về để không làm lộ trận địa.
Những ngày sau đó là cuộc không vận tăng viện ồ ạt cho Điện Biên Phủ. Một số đơn vị dù được đưa về Hà Nội làm lực lượng dự bị và thay thế bằng những đơn vị Lê dương thích hợp với cuộc chiến đấu phòng ngự hơn. Súng không giật và những khẩu pháo 105 ly kém chất lượng chuyển từ Lào sang thời kỳ đầu cũng được thay thế bằng pháo 105 ly, 155 ly và cối 120 ly, nhiều khẩu mới nhận của Mỹ.
Ngày 16/12/1953, Đờ Cát ra lệnh cho tất cả các đơn vị phải củng cố vị trí chống được pháo 105 ly của đối phương. Muốn vậy, nắp hầm phải có hai lớp khúc gỗ đường kính 15 cm cách nhau một mét đất được lèn nhặt, bên trên có những bao tải đất để chống mảnh nổ. Việc bảo vệ một tiểu đội chiến đấu chống lại pháo 105 cần tới 30 tấn nguyên liệu. Sudrat, chỉ huy tiểu đoàn công binh, tính toán muốn xây dựng một công trình phòng ngự cho 12 tiểu đoàn ở Điện Biên Phủ phải có 36.000 tấn vật liệu.
Quân Pháp ra lệnh phá nhà sàn của dân thu được 2.200 tấn gỗ tốt. Cuộc không vận tăng viện cho Thượng Lào thu hút phần lớn máy bay vận tải. Cuối cùng, bộ chỉ huy Pháp chỉ đáp ứng được con số tối thiểu: 8.000 tấn; trong đó, có 3.000 tấn dây kẽm gai, 510 tấn ghi lát cho sân bay chính ở Mường Thanh và sân bay dự bị ở Hồng Cúm, 44 tấn cấu kiện xây dựng một chiếc cầu Bailey, 70 tấn gồm 5 chiếc xe ủi đất, 4,5 tấn thép, 130 khối gỗ và 30.767 trái mìn các loại. Số còn thiếu phải do các đơn vị tự xoay xở bằng cách thu thập tại chỗ.
Đầu tháng 12, Đờ Cát thấy cần phải có những xe tăng hạng nhẹ cho Điện Biên Phủ, 10 trong số 18 chiếc M24 Chaffee của Hoa Kỳ mới viện trợ, được chuyển tới Điện Biên Phủ bằng một cầu hàng không đặc biệt gồm năm chiếc máy bay C-47 và hai máy bay vận tải Bristol của Anh. Thiếu tá Vôn (Vaughn), cố vấn Mỹ ở tập đoàn cứ điểm, khuyên Đờ Cát nên yêu cầu Hà Nội chuyển cho mình loại trọng liên cao xạ 12,7 ly bốn nòng; những khẩu súng này có thể biến những đợt tiến công của bộ binh "thành những mảnh vụn thịt và xương". Và Đờ Cát đã được đáp ứng.
Từ thời Napoleon, nước Pháp đã tự hào về pháo binh. Người ta quyết định chọn cho Đờ Cát một viên phó chỉ huy đặc trách pháo binh. Đó là Trung tá Pirốt (Charles Piroth). Pirốt đã mất cánh tay trái trong một trận đánh tại Ý năm 1943, và vẫn được giữ lại trong quân đội vì những kinh nghiệm chuyên môn giỏi của mình.
Theo Henri Navarre thì: "Điện Biên Phủ đã thực sự trở thành một tập đoàn cứ điểm khổng lồ. Màu xanh của cây cỏ, đồng lúa đã hoàn toàn biến mất nhường chỗ cho màu đỏ sậm nhức nhối pha với màu chì dữ dội của đất và dây kẽm gai, nhung nhúc những hầm hào, ụ súng chuẩn bị khác nữa. Những trung tâm đề kháng có bãi mìn bao quanh, gồm mìn "cổ điển", mìn "nhảy" sẵn sàng tiêu diệt những đợt xung phong của bộ binh khi họ vừa chạm tới hàng rào. Hơn thế, công binh đã chôn giấu bên sườn núi dựng đứng những thùng đựng 40 lít "nagel", khi cháy ra sẽ thành những làn sóng lửa biến những người tiến công thành bó đuốc sống. Những vị trí chủ yếu đều được trang bị súng có kính ngắm điện tử (fusils à lunette électronique) có thể phát hiện kẻ địch đang tiến gần trong cả những đêm trời tối đen. Binh đoàn đồn trú vẫn tin rằng sức mạnh của con nhím Điện Biên Phủ cùng với sức mạnh không quân Pháp, những tàu sân bay Mỹ trên biển Đông cũng sẵn sàng hỗ trợ khi cần thiết".
Những đơn vị pháo binh giỏi được điều lên Điện Biên Phủ. Đó là Tiểu đoàn 3 Trung đoàn Pháo thuộc địa thứ 10 (3110è RAC), một đơn vị pháo phối thuộc với Bán Lữ đoàn Lê dương thứ 13. Tiểu đoàn thứ hai thuộc Trung đoàn Pháo thuộc địa thứ tư (4è RAC), trung đoàn pháo kỳ cựu nhất của Pháp ở châu Á, đã có mặt tại Bắc Kỳ từ những năm 1883-1885 và trong cuộc xâm lăng vào Trung Quốc năm 1890 ở Thiên Tân, Bắc Kinh. Trọng pháo 155 ly, loại pháo lớn nhất của Pháp tại Đông Dương, được đưa lên Điện Biên Phủ. Ngoài hai tiểu đoàn pháo rất đáng tin cậy, còn có ba đại đội súng cối hạng nặng 120 ly, với cách bắn cầu vồng có thể phá hoại các giao thông hào của đối phương. Loại pháo này được trang bị cho các trung tâm đề kháng trọng yếu.
Theo cách đánh giá của phương Tây thì khu trung tâm tập đoàn cứ điểm chỉ rộng khoảng 2,5 km vuông đã có tới 12 khẩu 105mm, 4 khẩu 155mm, 24 khẩu cối 120mm và 81mm và một số dự trữ đạn dược đồ sộ (tương đương từ 6 đến 9 cơ số đạn trước trận đánh) là quá mạnh.
Đến ngày 13/3/1954, trước khi nổ ra trận Him Lam, các trận địa pháo binh của Pháp ở trung tâm Mường Thanh và Hồng Cúm cũng đã sẵn sàng, có từ 6-8 cơ số đạn tùy theo cỡ súng với số lượng như sau: 27.400 đạn pháo 105mm; 22.000 đạn súng cối và 2.500 đạn pháo 155mm.
Khu vực Lai Châu: Cuộc hành quân Pollux
Tướng Gilles muốn phát hiện những nơi đóng quân của đối phương và chuẩn bị cho kế hoạch tiếp theo cuộc hành quân Castor, tức là đón đoàn quân từ Lai Châu rút xuống, rời bỏ pháo đài cuối cùng của Pháp ở vùng thượng du vì biết trước không thể nào đương đầu nổi với các đại đoàn 308 và 316 của Việt Minh. Cuộc hành quân rút khỏi Lai Châu được mang tên mật là Pollux.
Điều rủi ro là các sư đoàn Việt Nam có thể ngăn chặn cuộc rút quân từ Lai Châu về Điện Biên Phủ. Để hạn chế mối nguy hiểm này, Trung tá Trancart, Chỉ huy Binh đoàn tác chiến Tây Bắc đã nhận được chỉ thị phân chia số binh lính đóng ở Lai Châu làm ba bộ phận:
Nava đã viết trong cuốn hồi ký của mình: "Trong thời gian này, Đại tá Đờ Cát thực hành những trận chiến đấu mạnh mẽ có tính thăm dò xung quanh Điện Biên Phủ. Ở khắp nơi, quân Pháp đều vấp phải những đơn vị bộ đội vững vàng và phòng ngự rất giỏi của địch. Chúng ta bị thiệt hại khá nặng nề. Rõ ràng là vòng vây chung quanh tập đoàn cứ điểm không hề bị rạn nứt".
Ngày 11/3/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới các chiến sĩ: "Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn khó khăn nhưng rất vinh quang... Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới... Chúc các chú thắng to!"
Cùng ngày, lệnh động viên toàn thể cán bộ, chiến sĩ mở cuộc tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã được gửi tới các đơn vị: "Chiến dịch Điện Biên Phủ sắp bắt đầu! Đây là chiến dịch công kiên quy mô lớn nhất trong lịch sử quân đội ta... Đánh thắng ở Điện Biên Phủ, chúng ta sẽ phá tan kế hoạch Nava, giáng một đòn chí tử vào âm mưu mở rộng chiến tranh của bọn đế quốc Pháp - Mỹ. Chiến dịch thắng lợi sẽ có ảnh hưởng vang dội trong nước và ngoài nước, sẽ là một cống hiến xứng đáng vào phong trào hòa bình thế giới đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt - Miên - Lào... Giờ ra trận đã đến! Tất cả các cán bộ và chiến sĩ, tất cả các đơn vị, tất cả các binh chủng hãy dũng cảm tiến lên, thi đua lập công, giật lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch".
Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Mặt trận hiệu triệu: "Trận này là trận công kiên quy mô lớn nhất trong lịch sử quân đội ta từ trước đến nay, là những trận đánh đầu tiên có trọng pháo, pháo cao xạ phối hợp. Tôi kêu gọi: - Hiệp đồng chặt chẽ - Chiến đấu liên tục - Tiêu diệt toàn bộ địch tại Điện Biên Phủ giành thắng lợi lớn cho chiến dịch."