✨Quân chủ Tây Ban Nha

Quân chủ Tây Ban Nha

Vua Tây Ban Nha (), hiến pháp gọi là Ngôi vua (la Corona) và thường được gọi chế độ quân chủ Tây Ban Nha (Monarquía de España) hoặc chế độ quân chủ Hispanic (Monarquía Hispánica) là chức vụ đứng đầu Hoàng gia Tây Ban Nha. Chế độ quân chủ bao gồm Vua, hoàng gia, tổ chức thuộc hoàng gia hỗ trợ và tạo điều kiện cho vua thực hiện nhiệm vụ và quyền lực. Chế độ quân chủ hiện tại được đại diện bởi vua Felipe VI, vương hậu Letizia, con gái Leonor, công nương của Asturias, và Infanta Sofia.

Các cuộc thăm dò thường xuyên tiết lộ rằng chế độ quân chủ của Tây Ban Nha vẫn nhận được đa số ủng hộ từ người dân thời hiện đại, có khoảng 75% người dân Tây Ban Nha được thăm dò xếp Hoàng gia Tây Ban Nha cao hơn, so với các cơ quan chính trị khác. Trong năm 2014 khi vua Filipe VI lên ngôi, có khoảng 72% số người được thăm dò tin rằng chế độ quân chủ cần thiết cho sự ổn định chính trị Tây Ban Nha. Tuy nhiên, hỗ trợ của công chúng đã phần nào bị xói mòn hoặc trở nên thờ ơ sau các vụ bê bối hoàng gia năm 2008 dưới thời vua Juan Carlos dẫn tới sự truyền ngôi cho vua Filipe VI. Chỉ 37% người dân muốn Tây Ban Nha trở lại chế độ Cộng hòa.

Hiến pháp 1978 thiết lập chế độ quân chủ lập hiến như hình thức chính quyền Tây Ban Nha. Hiến pháp 1978 quy định Vua là người đứng đầu Nhà nước, là biểu tượng của sự thống nhất và vĩnh cửu của đất nước. Vua là nguyên thủ đồng thời Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Tây Ban Nha. và Kitô hữu Vương quốc Asturias trong cuộc chiến Reconquista chống lại người Hồi giáo trong thế kỷ thứ 8. Và tới thế kỷ 15 là cuộc kết hôn giữa Isabel I của Castilla với Fernando II của Aragon thống nhất Tây Ban Nha. Đế quốc Tây Ban Nha trở thành quốc gia đầu tiên cử người chinh phục châu Mỹ và hình thành thực dân Tây Ban Nha.

Ngôi vua, Hiến pháp và đặc quyền hoàng gia

Ngôi vua Tây Ban Nha có nguồn gốc từ Visigothic trong thế kỷ thứ 5 và tiếp tục cho tới nay. Hiến pháp Tây Ban Nha quy định "Vua là người đứng đầu Nhà nước, là biểu tượng của sự thống nhất và vĩnh cửu của đất nước. Vua phân xử và điều hòa chức năng chung của các tổ chức, được coi là đại diện cao nhất của Nhà nước Tây Ban Nha trong các quan hệ quốc tế, đặc biệt là với các quốc gia thuộc cộng đồng lịch sử của Tây Ban Nha, và thực hiện các chức năng được Hiến pháp và pháp luật minh định cho mình".

Theo Hiến pháp Tây Ban Nha bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý, quyền lực chủ quyền toả ra từ người dân, cho nên chính người dân trao quyền cho Vua cai trị:

Sau khi lên ngôi, vua phải thề trung thành thực hiện nhiệm vụ của mình theo Hiến pháp và tuân theo Hiến pháp và pháp luật của quốc gia. Ngoài ra, hiến pháp cho Đức vua thêm trách nhiệm đảm bảo rằng tuân theo hiến pháp. Sau cùng, Đức vua thề sẽ tôn trọng quyền của công dân Tây Ban Nha và cộng đồng tự trị. Hoàng thân của Asturias, khi đến tuổi trưởng thành, và quan nhiếp chính nhậm chức, cùng lời thề với của Đức vua và thêm lời thề lòng trung thành với vua.

Bổn phận của Nhà vua bao gồm:

  • Phê chuẩn và công bố các đạo luật.
  • Triệu tập, giải tán Nghị viện và kêu gọi bầu cử theo các điều khoản quy định trong Hiến pháp.
  • Kêu gọi trưng cầu ý dân theo các trường hợp được quy định trong Hiến pháp.
  • Đề xuất ứng cử viên Thủ tướng Chính phủ; chỉ định hoặc bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ trong các trường hợp có thể theo quy định trong Hiến pháp.
  • Bổ nhiệm, miễn nhiệm các thành viên của Chính phủ theo đề xuất của Thủ tướng.
  • Ban hành các sắc lệnh đã được Hội đồng Bộ trưởng thông qua trao các chức vụ dân sự và quân sự, các danh hiệu danh dự và các giải thưởng phù hợp với quy định của luật.
  • Được thông báo về các công việc của Nhà nước và phù hợp với mục đích này, chủ trì các cuộc họp của Hội đồng Bộ trưởng theo yêu cầucủa Thủ tướng vào bất cứ khi nào mà Nhà vua thấy phù hợp.
  • Thực hiện quyền chỉ huy tối cao các lực lượng vũ trang.
  • Thực hiện các quyền về chính sách khoan hồng theo quy định của luật nhưng không được quyền ân xá chung.
  • Thực hiện việc Bảo trợ Cấp cao của Viện Hàn lâm Hoàng gia.

    Tước hiệu, danh xưng, trao danh hiệu

    thumb|Cờ hiệu Hoàng gia Hiến pháp Tây Ban Nha 1978 quy định tước hiệu quốc vương là vua Tây Ban Nha, nhưng vua có thể sử dụng nhiều tước hiệu khác gắn liền với ngôi vua. Các tước hiệu được vua Alfonso XIII sử dụng lần cuối trước khi phải đi lưu vong năm 1931, với quy định này của Hiến pháp vua được sử dụng các tước hiệu:

Theo nghị định Hoàng gia năm 1987, Đức vua và Vương hậu sẽ được có danh xưng chính thức là "đức ngài và đức bà" và cách gọi khác "vua công giáo". Chồng của Nữ hoàng Tây Ban Nha sẽ được mang danh xưng "Hoàng thân" (Su Alteza Real). Ngoài ra, một nữ hoàng góa chồng và chưa lập gia đình, tiếp tục là Vương Thái hậu vẫn mang danh xưng "đức bà". Hoàng tử góa vợ và chưa lập gia đình thì sẽ tiếp tục có danh xưng "hoàng thân". Người thừa kế ngay từ khi sinh ra mang tước hiệu "Hoàng thân Asturias" và các tước hiệu khác gắn liền với lịch sử người thừa kế. Những danh hiệu bổ sung bao gồm "Hoàng thân của Viana" là người thừa kề Vương quốc Navarre; với danh hiệu Hoàng thân của Girona và Công tước của Montblanc là danh hiệu thừa kế Ngôi vua của Aragon. Những người con khác của đức vua được mang tước hiệu Infante hoặc Infanta (Hoàng tử và công chúa). Con của Infante hoặc Infanta của Tây Ban Nha "được cân nhắc tước hiệu quý tộc Tây Ban Nha", và danh xưng "ngài". Nghị định còn bổ sung thêm danh xưng cho nhiếp chính khi đức vua chưa đủ tuổi hoặc khả năng pháp lý. Không có nghị định về tước hiệu và danh xưng cho chắt, cháu đời thứ tư của đức vua đang tại nhiệm.

Sau khi thoái vị năm 2014, Juan Carlos I và vợ Sofia vẫn tiếp tục mang danh xưng của vua và vương hậu Tây Ban Nha.

Đức vua có vị trí trao danh hiệu danh dự Tây Ban Nha được cụ thể hóa trong Hiến pháp. Điều 62 (f)Bổn phận của Nhà vua bao gồm:[...] trao các danh hiệu danh dự và các giải thưởng phù hợp với quy định của luật. Theo Bộ Tư pháp Tây Ban Nha, quý tộc và tước hiệu quý tộc được tạo ra bởi "đặc ân tối cao của đức vua", và có thể truyền cho người thừa kế, và không được bán tước hiệu. Tước hiệu có thể trở lại Ngôi khi chỗ khuyết được xem xét. Nhiều tước hiệu được lập và ghi vào danh sách "tước hiệu vùng lãnh thổ". Hầu hết theo luật kế thừa thì người con đầu sẽ được thừa kế không phân biệt giới tính (năm 2006). Tuy nhiên tước hiệu được kế thừa là người được chỉ định thừa kế, Nối ngôi bằng nhượng lại, hoặc phân tán tước hiệu cho các con- với nhiều tuổi nhất được mang tước hiệu cao nhất, Nối ngôi bằng phân bổ.

Trong suốt thời gian cai trị của mình vua Juan Carlos trao quý tộc cho 2 Thủ tướng có đóng góp chính trị quan trọng: Adolfo Suárez, được biết tới Công tước của Suárez đệ nhất và Leopoldo Calvo-Sotelo người được biết tới Nữ hầu tước của la Ría de Ribadeo. Tất cả chính trị gia vẫn tiếp tục hoạt động chính trị.

Đức vua không những ban cho huân huy chương quân sự và dân sự, mà còn cấp trao tặng biểu hiện danh dự, tước hiệu, danh hiệu, thông thường theo lời khuyên của chính phủ. Huân chương Charles III là huân chương dân sự được trao cho "công dân với nỗ lực không ngừng, với sáng kiến và công việc, đã mang tới sự xuất sắc và đặc biệt phục vụ Nhà nước". Huân chương chữ thập của Saint Ferdinand là huân chương quân sự cao nhất trao cho lòng dũng cảm. Các huân chương khác gồm: Huân chương Hiệp sĩ Tây Ban Nha (Orden del Toisón de Oro), Huân chương Isabella Công giáo, Huân chương Alfonso X, Huân chương Hoàng gia và quân đội Saint Hermenegild, Huân chương Saint Raimundo de Penafort, Huân chương Quân công, Huân chương công trạng Hải quân, Huân chương công trạng Không quân, Huân chương công trạng Dân sự, Huân chương công trạng Văn hóa, Huân chương Calatrava, Huân chương Hiệp sĩ Santiago, Huân chương Sant Jordi d'Alfama, Huân chương Alcántara, và một số khác.

Bất khả xâm phạm và khi quân

Đức vua có quyền bất khả xâm phạm cá nhân không thể bị truy tố được thực hiện bởi bộ trưởng chính phủ. Những điều luật thể hiện về sự bất khả tối cao trong chế độ quân chủ lập hiến. Các khái niệm pháp lý tương tự tại các quốc gia dân chủ khác, quyền bất khả của Quốc hội, quyền bất khả tư pháp, quyền bất khả hạn chế tại Hoa Kỳ.

Khái niệm "lèse majesté" (tội khi quân) hiện có trong luật học tiếng Tây Ban Nha, là tội ác hay tấn công vi phạm nhân phẩm của nguyên thủ quốc gia hay chính quốc. Theo điều 56 Đức vua và phẩm giá của Tây Ban Nha là một và giống nhau "Vua là người đứng đầu Nhà nước, là biểu tượng của sự thống nhất và vĩnh cửu của đất nước". Tội khi quân từ mức phạt tiền cho tới 2 năm tù. Khái niệm này tương tự việc đốt cờ tại các nước dân chủ khác. Ngoài ra tội khi quân còn áp dụng cho nguyên thủ nước ngoài tới Tây Ban Nha, các thành viên Hoàng gia, Chủ tịch Chính phủ được đức vua bổ nhiệm.

Tạp chí trào phúng El Jueves bị phạt vì đã vi phạm luật lèse majesté sau khi cho phát hành một ấn bản với một biếm họa trên bìa mặt 2007, trong đó thái tử và công chúa Asturias đang làm tình. Năm 2008, 400 người ủng hộ ly khai Catalonia đốt hình vua và hoàng hậu ở Madrid, và trong năm 2009, 2 người ủng hộ ly khai Galician đã bị phạt vì đốt hình nộm của vua.

Thừa kế và nhiếp chính

Thừa kế

Điều 57 Hiến pháp Tây Ban Nha quy định về người thừa kế

Hiến pháp cũng quy định thêm rằng "Nếu tất cả các dòng được chỉ định theo quy định của pháp luật đều không còn người kế vị, Nghị viện sẽ đề nghị người kế thừa Ngai vàng theo cách thức phù hợp nhất với lợi ích của Vương quốc Tây Ban Nha."

Danh sách kế vị vua Filipe VI:

Nữ Thân vương của Asturias, con gái lớn của đức vua

The Infanta Sofía, con gái nhỏ của đức vua

The Infanta Elena, Duchess of Lugo, con gái lớn của vua Juan Carlos I.

Ngài Felipe Juan Froilán de Marichalar y de Borbón, con trai của Infanta Elena.

Ngài Victoria Federica de Marichalar y de Borbón, con gái của Infanta Elena.

The Infanta Cristina, Duchess of Palma de Mallorca, con gái nhỏ của vua Juan Carlos I.

Ngài Juan Urdangarín y de Borbón, con trai cả của Infanta Cristina.

Ngài Pablo Urdangarín y de Borbón, con trai giữa của Infanta Cristina.

Ngài Miguel Urdangarín y de Borbón,con trai nhỏ của Infanta Cristina.

Ngài Irene Urdangarín y de Borbón, con gái của Infanta Cristina.

Nhiếp chính

Điều 59 Hiến pháp quy định

Hiến pháp đồng thời cũng quy định nếu đức vua không đủ khả năng thực hiện quyền được Nghị viện công nhận, thì Thái tử, nếu đủ độ tuổi quy định, sẽ ngay lập tức được chỉ định chức vụ Nhiếp chính. Nếu không đủ độ tuổi quy định, các thủ tục nêu trong khoản trên được áp dụng cho đến khi Thái tử đủ độ tuổi quy định. Trong trường hợp không có người đủ điều kiện để trao quyền nhiếp chính, Nghị viện chịu trách nhiệm lựa chọn người nhiếp chính và chế độ nhiếp chính sẽ được thực hiện bởi một, ba hoặc năm người. Chức vụ Nhiếp chính sẽ được thực hiện theo sự uỷ nhiệm của Hiến pháp, và luôn luôn thay mặt cho Nhà vua.

Nhà vua, Chính phủ và Quốc hội

Hiến pháp quy định trách nhiệm của Chính phủ. Chính phủ bao gồm Chủ tịch và các bộ trưởng của quốc gia. Chính phủ thực hiện đối nội và đối ngoại, chính quyền dân sự và quân sự, quốc phòng dưới tên của đức vua. Ngoài ra chính phủ thực thi quyền hành pháp theo luật định. Đặc quyền trực tiếp và tối cao của đức vua với Chính phủ là bổ nhiệm Chủ tịch Chính phủ (Presidente del Gobierno de España). Điều 99 Hiến pháp 1978 quy định:

Quốc hội và Chính phủ có nhiệm kỳ không quá 4 năm hoặc khi Chủ tịch Chính phủ thảo luận với nhà vua về việc giải tán Quốc hội, tổ chức cuộc tổng tuyển cử mới.

Chấp thuận Hoàng gia, tư pháp và ban hành luật pháp

Hiến pháp quy định Vua có quyền chấp thuận và ban hành luật nằm trong Phần III Nghị viện Chương 2 Soạn thảo dự luật trong Hiến pháp. Điều 91 quy định trong thời gian 15 ngày, Nhà Vua sẽ đưa ra quyết định phê chuẩn dự án luật của Nghị viện và phải lập tức ban hành cũng như ra lệnh công bố dự luật. Điều 92 quy định việc trưng cầu ý dân do Nhà vua tuyên bố theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ sau khi đã nhận được sự ủy quyền trước đó của Hạ nghị viện.

Hiến pháp không quy định việc bác bỏ trực tiếp của nhà vua, tuy nhiên cũng không cấm nhà vua có thể thu hồi phê chuẩn hoàng gia, bác bỏ hiệu quả. Năm 2005 khi truyền thông hỏi trực tiếp vua Juan Carlos I về dự thảo luật hôn nhân đồng giới (ngụ ý có thể không công nhận dự thảo), Juan trả lời "Soy el Rey de España y no el de Bélgica" (tôi là vua của Tây Ban Nha, không phải của Bỉ)- nhắc đến vua Bỉ Baudouin I không chịu ký dự luật phá thai tại Bỉ.

Phần VI Tư pháp trong Hiến pháp Tây Ban Nha quy định tư pháp của Tây Ban Nha "Công lý bắt nguồn từ nhân dân và được thực thi nhân danh Nhà vua bởi các thẩm phán và các quan tòa thuộc nhánh quyền lực tư pháp với vị trí độc lập". Đức vua có đặc quyền chỉ định 20 thành viên của Đại hội đồng Tư pháp có quyền tư pháp tối cao Tây Ban Nha (Tòa án Tối cao Tây Ban Nha), rồi chỉ định 1 Chánh án Tòa án Tối cao theo đề nghị của Đại hội đồng Tư pháp. Tuy nhiên theo quy ước việc đề cử của nhà vua có sự tham vấn của Chính phủ hiện tại.

Ngoài ra, nhà vua có thể bổ nhiệm Công tố viên Nhà nước theo đề nghị của Chính phủ sau khi đã tham khảo ý kiến với Đại hội đồng tư pháp. Nhà vua có thể sử dụng lòng khoan dung theo quy định của pháp luật (có quyền ân xá), và không cho áp dụng đối với Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ phải chịu trách nhiệm hình sự trước Tòa Hình sự của Tòa án tối cao và tội danh phản quốc theo điều 62 và 102 của Hiến pháp.

Nhà vua và đối ngoại

Nhà vua có quyền bổ nhiệm đại sứ tại nước ngoài và nhận quốc thư từ đại sứ các nước. Tuy nhiên Chính phủ hiện tại quản lý chính sách ngoại giao thay mặt nhà vua. Ngoài ra, nhà vua còn có thể chấp thuận các hiệp ước hợp tác phù hợp với Hiến pháp.

Với vương quyền của mình, trong những năm đầu lên ngôi vua Juan Carlos thực hiện chính sách Đối mặt với quá khứ và Hòa giải, cải thiện đáng kể vị thế của Tây Ban Nha trên trường quốc tế. Nhà vua hòa giải mối quan hệ lịch sử với Hà Lan và cải thiện mối quan hệ với Pháp, Đức dẫn tới việc Tây Ban Nha trở thành thành viên của EU và NATO. Trong mối quan hệ giữa chính quyền Franco với Giáo hoàng trong việc cải cách Công đồng Vaticanô II, cá nhân Juan Carlos đã gặp Giáo hoàng liên tiếp cải tiến đáng kể mối quan hệ ngoại giao giữa Toà Thánh và Tây Ban Nha, và với Giáo hoàng Paul VI đã ban phúc cho Juan Carlos trong công cuộc cải cách dân chủ. Hiến pháp cho vua đặc biệt trách nhiệm xúc tiến quan hệ Tây Ban Nha với thành viên của cộng đồng lịch sử của nó, quốc gia trước đây một phần lãnh thổ của Tây Ban Nha cũng như quan hệ với Bồ Đào Nha và Brasil. Thực hiện trách nhiệm này, vua của Tây Ban Nha làm Chủ tịch của 24 thành viên Tổ chức Ibero-America. Năm 2008 vua Juan Carlos được bình chọn là lãnh đạo nổi tiếng nhất trong tổ chức Ibero-America.

Vua được Bộ Ngoại giao giúp đỡ trong việc quan hệ ngoại giao, và thành viên cấp cao của bộ Ngoại giao luôn có sẵn khi nhà vua ở nước ngoài và đại diện cho Tây Ban Nha. Hoàng gia phối hợp thực hiện với bộ Ngoại giao để đảm bảo ngoại giao thành công. Ngoài ra các thành viên khác của Vương thất, đặc biệt là Thân vương Asturias có thể đại diện cho Tây Ban Nha trên trường quốc tế. Mặc dù chế độ quân chủ độc lập với Chính phủ, nhưng để thống nhất chính sách ngoại giao các bài diễn văn của Vương thất được thảo luận tại bộ Ngoại giao, để đảm bảo sự thống nhất giữa quan điểm của nhà vua và chính sách ngoại giao của Chính phủ. Khi cần thiết nhà vua và Chính phủ có thể tập trung vào 2 khía cạch khác nhau trong 1 cam kết ngoại giao. Nhà vua có thể nhấn mạnh một khía cạnh việc thúc đẩy dân chủ và mối quan hệ lịch sử; trong khi chính phủ tập trung vào các chi tiết kế hoạch chiến lược và phối hợp song phương.

Nhà vua là Tổng tư lệnh Tối cao

Vai trò của Ngôi vua trong lực lượng vũ trang Tây Ban Nha ăn sâu vào truyền thống và lòng yêu nước khi được biểu lộ trong biểu tượng và lịch sử quân sự. Vai trò của vua Tây Ban Nha trong hệ thống cấp bậc của lực lượng được quy định bằng hiến pháp 1978, và các luật thành văn (đạo luật của quốc hội, Nghị định Hoàng gia v.v).

Tuy nhiên trong Phần IV Hiến pháp trao quyền quản lý lực lượng vũ trang và đề ra chính sách quốc phòng với chủ tịch Chính phủ, viên chức dân sự được đề cử và nhà vua bổ nhiệm, được Đại hội Đại biểu xác nhận bầu cử, là người đại diện cho Tây Ban Nha.

Nghị định Hoàng gia #1310 ngày 5/10/2007 yêu cầu Hội đồng Quốc phòng báo cáo với nhà vua, và nhà vua là chủ tịch Hội đồng khi tham gia phiên họp. Hội đồng Quốc phòng Quốc gia là cơ quan tư vấn cao nhất của Tây Ban Nha về các vấn đề an ninh, quốc phòng và thực hiện các chức năng cơ bản như Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ. Vua Juan Carlos đã chủ trì cuộc họp đầu tiên của Hội đồng vào ngày 10/11/2007, lúc đó mới được đề xuất Chỉ huy Quốc phòng Quốc gia được xem xét cùng với các nhiệm vụ hòa bình đang diễn ra ở Afghanistan, Kosovo, Bosnia và Lebanon.

Là Tổng Tư lệnh tối cao, nhà vua có quân hàm bậc cao nhất trong lực lượng vũ trang Tây Ban Nha. Quân hàm của vua bao gồm Tướng Chỉ huy Lục quân, Hải quân, Không quân. Nhà vua là người chỉ huy trong quân đội nắm cấp bậc tướng 5 sao. Nhà vua có sự quan tâm đến tất cả các khía cạnh của chính sách quân sự bằng chứng là "sự tham gia trực tiếp trong lực lượng vũ trang Tây Ban Nha". Việc tham gia trong quân đội xuất phát từ nhiệm vụ hiến định là "phân xử và ôn hòa" công việc thường xuyên trong nhà nước. Phục vụ trong lực lượng vũ trang là điều bắt buộc với người kế vị, và Juan Carlos phục vụ trong các nhánh khác nhau của quân đội trước khi ông lên ngôi vua. Tương tự như vậy, Hoàng tử Philip, Thân vương của Asturias, đã phục vụ trong lực lượng vũ trang.

Danh sách nguyên thủ quốc gia Tây Ban Nha

Vương quốc Tây Ban Nha (1479-1873)

Triều đại Trastámara (1479-1555)

Isabel I (1474-1504) Fernando V & II (1475-1516) Juana I (1516-1555) Philipp I (tháng 6, 1506 - tháng 9, 1506)

Triều đại Habsburg (1516-1700)

Carlos I (1516-1556) Felipe II (1556-1598) Felipe III (1598-1621) Felipe IV (1621-1665) *Carlos II (1665-1700)

Triều đại Bourbon (1700-1808)

Felipe V (1700-1724) Luis I (tháng 1 năm 1724 - tháng 8 năm 1724) Felipe V (1724-1746) Fernando VI (1746-1759) Carlos III (1759-1788) Carlos IV (1788-1808) *Fernando VII (tháng 3 năm 1808 - tháng 5 năm 1808)

Triều đại Bonaparte (1808-1813)

*Joseph I (1808-1813)

Triều đại Bourbon (1813-1868)

Fernando VII (1813-1833) Isabel II (1833-1868)

Triều đại Savoy (1870-1873)

*Amadeo I (1870-1873)

Đệ Nhất Cộng hòa Tây Ban Nha (1873-1874)

Estanislao Figueras (tháng 2 - tháng 6 năm 1873) Francisco Pi y Margall (tháng 6 - tháng 7 năm 1873) Nicolás Salmerón y Alonso (tháng 7 - tháng 8 năm 1873) Emilio Castelar y Ripoll (1873-1874) *Francisco Serrano y Domínguez (tháng 1 - tháng 12 năm 1874)

Vương quốc Tây Ban Nha (1874-1931)

Triều đại Bourbon (1874-1931)

Alfonso XII (1874-1885) Alfonso XIII (1886-1931)

Đệ Nhị Cộng hòa Tây Ban Nha (1931-1939)

Niceto Alcalá-Zamora (1931-1936) Diego Martínez Barrio (quyền tổng thống, tháng 4 - tháng 5 năm 1936) *Manuel Azaña (1936-1939)

Tây Ban Nha thời đại Franco (1936-1975)

Francisco Franco (1936-1975) Alejandro Rodríguez de Valcárcel (20 - 22 tháng 11 năm 1975)

Vương quốc Tây Ban Nha (1975-nay)

Triều đại Bourbon (1975-nay)

Juan Carlos I (1975-2014) Felipe VI (2014-nay)

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vua Tây Ban Nha** (), hiến pháp gọi là **Ngôi vua** (la Corona) và thường được gọi **chế độ quân chủ Tây Ban Nha** (Monarquía de España) hoặc **chế độ quân chủ Hispanic** (Monarquía Hispánica)
Đây là **danh sách ­­­­­vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
**Quan hệ Tây Ban Nha – Việt Nam** () gọi tắt là **quan hệ Việt – Tây**, là mối quan hệ hợp tác giữa 2 quốc gia là Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Tây Ban Nha thời Franco** () hoặc **Chế độ độc tài Francisco Franco** (), chính thức được gọi là **Quốc gia Tây Ban Nha** (), là thời kỳ lịch sử Tây Ban Nha từ năm
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**Chủ tịch Chính phủ Tây Ban Nha** (), thường được gọi là **thủ tướng Tây Ban Nha**, là người đứng đầu chính phủ của Tây Ban Nha. Chủ tịch Chính phủ bổ nhiệm các bộ
**Cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha**, còn gọi là **Cuộc chinh phục Mexico** hay **Chiến tranh Aztec-Tây Ban Nha** (1519-1521) là một trong những sự kiện quan trọng nhất của quá
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha** (; 25 tháng 9 năm 1808 - 29 tháng 9 năm 1833) là tên gọi chỉ chung các cuộc binh biến diễn ra ở châu
**Chiến tranh Pháp-Tây Ban Nha** là một cuộc xung đột quân sự đã đẩy nước Pháp tham chiến trong Chiến tranh Ba mươi năm. Sau khi các đồng minh Đức của Thụy Điển buộc phải
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Infante/Infanta của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Infante/Infanta de España) là một tước hiệu được ban cho các con của Quân chủ Tây Ban Nha cũng như cho con cái của người thừa
**Alfonso XII** (_Alfonso Francisco de Asís Fernando Pío Juan María de la Concepción Gregorio Pelayo_; 28 tháng 11 năm 1857 - 25 tháng 11 năm 1885) còn được gọi là **El Pacificador** (tiếng Tây Ban
**Vương tộc Borbón**, hay **Borbón-Anjou**, là vương tộc hiện đang trị vì Tây Ban Nha, xuất phát từ Vương tộc Bourbon có nguồn gốc từ Pháp, khi Philippe của Pháp, Công tước xứ Anjou trở
**María Isabel Francisca de Asís của Tây Ban Nha, Isabel của Tây Ban Nha hay Isabel de Borbón y Borbón** (; 20 tháng 12 năm 1851 – 22 tháng 4 năm 1931) là con gái
**Tây Ban Nha Habsburg** đề cập đến lịch sử Tây Ban Nha trong thế kỷ 16 và 17 (1516-1700), khi nó được cai trị bởi các vị vua từ nhà Habsburg (cũng liên quan đến
**Juan Carlos I** (; ; ; ; ; ; tên rửa tội _Juan Carlos Alfonso Víctor María de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; sinh ngày 5 tháng 1 năm 1938 tại Roma, Ý) là vua Tây
**María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Antonia Fernanda de España_; 17 tháng 11 năm 1729 – 19 tháng 9 năm 1785 ) là con gái út của Felipe V
**Letizia Ortiz Rocasolano** (; ngày 15 tháng 9 năm 1972) là Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Felipe VI của Tây Ban Nha. Cũng như hầu hết
**María Cristina của Tây Ban Nha** (Madrid, 5 tháng 1 năm 1854 – Madrid, 8 tháng 1 năm 1854) là con gái của Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha và Phối vương Francisco
**María de la Concepción Francisca de Asís của Tây Ban Nha** (Madrid, 26 tháng 12 năm 1859 - Madrid, 21 tháng 10 năm 1861), con gái của Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha
thumb|Ngai vàng của Vua Tây Ban Nha tại Cung điện Vương thất ở thủ đô [[Madrid]] Vương quốc Tây Ban Nha hiện vẫn còn áp dụng chế độ kế vị theo _Male-preference primogeniture_ (con trưởng
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Đông Ấn Tây Ban Nha** (; tiếng Filipino: _Silangang Indiyas ng Espanya_) là lãnh thổ Tây Ban Nha tại Châu Á-Thái Bình Dương từ 1565 đến 1899. Bao gồm Philippines, Quần đảo Mariana, the Quần
**Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha** là xung đột quân sự giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ xảy ra từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1898 liên quan đến vấn đề về
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
**Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha** (1625–1630) là một cuộc chiến do Tây Ban Nha phát động nhằm chống lại Vương quốc Anh và Các tỉnh Liên hiệp. Cuộc xung đột này thuộc một phần của
**Formosa thuộc Tây Ban Nha** là một thuộc địa tồn tại từ năm 1626 đến 1642 của đế quốc Tây Ban Nha ở phía bắc đảo Đài Loan. Mặc dù Đài Loan gần gũi về
**Fernando VII của Tây Ban Nha** (tiếng Anh: Ferdinand VII; 14 tháng 10 năm 1784 - 29 tháng 9 năm 1833) ông trị vì Vương quốc Tây Ban Nha trong hai lần, lần đầu vào
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha hay María de las Mercedes de Borbón y Habsburgo-Lorena** (tiếng Tây Ban Nha: _María de las Mercedes de España_; 11 tháng 9 năm 1880 – 17 tháng
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Động từ tiếng Tây Ban Nha** tạo ra một khía cạnh khó của tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Tây Ban Nha là một ngôn ngữ tương đối tổng hợp với một mức độ biến tố
**Hôn nhân cùng giới ở Tây Ban Nha** hợp pháp hóa từ ngày 3 tháng 7 năm 2005. Năm 2004, chính phủ của Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Tây Ban Nha vừa mới
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**Đại hội Đại biểu Tây Ban Nha** là hạ viện của Quốc hội Tây Ban Nha. Đại hội Đại biểu gồm 350 đại biểu được bầu theo hệ thống phổ thông đầu phiếu theo danh
page=7|thumb|right|Hiến pháp 1931 **Hiến pháp Tây Ban Nha 1931** được Hội đồng Lập hiến nước này thông qua vào ngày 9 tháng 12 năm 1931. Đây là hiến pháp của Đệ nhị Cộng hòa Tây
**María del Pilar của Tây Ban Nha** (; 4 tháng 6 năm 1861 – 5 tháng 8 năm 1879) là người con thứ ba cũng như là con gái thứ hai sống qua tuổi ấu
phải|nhỏ|345x345px| [[Don Quijote|Don Quixote của Cervantes được coi là tác phẩm tiêu biểu nhất trong các kinh điển của văn học Tây Ban Nha và một tác phẩm cổ điển của văn học phương Tây.]]
**Tiếng Tây Ban Nha** (**'), cũng được gọi là **tiếng Castilla** () hay **tiếng Y Pha Nho''' theo lối nói cũ, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Iberia-Rôman của nhóm ngôn ngữ Rôman, và là
**Carlos IV** (Tiếng Anh: Charles IV, Tiếng Tây Ban Nha: Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno José Januario Serafín Diego; sinh 11/11/1748 - mất 20/01/1819) là vua của Vương quốc Tây Ban Nha và
**Quốc hội Tây Ban Nha** (, ) là cơ quan lập pháp lưỡng viện của Tây Ban Nha. Quốc hội gồm Đại hội Đại biểu và Thượng viện. Quốc hội có quyền làm luật và
**Blanca của Tây Ban Nha** hay **Blanca de Borbón** (7 tháng 9 năm 1868 – 25 tháng 10 năm 1949) là con cả của Carlos María của Tây Ban Nha, người đòi ngai vàng Tây
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của