✨Đế quốc Tây Ban Nha
Đế quốc Tây Ban Nha () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực thịnh về quân sự, quyền lực chính trị và kinh tế dưới vương triều Habsburg Tây Ban Nha, trong thế kỷ 16 và 17, có phạm vi rộng nhất dưới vương triều Borbón là 13,7 triệu km² và tầm ảnh hưởng thực tế lên đến 19,4 triệu km². Khi hợp chung với Đế quốc Bồ Đào Nha trong một hệ thống chung gọi là Liên minh Iberia, từ 1580 đến 1640, Đế quốc Tây Ban Nha trở thành siêu cường và là Đế quốc hạng nhất ở Châu Âu và Thế giới nói chung cho đến cuộc chiến kế vị Tây Ban Nha diễn ra. Trong khoảng thời gian đó Đế quốc Tây Ban Nha được gọi là "đế quốc mặt trời không bao giờ lặn" đầu tiên.
Vào thế kỷ thứ 15 và 16 Tây Ban Nha là quốc gia tiên phong cho phong trào thám hiểm thế giới và chủ nghĩa bành trướng thuộc địa của châu Âu cũng như tiên phong trong việc mở các lộ trình giao thương qua đại dương, với việc thông thương phát triển nở rộ qua Đại Tây Dương giữa Tây Ban Nha với Mỹ và qua Thái Bình Dương giữa Châu Á - Thái Bình Dương từ México qua Philippines. Những người Tây Ban Nha đi khai phá thuộc địa đã lật đổ những nền văn minh Aztec, Inca, Maya và tuyên bố chủ quyền với một dải đất bao la ở Châu Mỹ rộng lớn. Trong một khoảng thời gian, Đế quốc Tây Ban Nha thống trị các đại dương nhờ hạm đội tàu giàu kinh nghiệm, một sức mạnh bậc nhất toàn cầu, và họ thống trị những chiến trường ở châu Âu với một lực lượng bộ binh dày dạn và thiện chiến có tên là tercios. Tây Ban Nha trải qua thời kỳ vàng son về văn hóa trong thế kỷ 16 và 17.
Từ giữa thế kỷ 16, vàng và bạc từ các mỏ ở châu Mỹ đã tăng cường tiềm lực quân sự của Habsburg thuộc Tây Ban Nha trong một chuỗi các cuộc chiến tại châu Âu và Bắc Phi. Vào thế kỷ 17 và 18, Đế quốc Tây Ban Nha có được một lãnh thổ rộng lớn nhất trên thế giới, dù nó có trải qua sự biến động và tài sản kinh tế từ thập niên 1640. Phải đương đầu với kinh nghiệm và thử thách mới trong việc xây dựng Đế quốc, các nhà tư tưởng Tây Ban Nha đã công thức ra một vài ý tưởng tân tiến trong các đạo luật thiên nhiên, quyền tối cao độc lập, đạo luật quốc tế, chiến tranh và kinh tế - họ thậm chí đặt dấu hỏi về tính hợp pháp của chủ nghĩa đế quốc - liên quan đến những trường phái ý tưởng về tính tập thể như trường phái Salamanca.
Những bất đồng thường xuyên với các thế lực thù địch đã gây ra các cuộc chiến về lãnh thổ, giao thương và tôn giáo mà đã góp phần không nhỏ vào sự suy tàn dần dần của đế chế Tây Ban Nha từ giữa thế kỷ 17. Trên Địa Trung Hải, Tây Ban Nha thường xuyên giao chiến với Đế quốc Ottoman, trên lục địa châu Âu, Vương quốc Pháp vươn lên với một sức mạnh tương đương. Ở bên ngoài, Tây Ban Nha ban đầu bị cạnh tranh bởi Đế quốc Bồ Đào Nha, rồi sau đó là Liên Hiệp Anh và Đế quốc Hà Lan. Thêm vào đó, các lực lượng phá rối dưới sự đỡ đầu của Anh, Pháp và Hà Lan cùng với việc phạm tội quá mức của chính chủ Tây Ban Nha, sự tham nhũng gia tăng của chính phủ và sự đình trệ về kinh tế gây ra bởi các chi tiêu chí đã phần nào đóng góp cho sự đi xuống của Đế quốc này.
Đế quốc Tây Ban Nha tại châu Âu đã không còn là Đế quốc hạng nhất tại Châu Âu do thất bại trong Chiến tranh kế vị Tây Ban Nha và Hiệp ước Utrecht được kí vào năm 1713, hiệp ước đã cắt bỏ những lãnh thổ còn lại của Tây Ban Nha ở Naples và các quốc gia thuộc vùng đất thấp. Tài sản thuộc địa của Tây Ban Nha tăng lên sau đó, nhưng nó vẫn duy trì là một sức mạnh thứ hai về chính trị tại lục địa châu Âu.
Tuy nhiên, Tây Ban Nha duy trì và mở rộng đế quốc bên ngoài của nó cho đến thế kỷ 19, Napoleon xâm lược Tây Ban Nha vào năm 1808 tạo ra Chiến tranh Bán đảo khiến thủ đô Marrid thất thủ. Dưới sự chiếm đóng của Pháp đã tạo ra thời cơ làn sóng tuyên bố độc lập tại Quito (1809), Colombia (1810), Venezuela và Paraguay (1811) đồng thời các cuộc cách mạng liên tiếp nổ ra đã cướp đi các thuộc địa của đế chế tại Đại Lục Châu Mỹ. Tây Ban Nha cố gắng duy trì những mảnh vụn của đế quốc tại vùng Caribe (Cuba và Puerto Rico); Châu Á (Philippines), và Châu Đại Dương (Guam, Micronesia, Palau, và Quần đảo Bắc Mariana) cho đến tận Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ nổ ra năm 1898. Sự tham gia của Tây Ban Nha trong cuộc tranh chấp châu Phi là rất nhỏ; vùng Maroc (thuộc địa Maroc của Tây Ban Nha) được duy trì cho đến năm 1956, Guinée thuộc Tây Ban Nha và Sahara thuộc Tây Ban Nha được duy trì cho đến năm 1968 và 1975. Quần đảo Canaria, Ceuta, Melilla là những khu vực hành chính hiện vẫn là một phần của Tây Ban Nha trong khi Isla de Alborán, Isla Perejil, Islas Chafarinas, Peñón de Alhucemas, và Peñón de Vélez de la Gomera vẫn là các lãnh thổ thuộc Tây Ban Nha. Năm 1975, Tây Ban Nha rút quân ra khỏi Sahara sau khi Franco mất. Vị vua mới Juan Carlos I đã chuyển đổi sang nền Quân chủ Lập Hiến hiện đại mang tính dân chủ vào năm 1976 các lãnh thổ đi sản thuộc địa còn tàn dư của Đế quốc kết thúc từ đó. Đế quốc Tây Ban Nha kết thúc sau 484 năm tồn tại.
Định nghĩa
"Đế quốc Tây Ban Nha" thường có nghĩa là các thuộc địa hải ngoại của Tây Ban Nha ở châu Mỹ, Thái Bình Dương và các nơi khác. Nhưng không rõ phần nào của Đế quốc Tây Ban Nha phải có. Ví dụ, theo truyền thống, các khu vực như vùng đất thấp được đưa vào vì chúng thuộc về vua Tây Ban Nha, được cai trị bởi các quan chức Tây Ban Nha và được duy trì bởi các lực lượng Tây Ban Nha. Nhưng nhà sử học người Anh Henry A. Kamen đã viết rằng những khu vực này chưa bao giờ là một phần của nhà nước "Tây Ban Nha" và thay vào đó là khu vực Habsburg trước đây rộng hơn. Do đó, nhiều nhà sử học sử dụng thuật ngữ "Habsburg" và "Tây Ban Nha" khi thảo luận về vua Carlos I hoặc Felipe II. Chỉ từ quan điểm của "Anglosakson" là quan điểm này là chính xác, với tất cả các hậu quả của nó, rằng Quốc gia thấp là một phần của Tây Ban Nha trong thời kỳ này.
Bồ Đào Nha bị chiếm giữ bởi các lực lượng Tây Ban Nha và được kiểm soát bởi cùng một người cai trị trong sự thống nhất cá nhân, nhưng Bồ Đào Nha vẫn là một quốc gia riêng biệt. Đế quốc Bồ Đào Nha tiếp tục cai trị từ Lisbon trong thời gian này. Sau đó, có một sự làm chủ chung của Tây Ban Nha-Bồ Đào Nha một thời gian. Hai quốc gia này đôi khi được gọi là Đế quốc Tây Ban Nha-Bồ Đào Nha, nhưng hai quốc gia này không phải là một phần của một quốc gia.
Lịch sử
Thành lập (1492–1521)
Năm 1492, Phó vương quốc Granada rơi vào tay các lực lượng Thiên chúa giáo của vua Fernando II và nữ vương Isabel I, và người Moor mất đi chỗ đứng cuối cùng của mình ở Tây Ban Nha. Sự thống nhất của các vương quốc Aragón, Castilla, Léon và Navarra đã làm nên nền tảng của đế chế Tây Ban Nha. Tây Ban Nha đã trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh hàng đầu châu Âu trong thế kỷ 16 và nửa đầu của thế kỷ 17, vị thế đó được tạo nên bởi thương mại phát triển và sự chiếm hữu thuộc địa. Tây Ban Nha đã vươn tới đỉnh cao dưới sự trị vì của hai vua đầu tiên của hoàng triều Habsburg là Carlos I (1516-1556) và Felipe II (1556-1598).
Hệ thống thuộc địa ở đế chế Tây Ban Nha trải rộng khắp Trung Mỹ và Nam Mỹ, México, một phần lớn miền nam Hoa Kỳ, Philippines ở Đông Nam Á, bán đảo Iberia (trong đó có cả Bồ Đào Nha), miền nam Ý, đảo Sicilia và một số nơi ngày nay thuộc các nước Đức, Bỉ, Luxembourg và Hà Lan. Tây Ban Nha là đế quốc đầu tiên được gọi là đế quốc mặt trời không bao giờ lặn. Thời kỳ này được gọi là Kỷ nguyên Khai phá với việc các nước châu Âu đi chiếm thuộc địa, mở ra các trung tâm buôn bán. Cùng với nguồn kim loại, hương liệu, các mặt hàng xa xỉ phẩm mang về từ thuộc địa, các nhà thám hiểm Tây Ban Nha và châu Âu đã mang về rất nhiều kiến thức, làm thay đổi cách nhìn của người châu Âu về thế giới.
Thời đại hoàng kim: Ngày của đế quốc (1521–1643)
Vào thế kỷ 16-17, Tây Ban Nha bắt đầu đối mặt với nhiều khó khăn. Đầu thế kỷ 16, lực lượng cướp biển Barbary dưới sự bảo hộ của đế quốc Ottoman đã đột kích vào những vùng ven biển của Tây Ban Nha, với mục đích lập ra các vùng đất Hồi giáo mới. Thời gian này, những cuộc chiến tranh giữa Tây Ban Nha và Pháp nổ ra tại Ý và một vài nơi khác. Tiếp đó, phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu đã khiến đất nước rơi vào bãi lầy của những cuộc chiến tranh tôn giáo.
Giữa Thể kỷ 17, những dấu hiệu của sự căng thẳng tại châu Âu ngày càng lộ rõ. Triều đại Habsburg ở Tây Ban Nha đã liên tiếp vướng vào những cuộc xung đột về chính trị, tôn giáo, gây ra nhiều hậu quả về kinh tế. Tây Ban Nha đã giúp đỡ Đế quốc La Mã Thần thánh chống lại những người theo Đạo Tin lành. Nhưng Tây Ban Nha sau đó lại phải công nhận quyền độc lập của Bồ Đào Nha và Hà Lan, từ bỏ một số vùng đất cho Pháp. Từ năm 1640, Tây Ban Nha ngày càng suy yếu dần.
Cuộc tranh luận về quyền kế thừa ngôi báu đã nổ ra vào những năm đầu của thế kỷ 18. Cuộc chiến tranh về quyền thừa kế đã nổ ra tại Tây Ban Nha (1701-1714) với cái giá phải trả là Tây Ban Nha đã mất đi vị trí là một cường quốc ở khu vực. Vương triều Bourbon Pháp đã lên thay thế. Vị vua Bourbon đầu tiên là Felipe V đã thống nhất đất nước dưới một chính quyền tập trung, thủ tiêu rất nhiều đặc quyền đặc lợi của quý tộc địa phương. Thể kỷ 18 chứng kiến sự phục hồi dần dần và sự thịnh vượng đã quay trở lại Tây Ban Nha dưới triều đại Bourbon. Những ý tưởng của Thời kỳ Khai sáng đã phát huy tác dụng. Vào cuối Thể kỷ 18, thương mại tăng trưởng nhanh chóng. Sự giúp đỡ quân sự đối với các thuộc địa Anh trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ đã cải thiện vị thế quốc tế của Tây Ban Nha.
Habsburg thuộc Tây Ban Nha (1516–1700)
thế=|trái|nhỏ|Đế quốc Tây Ban Nha (bao gồm các lãnh thổ được yêu sách) và các lãnh thổ Habsburg của Tây Ban Nha (bao gồm cả các lãnh thổ được quản lý trong thời gian [[Liên minh Iberia)]] Thời kỳ từ thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 17 được gọi là "Thời đại hoàng kim của Tây Ban Nha" (theo tiếng Tây Ban Nha, Siglo de Oro). Thông qua các cuộc hôn nhân chính trị giữa các quốc vương Công giáo (tiếng Tây Ban Nha, Reyes Católicos), cháu trai họ Habsburg của Karl đã thừa kế vương quốc Castilla ở châu Mỹ, vương quốc Aragon ở Địa Trung Hải (bao gồm một phần lớn của nước Ý hiện nay), vùng đất ở Đức, Hà Lan, Franche-Comté (Pháp) và Áo (điều này, cùng với phần còn lại của các lãnh địa Habsburg di truyền, gần như ngay lập tức được chuyển cho Fernando II, anh trai của Hoàng đế).
Nhà Habsburg đã theo đuổi một số mục tiêu:
- Làm suy yếu sức mạnh của nước Pháp và củng cố phòng thủ biên giới phía đông.
- Bảo vệ châu Âu chống lại Hồi giáo, đáng chú ý là Đế chế Ottoman trong các cuộc chiến tranh Ottoman của Habsburg
- Duy trì quyền bá chủ của nhà Habsburg trong Đế quốc La Mã Thần thánh và bảo vệ Giáo hội Công giáo Rôma chống lại cuộc Cải cách Tin Lành
- Truyền bá Kitô giáo (Công giáo) đến người bản địa chưa được chuyển đổi của Tân thế giới và Philippines
Khai thác tài nguyên của châu Mỹ (vàng, bạc, đường) và giao dịch với châu Á (sứ, gia vị, lụa)
Không bao gồm các cường quốc châu Âu khác từ những tài sản mà nó tuyên bố ở Tân thế giới
Thực tế, người Tây Ban Nha đã không tìm thấy lợi nhuận ngay từ đầu. Một số ngành thương mại và công nghiệp được hình thành, nhưng các cơ hội giao dịch bị hạn chế. Do đó, Tây Ban Nha bắt đầu thành lập các thành phố ở châu Mỹ vì lý do tôn giáo. Các vấn đề bắt đầu thay đổi vào những năm 1520 với việc khai thác bạc quy mô lớn từ các mỏ giàu có của vùng Guanajuato của México, nhưng đó là việc khai thác các mỏ bạc ở Zacatecas và Potosí của México ở Thượng Peru (ngày nay là Bolivia) vào năm 1546. Trong thế kỷ 16, Tây Ban Nha nắm giữ số tài sản tương đương 1,5 nghìn tỷ đô la Mỹ (năm 1990) bằng vàng và bạc nhận được từ Tân Tây Ban Nha. Những hàng nhập khẩu này đã góp phần ngăn chặn lạm phát ở Tây Ban Nha và châu Âu từ cuối của thế kỷ 16. Việc nhập khẩu bạc lớn giúp các nhà sản xuất trong nước không bị cạnh tranh, nhưng cuối cùng khiến nền kinh tế Tây Ban Nha phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu thô từ Tân Thế giới : "Tôi đã học được một câu tục ngữ ở đây", một du khách người Pháp năm 1603 nói: "Mọi thứ đều thân yêu ở Tây Ban Nha ngoại trừ bạc". Các vấn đề gây ra bởi lạm phát đã được thảo luận bởi các học giả tại Trường Salamanca và arbitrista. Sự phong phú tài nguyên thiên nhiên đã gây ra sự suy giảm trong tinh thần kinh doanh vì lợi nhuận từ việc khai thác tài nguyên ít rủi ro hơn. Những người giàu có thường đầu tư tài sản của họ vào nợ công (judos). Triều đại Habsburg đã sử dụng tài sản của những người Castilla giàu có và người Mỹ vào các cuộc chiến tranh trên khắp châu Âu thay cho lợi ích của Habsburg và tuyên bố lệnh cấm (phá sản) nhiều lần cho các khoản thanh toán nợ của họ. Những gánh nặng này đã dẫn đến một số cuộc nổi dậy trên khắp lãnh thổ của Habsburg thuộc Tây Ban Nha, bao gồm cả vương quốc Tây Ban Nha của họ, nhưng các cuộc nổi loạn đã bị dập tắt.
Trận Pavia và Hòa ước Augsburg (1525–1555)
Năm 1525, hoàng đế Karl V đã đánh bại người Pháp trong trận Pavia, khiến nhiều người Ý và Đức lo ngại về sự leo thang của các cuộc bành trướng của đế chế Tây Ban Nha. Chẳng bao lâu, Giáo hoàng Clêmentê VII củng cố sự ủng hộ của một số quốc gia thành phố quan trọng ở Pháp và Ý, và tuyên bố nhân danh Thiên Chúa bác bỏ tính hợp pháp của hiệp ước giữa vua nước Pháp François I và hoàng đế Karl V; vị Giáo hoàng cũng chủ trì Chiến tranh Liên minh Cognac chống lại Đế quốc Habsburg (1526-1529), khiến Karl V giận dữ. Vị hoàng đế La Mã Thần Thánh tin rằng tôn giáo không có quyền can thiệp vào chính trị. Năm 1527, với sự sụp đổ của Roma, Clêmentê VII và người kế nhiệm ông trở nên thận trọng hơn khi ứng xử không với các nhà cai trị Tây Ban Nha. Năm 1529, Giáo hoàng và Karl đã ký hiệp ước hòa bình tại Barcelona để thiết lập một mối quan hệ hài hòa hơn. Các vua Tây Ban Nha chính thức trở thành người bảo hộ Công giáo, và Karl đã được Giáo hoàng phong làm vua của Ý (Bologna), nhằm mượn tay người Tây Ban Nha lật đổ Cộng hòa Florence tự trị. Năm 1533, Giáo hoàng Clêmentê VII đã từ chối để vua Henry VIII ly hôn, chủ yếu vì ông không muốn chọc giận Hoàng đế Karl V, và Roma lại một lần nữa bị cướp phá.
Năm 1522, Fernão de Magalhães nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha đã dẫn đầu một hạm đội Tây Ban Nha đi thuyền vòng quanh thế giới, nhưng ông qua đời ở Philippines. Phụ tá của ông, Juan Sebastián Elcano, đảm nhận chức hạm đội trưởng và hoàn tất chuyến hành trình.
Năm 1528, hai đô đốc Andrea Doria và Allied League V đã thành lập một liên minh chống Pháp, tái độc lập ở Genève và cũng cho phép Karl cải thiện các cơ hội tài chính. Cũng trong năm đó, các ngân hàng Thụy Sĩ lần đầu tiên vay tiền của Tây Ban Nha.
Trong nửa đầu thế kỷ XVI, Tây Ban Nha tích cực thiết lập hệ thống thuộc địa ở Tân thế giới. Họ thành lập Tân Granada (Colombia ngày nay) vào những năm 1530 và Buenos Aires vào năm 1536.phải|nhỏ|[[Trận Pavia năm 1525, Tây Ban Nha đã đánh bại Pháp, trở thành cường quốc đầu tiên ở Tây Âu.|253x253px]]Tây Ban Nha đã ban hành luật để bảo vệ người dân bản địa của các thuộc địa châu Mỹ. Bộ luật đầu tiên được thành lập năm 1542, trở thành nền móng của luật pháp quốc tế hiện đại. Nhưng tại các thuộc địa ở Nam Mỹ xa xôi, thực dân gốc châu Âu cảm thấy bất bình khi quyền lực bị kiềm chế, và tuyển bố bác bỏ một số luật mới (Leyes Nuevas). Sau đó, một bộ luật khác ít ràng buộc hơn đã được ban hành để bảo vệ thổ dân, nhưng hồ sơ cho thấy những luật này không đủ hiệu lực.Encomienda được tái lập, khiến quyền lợi của người da đỏ không được bảo vệ.
Năm 1543, vua Pháp François II lần đầu tiên liên minh với sultan Suleiman I của Đế quốc Ottoman để chiếm đóng các thành phố ven biển Tây Ban Nha. Vua Henry VIII, mặc dù ly dị hạnh phúc của Karl V để ngăn chặn ông, nhưng không hài lòng hơn với Pháp, vì vậy với cuộc xâm lược của Karl V của Pháp với nhau. Mặc dù chiến dịch Tây Ban Nha ở Savoy phải chịu một thất bại lớn, nhưng người Pháp vẫn còn khó khăn để kiểm soát các mối đe dọa của Milan và Tây Ban Nha, mà còn ở phía bắc đánh bại Henry VIII, do đó buộc phải chấp nhận điều kiện không thuận lợi. Fernando I, em trai của Karl V, lãnh đạo quân Áo chiến đấu với quân Ottoman ở phía Đông. Karl đã giải quyết các vấn đề trong nước chưa được giải quyết, Schmalkaldic của các giáo hoàng Luther của Đức và các quốc gia Tin Lành khác.
Hoa Kỳ giành được Florida
Vào ngày này năm 1819, Bộ trưởng Tây Ban Nha Do Luis de Onis và Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Quincy Adams đã ký Hiệp ước chuyển nhượng Florida, trong đó Tây Ban Nha đồng ý nhượng lại phần còn lại của tỉnh Florida cũ của họ cho Hoa Kỳ.
Công cuộc thực dân hóa của Tây Ban Nha trên bán đảo Florida bắt đầu tại St. Augustine, Illinois vào năm 1565. Thực dân Tây Ban Nha có một thời gian ngắn tương đối ổn định trước khi Florida trở thành mục tiêu tấn công của những người Mỹ bản địa đầy phẫn nộ và lực lượng thực dân Anh đầy tham vọng ở phía bắc trong thế kỷ 17.
Kết thúc Chiến tranh Bảy năm
Vào ngày này năm 1763, Chiến tranh Bảy năm, cuộc xung đột toàn cầu mà người Mỹ gọi là Chiến tranh với Pháp và người Da đỏ, kết thúc bằng việc ký kết Hiệp định Paris giữa Pháp, Anh và Tây Ban Nha.
Đầu những năm 1750, việc Pháp bành trướng sang thung lũng sông Ohio đã liên tục khiến nước này rơi vào xung đột vũ trang với các thuộc địa của Anh. Năm 1756, Anh chính thức tuyên chiến.
Trận Trafalgar
Vào ngày này năm 1805, trong trận Trafalgar diễn ra ngoài khơi bờ biển Tây Ban Nha, một trong những trận hải chiến mang tính quyết định nhất trong lịch sử, hạm đội Anh dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Horatio Nelson đã đánh bại hạm đội liên quân Pháp-Tây Ban Nha.
Trên biển, Nelson và Hải quân Hoàng gia Anh luôn cản trở Napoléon Bonaparte, người đã đưa Pháp đến đỉnh cao quyền lực tại lục địa châu Âu. Chiến thắng cuối cùng và vĩ đại nhất của Nelson chống lại người Pháp là trận Trafalgar, bắt đầu ngay sau khi Nelson bắt gặp một lực lượng Pháp-Tây Ban Nha gồm 33 tàu. Trước khi đối đầu vào ngày 21/10, Nelson đã chia 27 tàu của mình thành hai sư đoàn và đưa ra thông điệp nổi tiếng từ Chiến hạm Victory: "Nước Anh hy vọng các anh sẽ làm tròn nhiệm vụ của mình".
Thể kỷ 19
nhỏ|phải|Bức tranh của danh họa [[Goya vẽ cuộc khởi nghĩa ngày 2 tháng 5 năm 1808]] Cuối thế kỷ 18, Tây Ban Nha (cùng với Anh, Áo, đế quốc Ottoman và Phổ,...) giúp đỡ Hoàng gia Bourbon mất ngôi trong Chiến tranh Cách mạng Pháp chống lại Cộng hòa Pháp. Nhưng sự thất bại trên chiến trường đã dẫn đến việc vua Carlos IV (1788–1808) phải có những thỏa hiệp với nước Pháp cách mạng. Năm 1804, Đế chế thứ nhất được Hoàng đế Napoléon I của Pháp thành lập. Các cuộc chiến giữa Napoléon và Liên minh chống Pháp của Anh, Áo, Phổ,... xảy ra liên miên trong khi Tây Ban Nha bấy giờ về phe Pháp. Trong trận Trafalgar vào năm 1805, Hải quân Anh do Đô đốc Horatio Nelson thống lĩnh đập tan tác hạm đội hỗn hợp của Hải quân Tây Ban Nha và Pháp, và Đô đốc Tây Ban Nha bị thương chí mạng. Sau đó, việc Tây Ban Nha rút khỏi Hệ thống phong tỏa Lục địa đã khiến Napoléon hết sức tức giận. Ông ta đã đem quân chiếm đóng và hạ bệ vua Carlos IV của Tây Ban Nha. Người dân Tây Ban Nha phản ứng rất mãnh liệt và quyết định ủng hộ con trai vua Carlos là Fernando. Ngày 2 tháng 5 năm 1808, cuộc khởi nghĩa giành độc lập người dân thủ đô Madrid bùng nổ, chống lại quân Pháp chiếm đóng.
Tây Ban Nha bị đặt vào vòng phong tỏa của Đế quốc Anh. Trong khi đó, các ủy ban hành chính tuyên bố ủng hộ Fernando, và họ mong có được nhiều quyền tự trị từ Madrid với một bản hiến pháp tự do. Năm 1812, Cádiz Cortes đã thành lập bản hiến pháp đầu tiên của nước Tây Ban Nha, Hiến pháp năm 1812 (19 tháng 3 năm 1812) (còn có tên là La Pepa).
Quân đội Anh, dưới sự lãnh đạo của công tước Wellington, đã đánh bại quân Pháp ở Bán đảo Iberia. Cuộc chiến tranh ở bán đảo Iberia có thể coi là cuộc chiến tranh du kích đầu tiên trong lịch sử cận đại Tây Âu. Những con đường tiếp tế của quân Pháp đã bị ngăn chặn và phá hủy bởi những chiến sĩ du kích Tây Ban Nha. Quân Pháp chính thức bị đánh bại trong trận Vitoria năm 1813, và đến năm sau, Fernando IV đã trở thành vua của Tây Ban Nha.
Sự xâm lược của Pháp đã để lại nhiều hậu quả tai hại cho Tây Ban Nha. Nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, các thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ Latinh đua nhau đòi độc lập, nước này chỉ còn lại mỗi hai thuộc địa ở châu Mỹ là Cuba và Puerto Rico.
nhỏ|phải|Bản đồ Tây Ban Nha năm 1850 Từ năm 1820-1823, một cuộc cách mạng đã diễn ra ở Tây Ban Nha đòi vua Fernando VII phải thực hiện bản Hiến pháp 1812, lãnh đạo bởi Rafael del Riego (1785–1823) và được người dân ủng hộ. Trước phong trào cách mạng, nhà vua đã phải thừa nhận bản hiến pháp và một số cải cách tư sản đã được tiến hành. Đến tháng 11 năm 1823, quân Bourbon của Pháp do Công tước của Angoulême chỉ huy đã theo lệnh của Liên minh Thần thánh tiến vào đàn áp, Riego bị xử tử.
Năm 1873, nền cộng hòa đầu tiên ở Tây Ban Nha được thành lập. Nhưng đến năm 1874, nền cộng hòa đã bị Giáo hội Công giáo Roma đàn áp.
Vào cuối thể kỷ 19, những phong trào dân tộc bùng nổ ở Cuba và Philippines, gây ra những cuộc chiến tranh đòi độc lập. Hoa Kỳ đã can thiệp vào các nước này và vào năm 1898, cuộc chiến tranh Hoa Kỳ-Tây Ban Nha bùng nổ. Kết quả là Tây Ban Nha đã mất nốt những thuộc địa cuối cùng của mình là Philippines, Guam ở châu Á và Cuba, Puerto Rico ở biển Caribe.
Đầu thể kỷ 20
Những năm đầu của thể kỷ 20, tình hình Tây Ban Nha tương đối ổn định. Tây Ban Nha đã chiếm một số thuộc địa ở châu Phi như Tây Sahara, Maroc và Guinea Xích Đạo. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh nổ ra tại Maroc vào năm 1931 đã làm suy giảm ảnh hưởng của Tây Ban Nha tại các thuộc địa này. Khoảng thời gian cai trị độc tài của tướng Miguel Primo de Rivera (1923-1931) kết thúc với việc nền cộng hòa thứ hai được thành lập. Chính quyền cộng hòa đã trao quyền tự trị cho các vùng như xứ Basque, Catalonia và Galacia, đồng thời công nhận quyền bầu cử của phụ nữ.
Năm 1936, cuộc nội chiến Tây Ban Nha bùng nổ giữa phe của viên tướng độc tài Francisco Franco, được sự ủng hộ của các nước phát xít Đức và Ý với phe Cộng hòa, được 54 quốc gia trên thế giới ủng hộ, trong đó có Liên Xô. Song do nội bộ chính phủ Cộng hòa thiếu thống nhất nên lực lượng ngày càng yếu đi. Ngày 21 tháng 3 năm 1939, Franco chiếm được thủ đô Madrid, chính phủ Cộng hòa bị lật đổ. Franco thiết lập nền thống trị độc tài ở Tây Ban Nha và ông ta trở thành nguyên thủ của đất nước này cho đến khi mất. Nội chiến Tây Ban Nha được coi là trận chiến mở màn cho Chiến tranh thế giới thứ hai sau đó. Dưới thời Franco, Tây Ban Nha giữ vai trò trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng vẫn ủng hộ cho Phe Trục của các nước phát xít.
Kết thúc cùng với các thuộc địa cuối cùng tại châu Phi
nhỏ|Bản đồ của [[Guinea Xích Đạo]] Đến cuối thế kỷ 17, chỉ có Melilla, Alhucemas, Peñón de Vélez de la Gomera (đã được lấy lại vào năm 1564), Ceuta (một phần của Đế quốc Bồ Đào Nha kể từ năm 1415, đã chọn giữ lại các liên kết của mình với Tây Ban Nha khi liên minh kết thúc, sự trung thành chính thức của Ceuta với Tây Ban Nha được Hiệp ước Lisbon được công nhận năm 1668), Oran và Mazalquivir vẫn là lãnh thổ Tây Ban Nha ở châu Phi. Các thành phố sau đó đã bị mất vào năm 1708, được tái chiếm vào năm 1732 và được Carlos IV bán vào năm 1792.
Năm 1778, Đảo Fernando Poo (nay là Bioko), đảo nhỏ liền kề và quyền thương mại đối với đất liền giữa sông Nigeria và sông Ogooué đã được người Bồ Đào Nha nhượng lại cho Tây Ban Nha để đổi lấy lãnh thổ ở Nam Mỹ (Hiệp ước El Pardo). Vào thế kỷ 19, một số nhà thám hiểm và nhà truyền giáo Tây Ban Nha sẽ đi qua khu vực này, trong số đó có Manuel Iradier.
Năm 1848, quân đội Tây Ban Nha đã chinh phục Islas Chafarinas. trái|nhỏ|[[Juan Prim y Prats, Bá tước thứ nhất của Reus|Bá tước Juan Reus trong Trận Tétouan]] Năm 1860, sau Chiến tranh Tetuan, Maroc đã nhượng Sidi Ifni cho Tây Ban Nha như một phần của Hiệp ước Tangiers, trên cơ sở tiền đồn cũ của Santa Cruz de la Mar Pequeña, được cho là Sidi Ifni. Những thập kỷ hợp tác Pháp-Tây Ban Nha sau đó đã dẫn đến việc thành lập và mở rộng các nước bảo hộ Tây Ban Nha ở phía nam thành phố, và ảnh hưởng của Tây Ban Nha đạt được sự công nhận quốc tế trong Hội nghị Berlin năm 1884: Tây Ban Nha cùng quản lý Sidi Ifni và Tây Sahara. Tây Ban Nha tuyên bố bảo hộ trên bờ biển Guinea từ Cape Bojador đến Cap Blanc, và thậm chí cố gắng đưa ra yêu sách đối với các vùng Adrar và Tiris ở Mauritania. Río Muni trở thành người bảo hộ vào năm 1885 và là thuộc địa vào năm 1900. Các yêu sách mâu thuẫn với lục địa Guinea đã được giải quyết vào năm 1900 bởi Hiệp ước Paris, bởi vì Tây Ban Nha chỉ còn lại 26.000 km2 trong số 300.000 km về phía đông đến sông Ubangi mà ban đầu họ tuyên bố.
Sau một cuộc chiến ngắn vào năm 1893, Tây Ban Nha đã mở rộng ảnh hưởng ở phía nam từ Melilla.
Năm 1911, Maroc bị chia rẽ giữa Pháp và Tây Ban Nha. Súng trường Berber nổi loạn, dẫn đầu bởi Abdelkrim, cựu sĩ quan của chính quyền Tây Ban Nha. Trận Annual (1921) trong Chiến tranh súng trường là một thất bại quân sự bất ngờ, nghiêm trọng và gần như gây tử vong cho quân đội Tây Ban Nha chống lại quân nổi dậy Maroc. Một chính trị gia hàng đầu Tây Ban Nha tuyên bố mạnh mẽ: "Chúng ta đang ở thời kỳ suy đồi nghiêm trọng nhất của Tây Ban Nha". Sau thảm họa hàng năm, cuộc đổ bộ của Alhucemas diễn ra vào tháng 9 năm 1925 tại vịnh Alhucemas. Quân đội và Hải quân Tây Ban Nha với sự cộng tác nhỏ của một đội quân đồng minh Pháp đã chấm dứt Chiến tranh Súng trường. Đây được coi là cuộc đổ bộ thành công đầu tiên trong lịch sử được hỗ trợ bởi sức mạnh không quân trên biển và xe tăng.
Năm 1923, Tangier được tuyên bố là một thành phố quốc tế dưới sự quản lý chung của Pháp, Tây Ban Nha, Anh và sau đó là Ý. nhỏ|Sĩ quan Tây Ban Nha ở Châu Phi năm 1920 Năm 1926, Bioko và Río Muni được hợp nhất thành thuộc địa Guinée thuộc Tây Ban Nha, một tình trạng sẽ tồn tại đến năm 1959. Năm 1931, sau khi quân chủ sụp đổ, các thuộc địa châu Phi trở thành một phần của Cộng hòa Tây Ban Nha thứ hai. Năm 1934, dưới thời chính phủ của Thủ tướng Alejandro Lerroux, quân đội Tây Ban Nha do Tướng Osvaldo Capaz lãnh đạo đã đổ bộ vào Sidi Ifni và tiến hành chiếm đóng lãnh thổ, nhượng lại Maroc vào năm 1860. Năm năm sau, Francisco Franco, một vị tướng của Quân đội châu Phi, nổi dậy chống lại chính phủ cộng hòa và bắt đầu cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1936–1939). Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sự hiện diện của Pháp Vichy ở Tangier đã bị vượt qua bởi Pháp của Tây Ban Nha.
Tây Ban Nha thiếu sự giàu có và sự quan tâm để phát triển một cơ sở hạ tầng kinh tế rộng lớn ở các thuộc địa châu Phi trong nửa đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, thông qua một hệ thống gia trưởng, đặc biệt là trên đảo Bioko, Tây Ban Nha đã phát triển các đồn điền ca cao lớn mà hàng ngàn công nhân Nigeria đã được nhập khẩu làm lao động. trái|nhỏ|[[Maroc và lãnh thổ Tây Ban Nha]] Năm 1956, khi Maroc thuộc Pháp độc lập, Tây Ban Nha đã giao Maroc Tây Ban Nha cho quốc gia mới, nhưng vẫn giữ quyền kiểm soát Sidi Ifni, vùng Tarfaya và Sahara thuộc Tây Ban Nha. Sultan Maroc (sau này là Vua) Mohammed V đã quan tâm đến các vùng lãnh thổ này và xâm chiếm Sahara Tây Ban Nha vào năm 1957, trong Chiến tranh Ifni, hoặc ở Tây Ban Nha, Chiến tranh bị lãng quên (__). Năm 1958, Tây Ban Nha nhượng Tarfaya cho Mohammed V và gia nhập các quận riêng biệt trước đây là Saguia el-Hamra (ở phía bắc) và Río de Oro (ở phía nam) để thành lập tỉnh Sahara thuộc Tây Ban Nha.
Năm 1959, lãnh thổ Tây Ban Nha trên Vịnh Guinea được thành lập với địa vị tương tự như các tỉnh của đô thị Tây Ban Nha. Là vùng xích đạo Tây Ban Nha, nó được cai trị bởi một vị thống đốc thực thi các quyền lực quân sự và dân sự. Cuộc bầu cử địa phương đầu tiên được tổ chức vào năm 1959, và các đại diện Guinea Xích Đạo đầu tiên đã ngồi trong Quốc hội Tây Ban Nha. Theo Luật cơ bản tháng 12 năm 1963, quyền tự chủ hạn chế được ủy quyền dưới một cơ quan lập pháp chung cho hai tỉnh của lãnh thổ. Tên của đất nước đã được đổi thành Guinea Xích Đạo. Tháng 3 năm 1968, dưới áp lực của những người theo chủ nghĩa dân tộc Equatoguinean và Liên Hợp Quốc, Tây Ban Nha tuyên bố sẽ trao độc lập cho đất nước.
Năm 1969, dưới áp lực quốc tế, Tây Ban Nha đã đưa Sidi Ifni trở lại Maroc. Sự kiểm soát của Tây Ban Nha đối với Sahara Tây Ban Nha chịu đựng cho đến khi Tháng Ba Xanh 1975 đã thúc đẩy rút tiền, dưới áp lực quân sự của Maroc. Tương lai của thuộc địa cũ này của Tây Ban Nha vẫn chưa chắc chắn.
Quần đảo Canary và các thành phố Tây Ban Nha ở lục địa châu Phi được coi là một phần bằng nhau của Tây Ban Nha và Liên minh châu Âu nhưng có một hệ thống thuế khác nhau.
Maroc vẫn tuyên bố Ceuta, Melilla, và __ mặc dù họ được quốc tế công nhận là bộ phận hành chính của Tây Ban Nha. Isla Perejil bị chiếm đóng vào ngày 11 tháng 7 năm 2002 bởi quân đội và quân đội Maroc, những người bị lực lượng Hải quân Tây Ban Nha đuổi đi trong một chiến dịch không đổ máu.
Châu Mỹ Tây Ban Nha
Đến cuối thời kỳ cai trị của đế quốc, Tây Ban Nha gọi các tài sản ở nước ngoài của mình ở Châu Mỹ và Philippines là "Ấn", một tàn dư lâu dài của khái niệm Colombo rằng ông đã đến Châu Á bằng cách đi về phía tây. Khi các lãnh thổ này đạt đến tầm quan trọng cao, vương quyền đã thành lập Hội đồng Ấn vào năm 1524, sau cuộc chinh phạt của Đế quốc Aztec, khẳng định quyền kiểm soát vĩnh viễn của hoàng gia đối với tài sản của mình. Các khu vực có dân cư bản địa dày đặc và nguồn tài sản khoáng sản thu hút người định cư Tây Ban Nha trở thành trung tâm thuộc địa, trong khi những khu vực không có tài nguyên như vậy là ngoại vi để thu hút sự quan tâm. Khi các khu vực được sáp nhập vào đế quốc và tầm quan trọng của chúng được đánh giá, tài sản ở nước ngoài bị kiểm soát vương quyền mạnh hơn hoặc yếu hơn. vương quyền đã học được bài học của mình với sự cai trị của Cristoforo Colombo và những người thừa kế ở Caribe, và sau đó họ không bao giờ được ủy quyền quyền lực càn quét cho các nhà thám hiểm và chinh phục. Cuộc chinh phạt của các vị vua Công giáo ở Granada vào năm 1492 và việc trục xuất người Do Thái của họ "là những biểu hiện chiến đấu của tình trạng tôn giáo tại thời điểm bắt đầu thuộc địa châu Mỹ". Quyền lực của vương quyền trong lĩnh vực tôn giáo là tuyệt đối trong tài sản ở nước ngoài thông qua việc cấp quyền của Giáo hoàng thực sự, và "Công giáo được liên kết một cách tự nhiên với chính quyền hoàng gia". Quan hệ Giáo hội-Nhà nước được thiết lập trong thời kỳ chinh phục và duy trì ổn định cho đến cuối kỷ nguyên Habsburg vào năm 1700, khi các quốc vương Bourbon thực hiện những cải cách lớn và thay đổi mối quan hệ giữa vương quyền và tế đàn.
Chính quyền của vương quyền của đế chế hải ngoại của nó được thực thi bởi các quan chức hoàng gia trong cả lĩnh vực dân sự và tôn giáo, thường có quyền tài phán chồng chéo. vương quyền có thể điều hành các đế quốc ở Ấn bằng cách sử dụng giới tinh hoa bản địa làm trung gian với dân số bản địa lớn. Chi phí hành chính của đế chế được giữ ở mức thấp, với một số ít các quan chức Tây Ban Nha thường trả lương thấp. Chính sách vương quyền duy trì một hệ thống thương mại khép kín chỉ giới hạn ở một cảng ở Tây Ban Nha và chỉ một số ít ở Ấn không hoạt động, với các nhà buôn châu Âu cung cấp cho thương nhân Tây Ban Nha tại cảng Sevilla của Tây Ban Nha với hàng dệt may chất lượng cao và hàng hóa sản xuất khác mà Tây Ban Nha bản thân nó không thể cung cấp. Phần lớn bạc của Ấn đã được chuyển vào các nhà buôn châu Âu đó. Các quan chức của vuơgn thất tại Ấn đã cho phép tạo ra cả một hệ thống thương mại, trong đó họ có thể ép buộc người dân bản địa tham gia trong khi gặt hái lợi nhuận hợp tác với các thương nhân. Cho rằng, vương quyền đã cố gắng tạo ra và duy trì một hệ thống trọng thương khép kín cổ điển, tránh xa các đối thủ cạnh tranh và giữ sự giàu có trong đế chế. Trong khi Habsburg cam kết duy trì sự độc quyền nhà nước về lý thuyết, thì thực tế Đế chế là một lãnh địa kinh tế xốp và buôn lậu lan rộng. Vào thế kỷ 16 và 17 dưới thời Habsburg, Tây Ban Nha đã trải qua sự suy giảm dần dần về điều kiện kinh tế, đặc biệt là liên quan đến sự phát triển công nghiệp của các đối thủ Pháp, Hà Lan và Anh. Nhiều hàng hóa được xuất khẩu sang Đế chế có nguồn gốc từ các nhà sản xuất ở tây bắc châu Âu, chứ không phải ở Tây Ban Nha. Nhưng các hoạt động thương mại bất hợp pháp đã trở thành một phần trong cấu trúc hành chính của Đế chế. Được hỗ trợ bởi dòng chảy bạc lớn từ Mỹ, thương mại bị cấm bởi các hạn chế thương mại của chủ nghĩa trọng thương Tây Ban Nha phát triển mạnh mẽ, bởi vì nó cung cấp một nguồn thu nhập cho cả quan chức vương quyền và thương nhân tư nhân. Cơ cấu hành chính địa phương ở Buenos Aires, chẳng hạn, được thành lập thông qua việc giám sát cả thương mại hợp pháp và bất hợp pháp. Vào thế kỷ thứ mười tám, vương quyền đã cố gắng đảo ngược tiến trình dưới thời các vị vua Bourbon. vương quyền theo đuổi các cuộc chiến tranh để duy trì và mở rộng lãnh thổ, bảo vệ đức tin Công giáo và dập tắt đạo Tin lành, và đánh bại sức mạnh Ottoman vượt xa khả năng chi trả cho tất cả, bất chấp việc sản xuất bạc lớn ở Peru và México. Hầu hết dòng chảy đó đã trả cho những người lính đánh thuê trong các cuộc chiến tôn giáo ở châu Âu trong thế kỷ thứ mười sáu và mười bảy và vào tay thương nhân nước ngoài để trả tiền cho hàng tiêu dùng được sản xuất ở Bắc Âu. Nghịch lý là sự giàu có của Ấn làm nghèo nàn Tây Ban Nha và làm giàu cho Bắc Âu. Vào thế kỷ thứ mười tám, vương quyền đã cố gắng đảo ngược tiến trình dưới thời các vị vua Bourbon.
Điều này đã được công nhận ở Tây Ban Nha, với các nhà văn về kinh tế chính trị, arbitristas gửi các phân tích dài vương quyền dưới dạng "đài tưởng niệm, về các vấn đề nhận thức và với các giải pháp được đề xuất. Theo các nhà tư tưởng này, "Chi tiêu hoàng gia phải được điều tiết, việc bán văn phòng tạm dừng, sự tăng trưởng của nhà thờ đã được kiểm tra. Hệ thống thuế phải được đại tu, phải nhượng bộ đặc biệt cho những người lao động nông nghiệp, những dòng sông được tưới tiêu và làm khô đất. bằng cách này một mình năng suất của Castile có thể tăng lên, thương mại của nó được phục hồi và sự phụ thuộc nhục nhã của nó vào người nước ngoài, vào người Hà Lan và người Genova, bị chấm dứt".
Từ những ngày đầu của vùng Caribe và kỷ nguyên chinh phục, vương quyền đã cố gắng kiểm soát thương mại giữa Tây Ban Nha và Ấn bằng các chính sách hạn chế được thi hành bởi Nhà Trade (1503) ở Sevilla. Vận chuyển đã đi qua các cảng đặc biệt ở Tây Ban Nha (Sevilla, sau đó là Cadiz), Châu Mỹ Tây Ban Nha (Veracruz, Acapulco, La Habana, Cartagena de Indias, và Callao/Lima) và Philippines (Manila). Những người định cư Tây Ban Nha ở Ấn trong thời kỳ đầu rất ít và Tây Ban Nha có thể cung cấp đủ hàng hóa cho họ. Nhưng khi các đế chế Aztec và Inca bị chinh phục vào đầu thế kỷ XVI và sau đó là các mỏ bạc lớn được tìm thấy ở cả México và Peru, các khu vực của các đế chế lớn đó, nhập cư Tây Ban Nha tăng lên và nhu cầu về hàng hóa tăng vượt xa khả năng cung cấp của Tây Ban Nha. Vì Tây Ban Nha có ít vốn để đầu tư vào thương mại mở rộng và không có tập đoàn thương mại, chủ ngân hàng và nhà thương mại quan trọng nào ở Genova, Đức, Hà Lan, Pháp và Anh cung cấp cả vốn đầu tư và hàng hóa trong một hệ thống được cho là khép kín. Ngay cả trong thế kỷ XVI, Tây Ban Nha đã nhận ra rằng hệ thống khép kín lý tưởng hóa không hoạt động trong thực tế. Mặc dù vương quyền không làm thay đổi cấu trúc hạn chế hoặc chủ trương thận trọng tài khóa, bất chấp lời cầu xin của trọng tài, thương mại Ấn vẫn trên danh nghĩa của Tây Ban Nha, nhưng thực tế đã làm phong phú các quốc gia châu Âu khác. trái|nhỏ|[[Galleon Tây Ban Nha, trụ cột của vận chuyển xuyên Đại Tây Dương và xuyên Thái Bình Dương, khắc bởi Albert Dürer]] vương quyền thiết lập hệ thống đội tàu kho báu (flota) để bảo vệ việc vận chuyển bạc đến Sevilla (later Cadiz). Các thương nhân ở Sevilla đã chuyển các mặt hàng tiêu dùng đã được đăng ký và đánh thuế bởi House of Trade. đã được gửi đến Ấn Độ được sản xuất ở các nước châu Âu khác. Các lợi ích thương mại khác của châu Âu đã chiếm lĩnh nguồn cung, với các nhà buôn Tây Ban Nha và bang hội của họ (consulados) ở Tây Ban Nha và Ấn Độ đóng vai trò trung gian, gặt hái lợi nhuận một phần lợi nhuận. Tuy nhiên, những lợi nhuận đó không thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Tây Ban Nha trong một lĩnh vực sản xuất, với nền kinh tế tiếp tục dựa vào nông nghiệp. Sự giàu có của Ấn Độ dẫn đến sự thịnh vượng ở Bắc Âu, đặc biệt là Hà Lan và Anh, cả Tin lành. Khi sức mạnh của Tây Ban Nha suy yếu vào thế kỷ XVII, Anh, Hà Lan và Pháp đã tận dụng lợi thế ở nước ngoài bằng cách chiếm giữ các hòn đảo ở vùng biển Caribbean, trở thành căn cứ cho một thương mại buôn lậu ở Tây Ban Nha. Các quan chức của vương quyền, những người được cho là đàn áp buôn bán hàng lậu thường khá thường xuyên trong các cuộc tấn công với người nước ngoài, vì đó là một nguồn làm giàu cá nhân. Ở Tây Ban Nha, vương quyền đã tham gia thông đồng với các nhà buôn nước ngoài, vì họ đã trả tiền phạt, "có nghĩa là để thiết lập một khoản bồi thường cho nhà nước cho các tổn thất thông qua gian lận." nó trở thành rủi ro tính toán cho việc kinh doanh; Đối với vương quyền, nó có được thu nhập, nó sẽ mất đi. Thương nhân nước ngoài là một phần của hệ thống thương mại được cho là độc quyền. Việc chuyển Nhà Thương mại từ Sevilla sang Cadiz đồng nghĩa với việc tiếp cận dễ dàng hơn các nhà buôn nước ngoài sang thương mại Tây Ban Nha.
Động cơ của nền kinh tế đế quốc Tây Ban Nha có tác động toàn cầu là khai thác bạc. Các mỏ ở Peru và México nằm trong tay một số doanh nhân khai thác ưu tú, với khả năng tiếp cận vốn và dạ dày cho việc khai thác rủi ro. Họ hoạt động theo một hệ thống cấp phép của hoàng gia, kể từ khi vương quyền nắm giữ quyền đối với sự giàu có dưới lòng đất. Các doanh nhân khai thác giả định tất cả rủi ro của doanh nghiệp, trong khi vương quyền đạt được 20% lợi nhuận, thứ năm hoàng gia ("Quinto"). Thêm vào doanh thu của vương quyền là việc khai thác là vương quyền độc quyền trong việc cung cấp thủy ngân, được sử dụng để tách bạc nguyên chất từ quặng bạc trong quy trình sản xuất hiên. vương quyền giữ giá cao, do đó làm giảm khối lượng sản xuất bạc. Việc bảo vệ dòng chảy của nó từ México và Peru khi nó chuyển đến các cảng để vận chuyển đến Tây Ban Nha đã sớm dẫn đến một hệ thống đoàn xe (flota) đi thuyền hai lần một năm. Thành công của nó có thể được đánh giá bởi thực tế là hạm đội bạc chỉ bị bắt giữ một lần, vào năm 1628 bởi tư nhân người Hà Lan, ông Piet Hein. Sự mất mát đó dẫn đến sự phá sản của vương quyền Tây Ban Nha và thời kỳ suy thoái kinh tế kéo dài ở Tây Ban Nha. Một thực tế được người Tây Ban Nha sử dụng để tập hợp công nhân cho các mỏ được gọi là repartimiento. Đây là một hệ thống lao động cưỡng bức luân phiên, nơi các pueblos bản địa có nghĩa vụ phải đưa người lao động đến làm việc tại các mỏ và đồn điền Tây Ban Nha trong một số ngày trong năm. Repartimiento đã không được thực hiện để thay thế lao động nô lệ mà thay vào đó tồn tại bên cạnh lao động lương tự do, nô lệ và lao động thụt đầu dòng. Tuy nhiên, đó là một cách để người Tây Ban Nha mua sắm lao động giá rẻ, do đó thúc đẩy nền kinh tế khai thác. Điều quan trọng cần lưu ý là những người đàn ông làm việc như những người lao động repartimiento không phải lúc nào cũng chống lại việc thực hành. Một số người bị lôi kéo vào lao động như một cách để bổ sung tiền lương mà họ kiếm được từ các lĩnh vực trồng trọt để hỗ trợ gia đình của họ và, tất nhiên, phải trả tiền cống nạp. Đầu tiên, một người Tây Ban Nha có thể khiến những người lao động repartimiento làm việc cho họ với sự cho phép của một quan chức vương quyền, chẳng hạn như một cha đẻ, chỉ trên cơ sở rằng lao động này là hoàn toàn cần thiết để cung cấp cho đất nước những nguồn lực quan trọng. Tình trạng này trở nên lỏng lẻo hơn khi nhiều năm trôi qua và các doanh nghiệp khác nhau có lao động repartimiento nơi họ sẽ làm việc trong điều kiện nguy hiểm trong thời gian dài và lương thấp. nhỏ|Bìa bản dịch tiếng Anh của hợp đồng Asiento được ký kết bởi Anh và Tây Ban Nha vào năm 1713 như một phần của hiệp ước Utrecht chấm dứt Chiến tranh kế vị Tây Ban Nha. Hợp đồng đã trao quyền độc quyền cho Anh để bán nô lệ ở Ấn Tây Ban Nha. Trong thời đại Bourbon, các cải cách kinh tế đã tìm cách đảo ngược mô hình khiến Tây Ban Nha bị bần cùng hóa, không có khu vực sản xuất và các thuộc địa của nó cần cho hàng hóa sản xuất được cung cấp bởi các quốc gia khác. Nó đã cố gắng tái cấu trúc để thiết lập như một hệ thống giao dịch khép kín, nhưng nó bị cản trở bởi các điều khoản của Hiệp ước Utrecht năm 1713. Hiệp ước chấm dứt Chiến tranh kế vị Tây Ban Nha bằng một chiến thắng cho ứng cử viên Bourbon giành ngai vàng đã có một điều khoản cho người Anh buôn bán hợp pháp bằng giấy phép (asiento) nô lệ châu Phi sang Tây Ban Nha Mỹ. Quy định này làm suy yếu khả năng của một hệ thống độc quyền Tây Ban Nha được tân trang. Các thương nhân cũng sử dụng cơ hội để tham gia buôn bán hàng hóa sản xuất của họ. Chính sách của vương quyền đã tìm cách làm cho thương mại hợp pháp trở nên hấp dẫn hơn so với việc buôn bán tự do (comercio libre) vào năm 1778, theo đó các cảng của Tây Ban Nha Mỹ có thể giao dịch với nhau và họ có thể giao dịch với bất kỳ cảng nào ở Tây Ban Nha. Nó nhằm mục đích cải tổ một hệ thống Tây Ban Nha khép kín và vượt xa đế chế Anh ngày càng hùng mạnh. Sản xuất bạc hồi sinh vào thế kỷ thứ mười tám, với sản lượng vượt xa sản lượng trước đó. vương quyền giảm thuế đối với thủy ngân, có nghĩa là một khối lượng bạc nguyên chất lớn hơn có thể được tinh chế. Khai thác bạc đã hấp thụ hầu hết vốn có sẵn ở México và Peru, và vương quyền nhấn mạnh việc sản xuất kim loại quý được gửi đến Tây Ban Nha. Có một số sự phát triển kinh tế ở Ấn Độ để cung cấp thực phẩm, nhưng một nền kinh tế đa dạng đã không xuất hiện. Trong khi đó, ở châu Mỹ, các chính sách kinh tế được ban hành dưới thời Bourbon có những tác động khác nhau ở các khu vực khác nhau. Một mặt, sản xuất bạc ở Tân Tây Ban Nha tăng lên rất nhiều và dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng phần lớn lợi nhuận của ngành khai thác được hồi sinh đã dành cho giới thượng lưu và các quan chức nhà nước, trong khi ở các vùng nông thôn của Tân Tây Ban Nha, điều kiện cho công nhân nông thôn xấu đi, góp phần gây bất ổn xã hội sẽ ảnh hưởng đến các cuộc nổi dậy tiếp theo.
Kỷ nguyên cải cách của nhà Borbón
phải|nhỏ|[[Felipe V của Tây Ban Nha (1700-1746), vị vua đầu tiên của Tây Ban Nha thuộc Nhà Bourbon. Trong thời gian cai trị của mình, Tây Ban Nha đã đánh bại một cuộc xâm lược Tây Ban Nha của Áo và Anh nhưng mất quyền kiểm soát Ý trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha (1701–1714), chinh phục Oran Đế quốc Ottoman (1732), chiếm lại thành phố Napoli và Sicilia trong Chiến tranh Kế vị Ba Lan (1733–1735) và chiến đấu trong Chiến tranh Kế vị Áo (1740–1748), chinh phục nhanh gọn Milan, Parma và Piacenza.]]
Với cái chết năm 1700 của Carlos II không có con, vương miện của Tây Ban Nha đã được tranh cãi trong Cuộc chiến kế vị Tây Ban Nha. Theo Hiệp ước Utrecht (11 tháng 4 năm 1713) kết thúc chiến tranh, Hoàng tử Pháp của nhà Borbón, Philippe của Anjou, cháu của Louis XIV của Pháp, trở thành vua Philippe V. Ông giữ lại đế chế hải ngoại Tây Ban Nha ở châu Mỹ và Philippines. Thỏa thuận giải quyết đã mang lại chiến lợi phẩm cho những người đã ủng hộ Habsburg cho chế độ quân chủ Tây Ban Nha, nhượng lại lãnh thổ châu Âu của Tây Ban Nha Hà Lan, Naples, Milan và Sardinia cho Áo; Sicily và một phần của Milan đến Công tước Savoy, và Gibraltar và Menorca đến Vương quốc Anh. Hiệp ước cũng trao cho người Anh quyền độc quyền buôn bán nô lệ ở Tây Ban Nha Mỹ trong ba mươi năm, asiento, cũng như các chuyến đi được cấp phép đến các cảng trong sự thống trị của thực dân Tây Ban Nha, mở cửa, cho cả buôn bán trái phép và bất hợp pháp.
Sự phục hồi kinh tế và nhân khẩu học của Tây Ban Nha đã bắt đầu chậm chạp trong những thập kỷ cuối của triều đại Habsburg, như một điều hiển nhiên từ sự tăng trưởng của các đoàn xe thương mại và sự tăng trưởng nhanh hơn của buôn bán bất hợp pháp trong giai đoạn này. (Sự tăng trưởng này chậm hơn tốc độ tăng trưởng buôn bán bất hợp pháp của các đối thủ phía bắc trong thị trường của đế chế.) Tuy nhiên, sự phục hồi này sau đó không được chuyển thành cải tiến thể chế, thay vào đó là "giải pháp gần đúng cho các vấn đề thường trực". Di sản của sự lãng quên này đã được phản ánh trong những năm đầu của chế độ Bourbon, trong đó quân đội đã vô tình lao vào trận chiến trong Liên minh Quadruple (1718–1720). Sau chiến tranh, chế độ quân chủ Bourbon mới có cách tiếp cận thận trọng hơn nhiều đối với quan hệ quốc tế, dựa vào liên minh gia tộc với Bourbon Pháp, và tiếp tục theo một chương trình đổi mới thể chế.
Chương trình vương thast để ban hành các cải cách thúc đẩy kiểm soát hành chính và hiệu quả trong vùng đô thị để gây bất lợi cho các thuộc địa làm suy yếu lòng trung thành của giới thượng lưu đối với vương miện. Khi lực lượng Napoléon Bonaparte của Pháp xâm chiếm bán đảo Iberia vào năm 1808, Napoléon đã lật đổ chế độ quân chủ Bourbon Tây Ban Nha, đặt anh trai Joseph Bonaparte lên ngai vàng Tây Ban Nha. Có một cuộc khủng hoảng về tính hợp pháp của sự thống trị vương quyền ở châu Mỹ Tây Ban Nha, dẫn đến Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha (1808–1826).
Cải cách Bourbon
nhỏ|Đại diện của hai quyền lực, nhà thờ và nhà nước, được biểu tượng bằng bàn thờ và ngai vàng, với sự hiện diện của nhà vua [[Carlos III của Tây Ban Nha|Carlos III và Giáo hoàng Clement XIV, được tán thành bởi Phó vương, Antonio Bucareli và Tổng giám mục, Alonso Núñez de Haro, tương ứng , trước Đức Trinh Nữ Maria. "Tôn vinh Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội".]] Ý định rộng nhất của Bourbons Tây Ban Nha là tổ chức lại các thể chế của đế chế để quản lý nó tốt hơn vì lợi ích của Tây Ban Nha và vương miện. Nó đã tìm cách tăng doanh thu và để khẳng định quyền kiểm soát vương miện lớn hơn, bao gồm cả Giáo hội Công giáo. Tập trung quyền lực là vì lợi ích của vương miện và đô thị và để bảo vệ đế chế của mình chống lại các cuộc xâm lược của nước ngoài.
Vào năm 1717–1718, các cấu trúc để cai trị Ấn, 'Consejo de Indias' và 'Casa de Contratación', điều hành các khoản đầu tư vào đội tàu kho báu cồng kềnh của Tây Ban Nha, đã được chuyển từ Seville đến Cadiz, nơi các nhà buôn nước ngoài dễ dàng tiếp cận với thương mại Ấn. Cadiz trở thành một cổng cho tất cả giao dịch của Ấn (xem Hệ thống flota). Các chuyến đi cá nhân đều đặn chậm chạp trong việc di chuyển các đoàn tàu vũ trang truyền thống, nhưng đến những năm 1760, đã có những con tàu thường xuyên đi qua Đại Tây Dương từ Cadiz đến Havana và Puerto Rico, và trong những khoảng thời gian dài hơn đến Río de la Plata vào năm 1776. Thương mại hàng lậu vốn là huyết mạch của đế chế Habsburg đã giảm tỷ lệ thuận với vận chuyển đã đăng ký (một cơ quan đăng ký vận chuyển đã được thành lập vào năm 1735).
Hai biến động đã được đăng ký không hài lòng ở Tây Ban Nha Mỹ và đồng thời chứng minh khả năng phục hồi mới của hệ thống cải cách: cuộc nổi dậy Tupac Amaru ở Peru năm 1780 và cuộc nổi dậy của những kẻ thù của New Granada, cả hai đều phản ứng chặt chẽ hơn, kiểm soát hiệu quả hơn.
Sự thịnh vượng của thế kỷ 18
nhỏ|Pháo đài San Felipe de Barajas [[Cartagena de Indias. Năm 1741, Tây Ban Nha đánh bại một cuộc tấn công của Anh trong trận Cartagena de Indias.]] Thế kỷ 18 là một thế kỷ thịnh vượng của Đế quốc Tây Ban Nha ở nước ngoài khi thương mại tăng trưởng đều đặn, đặc biệt là trong nửa sau của thế kỷ, dưới thời cải cách Bourbon. Chiến thắng quan trọng của Tây Ban Nha trong Trận Cartagena de Indias trước một hạm đội và quân đội khổng lồ của Anh tại cảng Cartagena de Indias thuộc vùng Caribean, một trong những trận chiến thành công chống lại người Anh, đã giúp Tây Ban Nha bảo vệ sự thống trị của Mỹ cho đến thế kỷ 19. Nhưng các khu vực khác nhau lại khác nhau dưới sự cai trị của Bourbon, và ngay cả khi Tây Ban Nha mới đặc biệt thịnh vượng, nó cũng được đánh dấu bởi sự bất bình đẳng giàu có. Sản xuất bạc đã bùng nổ ở New Tây Ban Nha trong thế kỷ 18, với sản lượng tăng gấp ba lần từ đầu thế kỷ đến những năm 1750. Nền kinh tế và dân số đều tăng trưởng, cả hai đều tập trung quanh Thành phố Mexico. Nhưng trong khi chủ sở hữu mỏ và vương miện được hưởng lợi từ nền kinh tế bạc hưng thịnh, phần lớn dân số ở vùng nông thôn Bajío phải đối mặt với giá đất tăng, tiền lương giảm. Kết quả của nhiều người từ vùng đất của họ. Chiếc Armada của Anh đó là chiếc lớn nhất từng được tập hợp trước cuộc đổ bộ Normandy, thậm chí vượt quá 60 tàu II Great Armada của Philip. Hạm đội Anh được thành lập bởi 195 tàu, 32.000 binh sĩ và 3.000 khẩu pháo do Đô đốc Edward Vernon chỉ huy đã bị Đô đốc Blas de Lezo đánh bại. Trận Cartagena de Indias là một trong những chiến thắng quyết định nhất của Tây Ban Nha trước những nỗ lực không thành công của người Anh để giành quyền kiểm soát Main Main. Có nhiều trận chiến thành công giúp Tây Ban Nha bảo đảm sự thống trị của Mỹ cho đến thế kỷ 19. Nhà sử học Reed Browning mô tả cuộc thám hiểm ở Anh của Anh là "thảm họa ngu ngốc" và trích dẫn Horace Walpole, có cha là kẻ thù cay đắng của Vernon, viết vào năm 1744: "Chúng tôi đã mất bảy triệu tiền và 30.000 người trong cuộc chiến Tây Ban Nha và tất cả thành quả của tất cả máu và kho báu này là vinh quang khi có đầu của Đô đốc Vernon trên biển hiệu nhà bia!"
Với một chế độ quân chủ Bourbon đã xuất hiện một ý tưởng về những người theo chủ nghĩa trọng thương Bourbon dựa trên một nhà nước tập trung, ban đầu có hiệu lực ở Mỹ nhưng với đà phát triển trong thế kỷ. Vận chuyển đã phát triển nhanh chóng từ giữa những năm 1740 cho đến Chiến tranh Bảy năm (1756–1763), phản ánh phần nào sự thành công của Bourbons trong việc kiểm soát thương mại bất hợp pháp. Với việc nới lỏng các biện pháp kiểm soát thương mại sau Chiến tranh Bảy Năm, giao thương vận tải trong đế chế một lần nữa bắt đầu mở rộng, đạt tốc độ tăng trưởng phi thường trong những năm 1780.
Sự kết thúc độc quyền thương mại của Cadiz với Mỹ đã mang lại sự tái sinh của các nhà sản xuất Tây Ban Nha. Đáng chú ý nhất là ngành công nghiệp dệt may đang phát triển nhanh chóng của Catalunya mà đến giữa những năm 1780 đã chứng kiến những dấu hiệu công nghiệp hóa đầu tiên. Điều này chứng kiến sự xuất hiện của một tầng lớp thương mại nhỏ, hoạt động chính trị ở Barcelona. Cái túi biệt lập này của sự phát triển kinh tế tiên tiến hoàn toàn trái ngược với sự lạc hậu tương đối của hầu hết đất nước. Hầu hết các cải tiến là trong và xung quanh một số thành phố lớn ven biển và các đảo lớn như Cuba, với các đồn điền thuốc lá, và sự phát triển mới của khai thác kim loại quý ở Mỹ.
Mặt khác, hầu hết các vùng nông thôn Tây Ban Nha và đế chế của nó, nơi phần lớn dân số sinh sống, sống trong điều kiện tương đối lạc hậu theo tiêu chuẩn Tây Âu thế kỷ 18, củng cố phong tục cũ và sự cô lập. Năng suất nông nghiệp vẫn thấp mặc dù đã nỗ lực giới thiệu các kỹ thuật mới cho phần