✨María Teresa của Tây Ban Nha

María Teresa của Tây Ban Nha

María Teresa của Tây Ban Nha, Maria Theresia của Áo hay María Teresa của Áo và Borbón (tiếng Tây Ban Nha: María Teresa de Austria y Borbón; tiếng Pháp: Marie-Thérèse d'Autriche; tiếng Bồ Đào Nha: Maria Teresa da Espanha; tiếng Đức: Maria Theresia von Spanien; tiếng Anh: Maria Theresa of Spain; 10 tháng 9 năm 1638 – 30 tháng 7 năm 1683) là Vương hậu của Vương quốc Pháp thông qua cuộc hôn nhân với Louis XIV của Pháp từ năm 1660 đến 1683. María Teresa sinh ra là Infanta của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha (cho đến năm 1640) và Nữ Đại Vương công Áo, và là thành viên thuộc nhánh Tây Ban Nha của Nhà Habsburg.

Cuộc hôn nhân năm 1660 của María Teresa với anh họ là Quốc vương Louis XIV của Pháp được thực hiện với mục đích chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài giữa Pháp và Tây Ban Nha. Nổi tiếng vì đức hạnh và lòng mộ đạo, María Teresa đã chứng kiến năm trong số sáu người con qua đời khi còn nhỏ, và bà thường được coi là một nhân vật đáng thương trong các tài liệu lịch sử về triều đại của Louis XIV vì thường bị triều đình bỏ bê và bị lu mờ bởi nhiều tình nhân của nhà vua.

María Teresa không có ảnh hưởng chính trị nào trong triều đình hoặc chính phủ Pháp, (trừ một khoảng thời gian ngắn vào năm 1672, khi bà được đặt làm nhiếp chính trong thời gian Louis XIV vắng mặt trong chiến tranh Pháp – Hà Lan). Bà qua đời ở tuổi 44 vì biến chứng từ áp xe cánh tay. Cháu trai của María Teresa là Phillipe, Công tước xứ Anjou được thừa hưởng ngai vàng Tây Ban Nha vào năm 1700 sau cái chết của Carlos II, em trai cùng cha khác mẹ của bà và Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, thành lập nên chi nhánh của nhà Bourbon tại Tây Ban Nha, vương tộc đã trị vì một cách gián đoạn cho đến ngày nay.

Tiểu sử

Đầu đời

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Juan_Bautista_Martinez_del_Mazo_007.jpg|trái|nhỏ|260x260px|Chân dung của [[Juan Bautista Martínez del Mazo, k. 1645]] Sinh ra tại Tu viện Vương thất El Escorial, María Teresa là con gái của Felipe IV & III và người vợ đầu tiên là Élisabeth của Pháp. Vương nữ được đặt tên theo Thánh Têrêsa, vị thánh mà Élisabeth chọn lựa để bảo vệ con gái mình. Là thành viên của Nhà Áo, María Teresa được quyền sử dụng tước hiệu Nữ Đại vương công Áo. Vương nữ được biết đến tại Tây Ban Nha với tên María Teresa de Austria và tại Pháp với tên Marie-Thérèse d'Autriche.

María Teresa được nuôi dưỡng bởi phó mẫu hoàng gia Luisa Magdalena de Jesus, và việc giáo dục tôn giáo của vương nữ đầu tiên được giao cho Juan de Palma. Sau đó, Cha Vasquez, người được công nhận tại Tây Ban Nha với trình độ học vấn cao và đức hạnh lớn, được giao nhiệm vụ giáo dục tôn giáo cho María Teresa. Vương hậu Élisabeth qua đời khi María Teresa mới sáu tuổi, và vương nữ sau đó trở nên rất thân thiết với mẹ kế là Mariana của Áo, người chỉ hơn María Teresa năm tuổi.

Không giống như Pháp, Tây Ban Nha không có Luật Salic và do đó nữ giới vẫn có thể kế vị. Khi anh trai của María Teresa là Baltasar Carlos qua đời vào năm 1646, vương nữ trở thành người thừa kế hợp pháp của Đế quốc Tây Ban Nha, cho đến khi vương tử Felipe Próspero chào đời vào năm 1657. María Teresa một lần nữa được coi là người thừa kế hợp pháp trong thời gian ngắn từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 11 năm 1661, sau cái chết của vương tử Felipe và cho đến khi vương tử Carlos chào đời, người sau đó thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha với tên gọi Carlos II.

Đính hôn và hôn nhân ủy quyền

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Traite-Pyrenees.jpg|nhỏ|Cuộc gặp gỡ tại Đảo Pheasant, tháng 6 năm 1660; María Teresa được giao cho Pháp và chồng là Louis XIV thông qua đại diện.|trái Vào năm 1658, khi chiến tranh với Pháp bắt đầu lắng xuống, một liên minh giữa hoàng gia Tây Ban Nha và Pháp đã được đề xuất như một biện pháp đảm bảo hòa bình. María Teresa và Louis XIV là anh em họ, khi cha của Louis XIV là Louis XIII, anh trai của mẹ María Teresa là Élisabeth, trong khi cha bà, Felipe IV là em trai của Ana của Tây Ban Nha, mẹ của Louis XIV. Sự trì hoãn của Tây Ban Nha đã dẫn đến một âm mưu mà trong đó Thủ tướng Pháp là Hồng y Mazarin đã giả vờ tìm kiếm một cuộc hôn nhân cho quốc vương của mình với Margherita Violante của Savoia. Khi Felipe IV của Tây Ban Nha nghe tin về cuộc họp tại Lyon giữa Nhà Pháp và Nhà Savoia vào tháng 11 năm 1658, ông đã tuyên bố về liên minh Pháp-Savoia rằng "điều đó không thể xảy ra và sẽ không xảy ra". Sau đó, Felipe đã cử một phái viên đặc biệt đến triều đình Pháp để mở các cuộc đàm phán về hòa bình và hôn nhân hoàng gia.

Các cuộc đàm phán về hợp đồng hôn nhân vô cùng căng thẳng. Mong muốn ngăn chặn sự hợp nhất của hai quốc gia hoặc vương quyền, đặc biệt là một sự hợp nhất mà Tây Ban Nha sẽ phụ thuộc vào Pháp, các nhà ngoại giao đã tìm cách đưa vào một điều khoản sẽ tước đoạt mọi quyền kế vị Tây Ban Nha của María Teresa và các con của mình. Một hợp đồng hôn nhân cuối cùng đã được sắp xếp vào tháng 11 năm 1659 như một trong những điều khoản của Hiệp ước Pyrenees. Hợp đồng nêu rõ rằng María Teresa phải từ bỏ mọi yêu sách đối với lãnh thổ Tây Ban Nha cho bản thân và tất cả con cháu của mình. Tuy nhiên, Mazarin và Lionne đã đưa ra điều kiện là Tây Ban Nha phải thanh toán đầy đủ của hồi môn là 500.000 écu. Vì Tây Ban Nha trở nên nghèo đói và phá sản sau nhiều thập kỷ chiến tranh, nên vương quốc không có khả năng trả số tiền hồi môn lớn như vậy, và do đó Pháp không bao giờ nhận được số tiền đã thỏa thuận.

Vào ngày 2 tháng 6 năm 1660, María Teresa kết hôn theo ủy quyền với Louis tại Fuenterrabia, với Luis Méndez de Haro đại diện cho chú rể.

Hôn nhân

Felipe IV và toàn thể triều đình Tây Ban Nha đã tháp tùng María Teresa đến Đảo Pheasant trên biên giới sông Bidassoa, nơi Louis và triều đình gặp vương nữ trong cuộc họp trên Đảo Pheasant vào ngày 7 tháng 6 năm 1660, và sau đó María Teresa đặt chân tới Pháp. Vào ngày 9 tháng 6, lễ cưới được tổ chức tại Saint-Jean-de-Luz tại nhà thờ Thánh Gioan Baotixita mới được xây dựng lại. Sau lễ cưới, Louis muốn động phòng càng nhanh càng tốt.

Vương hậu nước Pháp

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Queen_Marie_Th%C3%A9r%C3%A8se_and_her_son_the_Dauphin_of_France,_dated_circa_1663_by_Charles_Beaubrun.jpg|trái|nhỏ|235x235px|Vương hậu María Teresa và con trai Trữ quân nước Pháp trong trang phục Ba Lan, có niên đại khoảng năm 1663, bởi [[Charles Beaubrun.]] liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Anne_of_Austria_with_her_daughter-in-law_Queen_Marie_Th%C3%A9r%C3%A8se_holding_the_Dauphin_Louis.jpg|nhỏ|180x180px|Hai vương hậu nước Pháp là [[Ana của Tây Ban Nha với cháu gái và con dâu María Teresa đang bế con trai Louis]] Vào ngày 26 tháng 8 năm 1660, đôi vợ chồng mới cưới thực hiện nghi lễ nhập thành Paris theo truyền thống. Louis rất tình cảm và quan tâm đến María Teresa, và đã ra lệnh cho Grand Maréchal du Logis rằng "Vương hậu và Nhà vua không bao giờ được tách biệt, bất kể ngôi nhà họ ở có nhỏ đến đâu". Tuy nhiên, lòng tận tụy của Louis với María Teresa không kéo dài được lâu, và ông nhanh chóng theo đuổi người tình mới là Louise de La Vallière.

María Teresa mang thai lần đầu tiên vào đầu năm 1661. Bà hạ sinh Louis, vị Trữ quân được mong đợi từ lâu vào ngày 1 tháng 11 năm 1661, hoàn thành nhiệm vụ chính của mình với tư cách là Vương hậu. Louis đã ở bên cạnh María Teresa trong suốt quá trình sinh con khó khăn, và chăm sóc hỗ trợ vương hậu một cách chu đáo, nhưng ngay sau đó lại quay trở về với tình nhân La Valliere.liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Grave_of_Marie_Th%C3%A9r%C3%A8se_of_Austria_at_the_Royal_Basilica_of_Saint_Denis.jpg|nhỏ|Nơi chôn cất María Teresa tại [[Vương cung thánh đường Thánh Denis, nơi chôn cất của hầu hết các vị vua nước Pháp|240x240px]]María Teresa gặp khó khăn trong việc thích nghi với cuộc sống tại triều đình Pháp, và thường phải vật lộn để hiểu được thú vui và khiếu hài hước của người Pháp. María Teresa trở nên quấn quýt với dì của mình là Thái hậu Ana, người mà bà trìu mến gọi là tia. Là người sùng đạo, María Teresa thích tham dự thánh lễ dài và tổ chức các lễ hội truyền thống của Tây Ban Nha. Ngoài việc cầu nguyện, bà dành phần lớn thời gian rảnh rỗi để chơi bài và chơi cờ bạc. María Teresa không tham gia nhiều vào chính trị, mặc dù từng giữ chức nhiếp chính trong một thời gian ngắn vào năm 1667 khi Louis XIV đi xa để tham gia các chiến dịch ở biên giới.

Louis ban đầu cố gắng che giấu sự không chung thủy của mình, nhưng sự việc ngày càng lộ liễu hơn theo thời gian. María Teresa coi thường việc chồng ngoại tình với Françoise-Athénaïs, Nữ Hầu tước xứ Montespan. Louis khiển trách Madame de Montespan khi hành vi tại triều đình quá coi thường địa vị của vương hậu, nhưng thường thể hiện sự chiều chuộng đối với Madame de Montespan vượt xa cách đối xử với María Teresa. Sau đó, Madame de Maintenon, nữ quan của những người con ngoài giá thú giữa Madame de Montespan và Louis XIV, đã đến thay thế vị trí tình nhân của nhà vua. Lúc đầu, Madame de Maintenon chống lại những lời tán tỉnh của Louis, và khuyến khích nhà vua dành nhiều sự quan tâm hơn cho người vợ đã bị bỏ bê từ lâu, sự chu đáo mà María Teresa đáp lại bằng sự nồng nhiệt dành cho bà. Sau khi María Teresa qua đời, Maintenon trở thành người vợ bí mật của nhà vua. Có tin đồn rằng María Teresa có một người con gái ngoài giá thú là Louise Marie Thérèse (Nữ tu đen xứ Moret).

Qua đời

Vào tháng 7 năm 1683, María Teresa bị áp xe ở nách và lên cơn sốt. Bác sĩ của María Teresa là Guy-Crescent Fagon đã nhất quyết lấy máu cho vương hậu bất chấp sự phản đối, và bà qua đời trong đau đớn vào ngày 30 tháng 7 năm 1683. Khi María Teresa qua đời, Louis XIV đã nói rằng: "Đây là sự phiền muộn đầu tiên mà nàng mang đến cho ta."

Con cái

María Teresa có 6 người con với Louis XIV, tuy nhiên chỉ có Louis, Đại Trữ quân sống sót đến tuổi trưởng thành:

Louis, Đại Trữ quân (1 tháng 11 năm 1661 – 14 tháng 4 năm 1711) kết hôn với Maria Anna Victoria xứ Bayern, có con cái.

Anne Élisabeth (18 tháng 11 năm 1662 – 30 tháng 12 năm 1662); qua đời khi còn nhỏ.

Marie Anne (16 tháng 11 năm 1664 – 26 tháng 12 năm 1664); qua đời khi còn nhỏ.

Marie Thérèse (2 tháng 1 năm 1667 – 1 tháng 3 năm 1672); được phong là Madame Royale, qua đời khi mới năm tuổi.

Philippe Charles (5 tháng 8 năm 1668 – 10 tháng 7 năm 1671); được phong là Công tước xứ Anjou, qua đời khi mới hai tuổi.

Louis François (14 tháng 6 năm 1672 – 4 tháng 11 năm 1672); được phong là Công tước xứ Anjou, qua đời khi còn nhỏ.

Tổ tiên

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**María Teresa của Tây Ban Nha**, **Maria Theresia của Áo** hay **María Teresa của Áo và Borbón** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Austria y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Thérèse d'Autriche_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3
**Luisa Teresa của Tây Ban Nha** (tên đầy đủ: _Luisa Teresa María del Carmen Francisca of Asís de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 11 tháng 6 năm 1824 – 27 tháng 12 năm 1900) là con
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
**María Josefa Carmela của Tây Ban Nha, hay Maria Giuseppina Carmela của Napoli và Sicilia** (6 tháng 7 năm 1744 – 8 tháng 12 năm 1801) sinh ra là Vương nữ Napoli và Sicilia. Khi
**María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin** (tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de España_, tiếng Đức: _Maria Ludovica von Spanien_; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng
**Maria Cristina của Tây Ban Nha** hay **María Cristina de Borbón y Battenberg** (tiếng Tây Ban Nha: María Cristina de España; tiếng Anh: _Maria Christina of Spain_; tiếng Scotland: _Maria Christina o Spain_; tiếng Ý:
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**Ana của Tây Ban Nha, hay Ana của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Ana María Mauricia de Austria y Austria-Estiria_ hay _Ana de España_; tiếng Đức: _Anna von Österreich_; tiếng Bồ Đào Nha: _Ana da
**María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Antonia Fernanda de España_; 17 tháng 11 năm 1729 – 19 tháng 9 năm 1785 ) là con gái út của Felipe V
**Isabel Alfonsa của của Tây Ban Nha hay Isabel Alfonsa de Borbón-Dos Sicilias y Borbón**, (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Alfonsa de España_; tiếng Ý: I_sabella Alfonsa di Spagna_; tiếng Anh: _Isabel Alfonsa of Spain_;
**María Teresa Antonia Rafaela của Tây Ban Nha, Trữ phi nước Pháp** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa Rafaela de España_; 11 tháng 6 năm 1726 – 22 tháng 7 năm 1746), là con gái
**María Teresa Isabel của Tây Ban Nha hay María Teresa Isabel de Borbón y Habsburgo-Lorena** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa Isabel Eugenia del Patrocinio Diega de España_; 12 tháng 11 năm 1882 tại Madrid,
phải|nhỏ| Vương nữ María Teresa Isabel của Tây Ban Nha, mẹ của Vương tôn nữ María del Pilar của Bayern và Tây Ban Nha. **María del Pilar của Tây Ban Nha và Bayern hay María
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha hay María de las Mercedes de Borbón y Habsburgo-Lorena** (tiếng Tây Ban Nha: _María de las Mercedes de España_; 11 tháng 9 năm 1880 – 17 tháng
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha và Bayern hay María de las Mercedes de Baviera y Borbón** (3 tháng 10 năm 1911 – 11 tháng 9 năm 1953) là một Vương nữ người
**María Teresa Carolina của Tây ban Nha** (Madrid, 16 tháng 11 năm 1828 - Madrid, 3 tháng 11 năm 1829 ) là Infanta của Tây Ban Nha, con gái của Francisco de Paula của Tây
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Vương tộc Borbón**, hay **Borbón-Anjou**, là vương tộc hiện đang trị vì Tây Ban Nha, xuất phát từ Vương tộc Bourbon có nguồn gốc từ Pháp, khi Philippe của Pháp, Công tước xứ Anjou trở
**Beatriz của Tây Ban Nha** hay **Beatriz de Borbón y Battenberg** (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: _Beatrice of Spain_; tiếng Scotland: _Beatrice o Spain_; tiếng Ý: _Beatrice di Borbone-Spagna_; tiếng Đức:
**Blanca của Tây Ban Nha** hay **Blanca de Borbón** (7 tháng 9 năm 1868 – 25 tháng 10 năm 1949) là con cả của Carlos María của Tây Ban Nha, người đòi ngai vàng Tây
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
phải|nhỏ|299x299px| Vương huy của Vương tử Gabriel của Tây Ban Nha. **Gabriel của Tây Ban Nha** (tên đầy đủ: _Gabriel Antonio Francisco Javier Juan Nepomuceno José Serafín Pascual Salvador_; 12 tháng 5 năm 1752 –
Đây là **danh sách ­­­­­vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
Doña **Carlota Joaquina của Tây Ban Nha hay Carlota Joaquina de Borbón** (Carlota Joaquina Teresa Cayetana; 25 tháng 4 năm 1775 - 7 tháng 1 năm 1830), được sinh ra là một Infanta của vương
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Bárbara của Bồ Đào Nha** hay **Maria** **Bárbara của Bồ Đào Nha** (; tên đầy đủ: _Maria Madalena Bárbara Xavier Leonor Teresa Antónia Josefa_; 4 tháng 12 năm 1711 – 27 tháng 8 năm 1758)
**María Cristina của Tây Ban Nha, María Cristina của Orléans hay María Isabel de Orleans y Borbón** (tên đầy đủ: _María Cristina Francisca de Paula Antonieta_ ; 29 tháng 10 năm 1852 – 28 tháng
**Đại hội Đại biểu Tây Ban Nha** là hạ viện của Quốc hội Tây Ban Nha. Đại hội Đại biểu gồm 350 đại biểu được bầu theo hệ thống phổ thông đầu phiếu theo danh
**María Teresa của Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Borbón-Parma_, tiếng Pháp: _Marie-Thérèse de Bourbon-Parme_; 28 tháng 7 năm 1933–26 tháng 3 năm 2020) là một nhà hoạt động chính trị, học giả
**Élisabeth của Pháp** hay **Isabelle của Bourbon** (22 tháng 11 năm 1602 – 6 tháng 10 năm 1644) là con gái của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici cũng như là Vương hậu
**Maria Karolina của Áo** (; tên đầy đủ: _Maria Karolina Luise Josepha Johanna Antonia_; 13 tháng 8 năm 1752 – 8 tháng 9 năm 1814) là Vương hậu của Napoli và Sicilia với tư cách
**João VI** hoặc **John VI** (tiếng Bồ Đào Nha: **João VI**; – ), biệt danh là "the Clement", là vua của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve từ năm 1816 đến năm
**Mariana Vitória của Bồ Đào Nha** (hoặc của Bragança; ; tên đầy đủ: _Mariana Vitória Josefa Francisca Xavier de Paula Antonieta Joana Domingas Gabriela de Bragança_ ; ; 15 tháng 12 năm 1768 – 2
**María Luisa của Parma** (Luisa Maria Teresa Anna; 9 tháng 12 năm 1751 – 2 tháng 1 năm 1819) là vợ của Carlos IV của Tây Ban Nha. Mối quan hệ của María Luisa với
**Maria Benedita của Bồ Đào Nha** (Maria Francisca Benedita Ana Isabel Antónia Lourença Inácia Teresa Gertrudes Rita Rosa; 25 tháng 7 năm 1746 – 18 tháng 8 năm 1829) là một Infanta của Bồ Đào
**Maria Teresa của Sardegna** hay **Maria Teresa của Savoia** (; ; 31 tháng 1 năm 1756 – 2 tháng 6 năm 1805) là Vương nữ Sardegna, con gái của Vittorio Amadeo III của Sardegna và
**Maria Teresa Ferdinanda của Sardegna** (tên đầy đủ: _Maria Teresa Ferdinanda Felicitas Gaetana Pia_; 19 tháng 9 năm 1803 – 16 tháng 7 năm 1879) là con gái của Vittorio Emanuele I của Sardegna và
**Ferdinando II của Hai Sicilie** (tiếng Ý: Ferdinando Carlo; tiếng Sicilia: Ferdinannu Carlu; tiếng Anh: Ferdinand; 12 tháng 1 năm 1810 - 22 tháng 5 năm 1859) là vua của Vương quốc Hai Sicilia từ
**Maria Teresa của Napoli và Sicilia** (; ; tên đầy đủ: _Maria Teresa Carolina Giuseppina_; 6 tháng 6 1772 – 13 tháng 4 năm 1807) là Hoàng hậu La Mã Thần thánh cuối cùng và
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
Dom **Pedro I** (tiếng Việt:Phêrô I; 12 tháng 10 năm 1798 – 24 tháng 9 năm 1834), biệt danh "Người Giải phóng", là người thành lập và nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc Brasil. Với
**Louis Ferdinand của Pháp** (4 tháng 9 năm 1729 – 20 tháng 12 năm 1765) là con trai duy nhất còn sống đến tuổi trưởng thành của Louis XV của Pháp và Maria của Ba
**Luisa Carlotta của Hai Sicilie** (24 tháng 10 năm 1804 – 29 tháng 1 năm 1844), là Vương nữ Hai Sicilie và là chị gái của Maria Cristina của Hai Sicilie, Vương hậu Tây Ban
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha, María de las Mercedes của Orléans, María de las Mercedes de Orleans y Borbón hay Mercedes của Orléans** (tiếng Tây Ban Nha: _María de las Mercedes de
**Maria Anna của Áo** (_Maria Anna von Österreich_) có thể chỉ đến những người sau: * Maria Anna của Áo (1606–1646), con gái của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, Hoàng