✨María Isabel của Tây Ban Nha

María Isabel của Tây Ban Nha

María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma (tiếng Tây Ban Nha: María Isabel de España; tiếng Ý: Maria Isabella di Spagna; tiếng Pháp: Marie-Isabelle d'Espagne; tiếng Đức: Maria Isabella von Spanien; tiếng Anh: Maria Isabella of Spain; tên đầy đủ: María Isabel Antonia Josefa Ana Teresa Filipina de Borbón y Borbón-Parma; 6 tháng 7 năm 1789 – 13 tháng 9 năm 1848) là một Infanta của Tây Ban Nha và là Vương hậu Hai Sicilie thông qua hôn nhân với Francesco I của Hai Sicilie.

Vương nữ Tây Ban Nha

María Isabel là con gái thứ 5 và là người con thứ 11 của Carlos IV của Tây Ban Nha và María Luisa của Parma. Sự ra đời của María Isabel trùng với thời điểm sủng thần của mẹ vương nữ là Manuel Godoy, lên nắm quyền ở Tây Ban Nha. Có tin đồn trong triều đình cho rằng María Isabel không phải là con gái Quốc vương Tây Ban Nha mà là của cận thần Godoy trẻ tuổi, người đã trở thành thủ tướng Tây Ban Nha vào năm 1792.

Tuổi thơ của Vương nữ trùng hợp với khoảng thời gian diễn ra các sự kiện của cuộc cách mạng Pháp và bất ổn chính trị ở Tây Ban Nha. Là người con gái út còn sống sót trong một gia đình đông con, María Isabel được cả cha mẹ cưng chiều và tiếp nhận một nền giáo dục sơ sài. María Isabel cùng với các thành viên khác trong gia đình được Francisco Goya họa trong bức chân dung Carlos IV của Tây Ban Nha và Gia đình của Ngài vào khoảng thời gian từ năm 1800–1801.

Vào tháng 12 năm 1800, Lucien Bonaparte đã đến Tây Ban Nha với tư cách là đại sứ mới của Pháp. Thông qua Lucien, Vương hậu María Luisa đã ngỏ lời lập hôn ước giữa María Isabel với Napoléon Bonaparte vào tháng 4 năm 1801. Lúc đó Ngài Đại Lãnh sự Napoléon đã kết hôn với Joséphine de Beauharnais được hai năm, nhưng có ý kiến cho rằng Napoléon nên ly hôn với Joséphine để cưới một vương nữ mang dòng máu vương giả. Vào ngày 6 tháng 7 năm 1802 tại sinh nhật thứ mười ba, María Isabel kết hôn ủy nhiệm tại Madrid với người em họ 25 tuổi Francesco, do đó trở thành kế phối của Francesco. Anh trai vương nữ là Fernando đứng trong lễ đường thay mặt cho chú rể. Vương thất Tây Ban Nha đã đến Barcelona vào ngày 13 tháng 8. Không giống như các chị gái của mình, María Isabel có những đường nét phổ biến, nhưng trông trẻ hơn so với tuổi mười ba của tân vương phi. María Isabel được mô tả là "nhỏ bé và tròn như một quả bóng". Bất chấp những nỗ lực liên tiếp của Murat nhằm xâm chiếm hòn đảo, Ferdinando và Maria Karolina vẫn giữ được địa vị và quyền lực của họ ở Sicilia dưới sự bảo vệ của quân đội Anh, nhưng sẽ không thể thách thức quyền kiểm soát của Pháp đối với lục địa Ý. Quyền lực thực sự ở Sicilia do Lãnh chúa William Bentinck, chỉ huy quân đội Anh trên đảo nắm giữ. Quốc vương do đó dành thời gian đẻ săn bắn trong những năm kế tiếp và chỉ xuất hiện ở Palermo khi cần thiết.

Năm 1812, Francesco, chồng của María Isabel, được bổ nhiệm làm nhiếp chính. María Isabel không tham gia vào các chính sự phức tạp của Sicilia của triều đình Napoli đang lưu vong ở Palermo. Francesco xung đột với tầng lớp quý tộc bản địa, những người phản đối các loại thuế mới nhằm tài trợ cho cuộc chiến chống Pháp và đòi quyền tự trị ở mức độ cao. Vương hậu Maria Karolina thì bị đày về Áo vào năm 1813 và qua đời tại quê nhà vào năm 1814.

Công tước phu nhân xứ Calabria

nhỏ|290x290px| Gia đình của Francesco và María Isabel năm 1820; María Isabel ở ngoài cùng bên trái, đang ôm con gái là [[Maria Carolina của Hai Sicilie|Maria Carolina Ferdinanda của Hai Sicilie.]] Năm 1815, dưới sự bảo hộ của Áo, Ferdinando trở lại Napoli. Ferdinando đã bãi bỏ hiến pháp của Sicilia và hợp nhất hai vương quốc Napoli và Sicilia thành Vương quốc Hai Sicilie vào năm 1816, phong cho con trai Francesco danh hiệu Công tước xứ Calabria với tư cách là người thừa kế của vương quốc mới. Đức nữ vẫn ở với mẹ lúc Vương hậu María Luisa qua đời vào tháng 1 năm 1819.

Fernando VII đã mời em gái và anh rể cùng con gái họ đến dự đám cưới ở Madrid. Francesco I bị bệnh gút và sức khỏe giảm sút, nhưng María Isabel lại nóng lòng về thăm cố hương sau 27 năm xa cách. Vương hậu thuyết phục chồng thực hiện chuyến đi dài ngày đến Tây Ban Nha. Con trai cả của họ, Vương tử Ferdinando, Công tước xứ Calabria được giao vai trò nhiếp chính trong thời gian Quốc vương và Vương hậu vắng mặt.

Di chuyển bằng đường bộ, đoàn người Hai Sicilie khởi hành đến Tây Ban Nha vào ngày 28 tháng 9 năm 1829. Trên đường đi, họ đến thăm Giáo hoàng Piô VIII ở Roma. Tại Grenoble, hai vợ chồng gặp lại Vương nữ Maria Carolina, hiện là Công tước phu nhân xứ Berry, bản thân Công tước phu nhân cũng rất vui khi gặp lại cha mẹ sau mười ba năm. Khi đến Tây Ban Nha, hôn lễ được cử hành vào ngày 25 tháng 1 năm 1830. Trên đường trở về, hai vợ chồng lại lần nữa đoàn tụ với Bà Công tước xứ Berry, người đã giới thiệu cha mẹ với đứa con trai mới sinh là Henri xứ Artois, Công tước xứ Bordeaux, tại Chambord . María Isabel và chồng đến Paris, nơi họ được tiếp đãi bởi Quốc vương Charles X của Pháp. Vào tháng 6, Quốc vương và Vương hậu rời Genova đến Napoli vào ngày 30 tháng 7. Sau khi trở về, sức khỏe của nhà vua xấu đi nhanh chóng. Francesco I qua đời ngày 8 tháng 11 năm 1830.

Vương mẫu hậu

Sau cái chết của chồng, con trai cả của María Isabel trở thành Quốc vương Ferdinando II của Hai Sicilie. María Isabel không hề hay biết rằng bản thân là đối tượng của một âm mưu do Thân vương Vincenzo Ruffo xứ Scaletta và Peter Ugo, Hầu tước xứ Favare dựng nên. Mục tiêu của họ là đưa María Isabel trở thành nhiếp chính phòng kìm hãm quyền lực người con trai bảo thủ của Vương hẫu hậu trong ít nhất vài năm. Âm mưu bị phát hiện và ngay lập tức bị tân vương trẻ dập tắt. Ferdinando II khi đó mới 20 tuổi. Mặc dù nhút nhát và ít nói, Ferdinando II tràn đầy nhiệt huyết hơn hẳn cha và ông của mình và thực hiện nghĩa vụ của mình với tư cách là một vị vua một cách nghiêm túc hơn. Mối quan hệ giữa María Isabel và Ferdinando II vốn lạnh nhạt. Thái hậu dành sự ưa thích rõ rệt cho người con trai thứ hai Carlo Ferdinando, Thân vương xứ Capua, người hướng ngoại hơn và cũng sự phù phiếm với María Isabel.

Trong những năm đầu góa bụa, María Isabel vẫn còn trẻ, tràn đầy sức sống và tương đối xinh đẹp, dù tình trạng béo phì ngày càng gia tăng. Được bao quanh bởi những người ngưỡng mộ, Thái hậu có cảm tình với những cận thần đẹp trai và trẻ trung hơn mình. Theo tin đồn ở triều đình, María Isabel đã có người trong lòng. Hành vi của vương mẫu hậu khiến đức bà trở thành mục tiêu dễ dàng cho những lời phỉ báng và khiến Ferdinando II bực tức. María Isabel rất tốt với con dâu Maria Cristina của Sardegna, người đã kết hôn với Ferdinando II vào ngày 21 tháng 11 năm 1832. Tân hậu đã giúp cho quốc vương và vương hậu hàn gắn lại mối quan hệ.

Năm 1835, María Isabel bắt đầu mối quan hệ tình ái với Nam tước Peter von Schmuckher, một sĩ quan người Áo đã có gia đình. Mối quan hệ của họ rất sóng gió. Tuy nhiên, khi vợ của Schmuckher qua đời vào năm 1837, thái hậu đã có ý định kết hôn với Peter. Khi nam tước đầy tham vọng tuyên bố muốn hưởng kính xưng và đặc quyền của một Vương thân Điện hạ như một điều kiện để kết hôn với thái hậu, María Isabel đã từ chối và nhờ con trai xử lý tên người tình cũ. Ferdinando II đã trục xuất Schmuckher khỏi Napoli vào tháng 1 năm 1838.

Những năm sau này

Vào tháng 1 năm 1836, María Isabel trở thành mẹ đỡ đầu cho cháu trai Francesco, Công tước xứ Calabria . Vào tháng 3 cùng năm, Carlo Ferdinando, Thân vương xứ Capua có một cuộc hôn nhân bất đăng đối. María Isabel đã cầu xin cho đứa con trai yêu của mình, nhưng những nỗ lực của vương mẫu hậu để xin ân xá cho Carlo Ferdinando đều không có kết quả. Ferdinando II đã không tha thứ cho em trai mình: Carrlo Ferdinando phải sống lưu vong vĩnh viễn ở Anh, và María Isabel không bao giờ gặp lại con trai nữa.

Khi María Isabel quyết tâm tái hôn, con trai Ferdinando II đã đưa cho mẹ mình một danh sách tên các quý tộc trẻ của vương quốc để Thái hậu lựa chọn. Hai lựa chọn đầu tiên của María Isabel do dự và Vương mẫu hậu ấy đã rút lại lời cầu hôn của mình. Cuối cùng thì María Isabel đã chọn Francesco, Bá tước dal Balzo dei Duchi di Presenzano (1805–1882), một trung úy trẻ đẹp trai xuất thân từ một gia đình quý tộc cổ xưa nhưng nghèo khó. Cuộc hôn nhân của họ diễn ra một cách riêng tư vào ngày 15 tháng 1 năm 1839. Vương mẫu hậu lúc này đã 50 tuổi và chú rể được 34. Các cặp vợ chồng không có con với nhau. Hai vợ chồng từ giã triều đình Napoli và chuyển đến Cung điện Capodimonte.

Bi kịch ập đến với Thái hậu khi vào tháng 1 năm 1843, Antonio Pasquale, Bá tước xứ Lecce, con trai thứ tư của María Isabel bị giết. Con trai thứ năm của thái hậu, Luigi Carlo, Bá tước xứ Aquila, theo nghiệp hải quân. Vào tháng 7 năm 1843, vương tử đến Brasil khi Teresa Cristina, con gái út của María Isabel, kết hôn với Hoàng đế Pedro II của Brazil. Năm 1845, để giữ ngai vàng Tây Ban Nha trong tay Vương tộc Borbón, Louis-Philippe I của Pháp đã đưa ra ý tưởng về một cuộc hôn nhân giữa con trai út của María Isabel là Francesco di Paola, Bá tước xứ Trapani, người ban đầu được hướng đến đời sống thánh hiến, với Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha, cháu ngoại của María Isabel. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đã không thành hiện thực.

Trong cuộc khủng hoảng chính trị vào cuối năm 1847, con trai của María Isabel là Leopoldo Beniamino, Bá tước xứ Syracuse và em chồng là Leopoldo Giovanni, Thân vương xứ Salerno, đã vận động ủng hộ các cải cách tự do một cách vô ích. Do tính cách niềm nở và hào phóng đối với người nghèo, María Isabel vẫn là một nhân vật được yêu mến cho đến cuối đời. María Isabel qua đời vào ngày 13 tháng 9 năm 1848 ở tuổi 59.

Hậu duệ

phải|211x211px Francesco I và María Isabel rất hợp nhau và Francesco I đối xử tốt với vợ. Hai người có mười hai người con, sáu gái và sáu trai:

  • Luisa Carlotta (1804–1844), kết hôn với em trai của mẹ là Francisco de Paula của Tây Ban Nha.
  • Maria Cristina (1806–1878), kết hôn lần đầu với anh trai của mẹ là Fernando VII của Tây Ban Nha và trở thành nhiếp chính hậu của Tây Ban Nha; kết hôn lần thứ hai với Agustín Fernando Muñoz, người được phong là Công tước xứ Rianzares.
  • Ferdinando II (1810–1859), trở thành người kế vị Francesco I của Hai Sicilie và kết hôn hai lần.
  • Carlo Ferdinando, Thân vương xứ Capua (1811–1862), có kết hôn và có hậu duệ.
  • Leopoldo Beniamino, Bá tước xứ Syracuse (1813–1860), kết hôn với Maria Vittoria của Savoia-Carignano; có hậu duệ.
  • Maria Antonia (1814–1898), kết hôn với Leopoldo II xứ Toscana.
  • Antonio Pasquale, Bá tước xứ Lecce (1816–1843).
  • Maria Amalia (1818–1857), kết hôn với Sebastião của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
  • Maria Carolina (1820–1861), kết hôn với Carlos Luis của Tây Ban Nha, Bá tước xứ Montemolín, người đòi ngai vàng Tây Ban Nha của phe Carlist; không có hậu duệ.
  • Teresa Cristina (1822–1889), kết hôn với Hoàng đế Pedro II của Brasil; có hậu duệ.
  • Luigi Carlo, Bá tước xứ Aquila (1824–1897), kết hôn với Januária của Brasil (chị gái của Pedro II của Brazil và em gái của Maria II của Bồ Đào Nha); có hậu duệ.
  • Francesco di Paola, Bá tước xứ Trapani (1827–1892), kết hôn với Maria Isabella của Áo; có hậu duệ.

Gia phả

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
**Maria Cristina Isabel của Tây Ban Nha hay María Cristina Isabel de Borbón y Borbón-Dos Sicilias** (tiếng Tây Ban Nha: _Maria Cristina Isabel de España_; 5 tháng 6 năm 1833 – 19 tháng 1 năm
**María Cristina của Tây Ban Nha** (Madrid, 5 tháng 1 năm 1854 – Madrid, 8 tháng 1 năm 1854) là con gái của Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha và Phối vương Francisco
**María Teresa Isabel của Tây Ban Nha hay María Teresa Isabel de Borbón y Habsburgo-Lorena** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa Isabel Eugenia del Patrocinio Diega de España_; 12 tháng 11 năm 1882 tại Madrid,
**María Eulalia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 2 năm 1864 – 8 tháng 3 năm 1958), là con gái út và là người con cuối cùng sống qua tuổi ấu thơ của Isabel
**María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin** (tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de España_, tiếng Đức: _Maria Ludovica von Spanien_; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng
**María Isabel Francisca de Asís của Tây Ban Nha, Isabel của Tây Ban Nha hay Isabel de Borbón y Borbón** (; 20 tháng 12 năm 1851 – 22 tháng 4 năm 1931) là con gái
**Isabel Alfonsa của của Tây Ban Nha hay Isabel Alfonsa de Borbón-Dos Sicilias y Borbón**, (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Alfonsa de España_; tiếng Ý: I_sabella Alfonsa di Spagna_; tiếng Anh: _Isabel Alfonsa of Spain_;
**Amalia của Tây Ban Nha hay Amalia de Borbón y Borbón-Dos Sicilias** (tiếng Tây Ban Nha: _Amalia de España_; tiếng Đức: _Amalia von Spanien_; 12 tháng 10 năm 1834 – 27 tháng 8 năm 1905)
**Luisa Teresa của Tây Ban Nha** (tên đầy đủ: _Luisa Teresa María del Carmen Francisca of Asís de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 11 tháng 6 năm 1824 – 27 tháng 12 năm 1900) là con
**María del Pilar của Tây Ban Nha** (; 4 tháng 6 năm 1861 – 5 tháng 8 năm 1879) là người con thứ ba cũng như là con gái thứ hai sống qua tuổi ấu
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha hay María de las Mercedes de Borbón y Habsburgo-Lorena** (tiếng Tây Ban Nha: _María de las Mercedes de España_; 11 tháng 9 năm 1880 – 17 tháng
phải|nhỏ| Vương nữ María Teresa Isabel của Tây Ban Nha, mẹ của Vương tôn nữ María del Pilar của Bayern và Tây Ban Nha. **María del Pilar của Tây Ban Nha và Bayern hay María
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha và Bayern hay María de las Mercedes de Baviera y Borbón** (3 tháng 10 năm 1911 – 11 tháng 9 năm 1953) là một Vương nữ người
**Beatriz của Tây Ban Nha** hay **Beatriz de Borbón y Battenberg** (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: _Beatrice of Spain_; tiếng Scotland: _Beatrice o Spain_; tiếng Ý: _Beatrice di Borbone-Spagna_; tiếng Đức:
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**María de la Paz của Tây Ban Nha** (; 23 tháng 6 năm 1862 – 4 tháng 12 năm 1946) là một Vương nữ Tây Ban Nha, con gái của Isabel II của Tây Ban
**Maria Isabel của Bồ Đào Nha** (; tên đầy đủ: _Maria Isabel Francisca de Assis Antónia Carlota Joana Josefa Xavier de Paula Micaela Rafaela Isabel Gonzaga_; 19 tháng 5 năm 1797 – 26 tháng 12
**María Isabel của Tây Ban Nha, María Isabel của Orléans hay María Isabel de Orleans y Borbón** (tiếng Tây ban Nha: _María Isabel de Orleans y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Orléans_; 21 tháng 09 năm
**Francisco de Asís của Tây Ban Nha** (Francisco de Asís María Fernando de Borbón y Borbón-Dos Sicilias; 13 tháng 5 năm 1822 – 17 tháng 4 năm 1902), Công tước xứ Cádiz, là Vương quân
**Isabel Fernanda của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Ferdinanda de España_; tiếng Pháp: _Isabelle Ferdinande d'Espagne_; tiếng Anh: _Isabella Ferdinanda of Spain_; tên đầy đủ: _Isabel Fernandina Josefa María del Carmen Luisa
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Alfonso XII** (_Alfonso Francisco de Asís Fernando Pío Juan María de la Concepción Gregorio Pelayo_; 28 tháng 11 năm 1857 - 25 tháng 11 năm 1885) còn được gọi là **El Pacificador** (tiếng Tây Ban
**María de la Concepción Francisca de Asís của Tây Ban Nha** (Madrid, 26 tháng 12 năm 1859 - Madrid, 21 tháng 10 năm 1861), con gái của Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Blanca của Tây Ban Nha** hay **Blanca de Borbón** (7 tháng 9 năm 1868 – 25 tháng 10 năm 1949) là con cả của Carlos María của Tây Ban Nha, người đòi ngai vàng Tây
**Catalina Micaela của Tây Ban Nha, hay Catalina Micaela của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina Micaela de Austria_; tiếng Đức: _Katharina Michaela von Spanien_; 10 tháng 10 năm 1567 - 6 tháng 11 năm
**Amadeo I** (tiếng Ý: _Amedeo_, đôi khi được Latinh hóa thành _Amadeus_; tên đầy đủ: _Amedeo Ferdinando Maria di Savoia_; 30 tháng 5 năm 1845 – 18 tháng 1 năm 1890) là một vương tử
**Infante/Infanta của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Infante/Infanta de España) là một tước hiệu được ban cho các con của Quân chủ Tây Ban Nha cũng như cho con cái của người thừa
**Felipe II của Tây Ban Nha** (21 tháng 5, 1527 – 13 tháng 9, 1598), cũng gọi **Felipe Cẩn Trọng** (Felipe el Prudente), là vua Tây Ban Nha từ năm 1556 đến năm 1598, đồng
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
Đây là **danh sách ­­­­­vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
**Vương tộc Borbón**, hay **Borbón-Anjou**, là vương tộc hiện đang trị vì Tây Ban Nha, xuất phát từ Vương tộc Bourbon có nguồn gốc từ Pháp, khi Philippe của Pháp, Công tước xứ Anjou trở
**Maria Antonia của Napoli và Sicilia** hay **Maria Antonietta của Napoli và Sicilia** (14 tháng 12 năm 1784 – 21 tháng 5 năm 1806) là con gái của Ferdinando I của Hai Sicilie và Maria
**Isabel của Bồ Đào Nha **(tiếng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha: _Isabel de Portugal_; tiếng Anh: _Isabella of Portugal_; tiếng Đức: _Isabella von Portugal_; tiếng Pháp: _Isabelle de Portugal_; 24 tháng 10 năm
**Maria Carolina Ferdinanda của Hai Sicilie** (29 tháng 11 năm 1820 – 14 tháng 1 năm 1861) là Vương nữ Hai Sicilie, là con gái của Francesco I của Hai Sicilie và María Isabel của
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
Dom **Carlos I** (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [ˈkaɾluʃ]; tiếng Anh: _King Charles of Portugal_; 28 tháng 9 năm 1863 - 1 tháng 2 năm 1908), còn được gọi là **Nhà ngoại giao** (tiếng
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Hôn nhân cùng giới ở Tây Ban Nha** hợp pháp hóa từ ngày 3 tháng 7 năm 2005. Năm 2004, chính phủ của Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Tây Ban Nha vừa mới
**Quốc hội Tây Ban Nha** (, ) là cơ quan lập pháp lưỡng viện của Tây Ban Nha. Quốc hội gồm Đại hội Đại biểu và Thượng viện. Quốc hội có quyền làm luật và
**María Cristina của Tây Ban Nha, María Cristina của Orléans hay María Isabel de Orleans y Borbón** (tên đầy đủ: _María Cristina Francisca de Paula Antonieta_ ; 29 tháng 10 năm 1852 – 28 tháng
**María Amalia của Tây Ban Nha, María Amalia của Orléans hay María Amalia de Orleans y Borbón** (tên đầy đủ: María Amalia Luisa Enriqueta tháng 8 năm 1851 – 9 tháng 11 năm 1870) là
**Thượng viện Tây Ban Nha** là thượng viện của Quốc hội Tây Ban Nha. Thượng viện gồm 266 thượng nghị sĩ trong đó 208 được bầu theo phổ thông đầu phiếu và 58 được các
**Kiến trúc thuộc địa Tây Ban Nha chấn hưng** là một phong cách kiến trúc ở Hoa Kỳ nổi lên vào đầu thế kỷ 20 dựa theo kiến trúc thuộc địa Tây Ban Nha của
**Isabel của Parma** hay **Isabella xứ Parma** (tiếng Tây Ban Nha: Isabel María Luisa Antonieta Fernanda Josefa Javiera Doménica Juana; tiếng Ý: Isabella Maria Luisa Antonietta Ferdinanda Giuseppina Giuseppa Saveria Dominica Giovanna; 31 tháng 12
**João VI** hoặc **John VI** (tiếng Bồ Đào Nha: **João VI**; – ), biệt danh là "the Clement", là vua của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve từ năm 1816 đến năm
**Louise của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa de Orléans_; tên đẩy đủ: Louise Françoise Marie Laure của Orléans; 24 tháng 2 năm 1882 – 18 tháng 4 năm 1958) là