Blanca của Tây Ban Nha hay Blanca de Borbón (7 tháng 9 năm 1868 – 25 tháng 10 năm 1949) là con cả của Carlos María của Tây Ban Nha, người đòi ngai vàng Tây Ban Nha theo phái Carlos và Margherita xứ Parma. Blanca là thành viên của Vương tộc Borbón, và theo những người thuộc phái Carlos là Infanta của Tây Ban Nha khi sinh ra. Năm 1889, Blanca kết hôn với Đại vương công Leopold Salvator của Áo, Đại công tử xứ Toscana. Gia đình của Blanca rời khỏi Áo sau khi chế độ quân chủ sụp đổ và sau cùng định cư tại Barcelona. Khi dòng dõi nam của gia đình Blanca kết thúc sau cái chết của chú bà là Alfonso Carlos, Công tước xứ San Jaime, một số người theo phái Carlos đã công nhận Blanca là người thừa kế hợp pháp ngai vàng Tây Ban Nha.
Đầu đời
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Prinzessinnen_Luise,_Blanka_und_Maria_Luise.jpg|trái|nhỏ|295x295px|Blanca (ở giữa) cùng hai người em họ [[Luise của Áo|Luise (trái) và Maria Luisa (phải).]]
Blanca sinh ra tại Graz, Steiermark thuộc Đế quốc Áo-Hung, là con gái cả của Carlos María của Tây Ban Nha, người đòi ngai vàng Tây Ban Nha theo phái Carlos dưới tên Carlos VII, và vợ là Margherita xứ Parma. Vào thời điểm Blanca chào đời, cha mẹ bà đang sống tại Steiermark để được gần với cụ ngoại của bà là Công tước phu nhân xứ Berry. Don Carlos rời đi cùng ngày đến Paris, nơi ông nghe tin về cuộc cách mạng đã phế truất Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha. Hai mẹ con Blanca đến Paris sau đó và từ đây cả gia đình họ chuyển đến Thụy Sĩ.
Tuổi thơ của Blanca được ghi dấu bởi Chiến tranh Carlos lần thứ ba (1872–1876), trong đó cha bà đã cố gắng tuy không thành để giành lấy ngai vàng của Tây Ban Nha bằng vũ lực. Để ở gần biên giới Tây Ban Nha, Margherita cùng các con chuyển đến Pau. Trong một thời gian vào năm 1875, Blanca sống ở Elizondo, Navarra tại triều đình do cha bà thành lập. Sau khi cuộc chiến kết thúc tồi tệ, dập tắt hy vọng giành ngai vàng Tây Ban Nha của Don Carlos, gia đình Blanca chủ yếu sống tại quận Passy của Paris. Năm 1881, họ bị trục xuất khỏi Pháp do các hoạt động chính trị của Carlos. Vào thời điểm đó, cha mẹ của Blanca ly thân nhau. Carlos chuyển đến sống trong cung điện ở Venezia, trong khi Margherita nghỉ hưu tại Tenuata Reale, một điền trang nằm tại Viareggio, Ý được thừa kế vào năm 1879 từ cụ của Blanca là Maria Teresa xứ Parma. Blanca và các em của bà chia thời gian để dành cho cha mẹ. Năm 1881, Blanca và các em vào học tại Sacre Coeur, một ngôi trường Công giáo do các nữ tu điều hành ở Firenze. Blanca chơi đàn mandolin và rất thích ngựa. Năm 1883, sau khi hoàn thành việc học, bà đến Tây Ban Nha một cách bí mật với sự cho phép của cha mẹ. Khi trở về, Blanca chính thức được giới thiệu với triều đình tại Viên.
Hôn nhân
Tại triều đình Habsburg, Blanca, chị cả và là người đẹp nhất trong bốn chị em gái, đã thu hút sự chú ý của Đại vương công Leopold Salvator của Áo, người con thứ hai và là con trai cả của Đại vương công Karl Salvator của Áo và vợ là Maria Immacolata của Hai Sicilie. Hai người kết hôn vào ngày 24 tháng 10 năm 1889 tại Schloss Frohsdorf ở Lanzenkirchen, Hạ Áo. Cặp vợ chồng định cư tại Lemberg, Galicia, sau đó là Agram, Croatia và cuối cùng là Viên, sau khi Leopold Salvator được bổ nhiệm vào quân đội.
Nơi ở chính của Blanca và Leopold Salvator là Palais Toskana nằm tại thủ đô Viên. Hai vợ chồng cũng sở hữu Schloss Wilhelminenberg và một điền trang nông thôn gần Viareggio, nơi mà Blanca được thừa kế từ mẹ. Cuộc hôn nhân trở nên rất hạnh phúc và hai người có mười người con.
Cuối đời
Cho đến Thế chiến thứ nhất, Blanca và gia đình đông đúc của mình có một cuộc sống dễ chịu, giản dị, di chuyển theo mùa giữa các nơi cư trú khác nhau. Trong Thế chiến thứ nhất, Leopold Salvator đảm nhận việc cung cấp lương thực cho Quân đội Áo ở mặt trận và là tổng thanh tra Pháo binh cho đến năm 1918. Hai người con trai lớn nhất của Blanca cũng tham gia quân đội Áo chiến đấu ở mặt trận Ý, trong khi hai người con gái của bà là Immaculata và Margaretha làm việc cho Hội chữ thập đỏ Áo. Sau khi chiến tranh kết thúc và Áo tuyên bố thành lập nền cộng hòa, tài sản của Hoàng thất đã bị chính phủ mới của Áo tịch thu. Wilheminenberg được chuyển đổi thành một bệnh viện quân y và sau đó được bán cho một chủ ngân hàng người Thụy Sĩ. Với việc mất đi của cải, họ phải sống lưu vong với số tiền ít ỏi. Gia đình của Blanca không thể sống ở Pháp hay Ý, những quốc gia từng là kẻ thù của Áo trong chiến tranh.
Blanca buộc phải xin phép người em họ Alfonso XIII, người thuộc nhánh đối địch của Vương tộc Borbón, cho phép được sống tại Barcelona. Alfonso XIII cho phép họ đến Tây Ban Nha với điều kiện không được ủng hộ yêu sách ngai vàng Tây Ban Nha của em trai Blanca là Infante Jaime, Công tước xứ Madrid. Năm 1922, Blanca được công nhận là người Tây Ban Nha. Gia đình của bà trong cảnh lưu vong phải sống khiêm tốn trong một ngôi nhà tại Barcelona. Sự sụp đổ của Alfonso XIII và việc tuyên bố Đệ nhị Cộng hòa Tây Ban Nha vào tháng 4 năm 1931 không ảnh hưởng trực tiếp đến hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên vào năm tháng sau, chồng của Blanca qua đời trong chuyến đi đến Áo khi đang cố gắng thu hồi một số tài sản đã mất của hai vợ chồng. Blanca bị bỏ lại trong tình trạng kinh tế khó khăn, sống bằng những vườn nho tại La Tenuata Reale ở Viareggio và một khoản tiền thuê nhà nhỏ do đảng Carlos của Catalunya cung cấp. Ba người con của Blanca là Dolores, Margaretha và Karl vẫn sống với mẹ. Tình hình chính trị bất ổn ở Tây Ban Nha buộc họ phải trở về Áo.
Gia đình của Blanca thuê được ba căn phòng tại nơi ở cũ của họ là Palais Toskana, Viên. Vào tháng 3 năm 1938, Adolf Hitler sáp nhập nước Áo và Blanca cùng các con là Dolores và Karl buộc phải chuyển đến La Tenuta Reale tại Viareggio.
Carloctavismo
Vào đầu năm 1935, một nhánh thiểu số của phái Carlos được gọi là "Cruzadistas", sau này được gọi là Carloctavistas, đã tổ chức một cuộc họp lớn tại Zaragoza. Cuộc họp thông qua một tuyên bố rằng Doña Blanca có vị thế để truyền lại các quyền thừa kế quân chủ hợp pháp từ cha, vua Carlos VII theo phái Carlos, cho các con trai của bà. Trong 14 năm tiếp theo, lập trường của Blanca về vấn đề này liên tục thay đổi và chia thành bốn giai đoạn khác nhau;
- Vào năm 1935, khi chú của Blanca là Don Alfonso Carlos, khi đó là người đòi ngai vàng theo phái Carlos, nhanh chóng hủy bỏ cuộc họp tại Zaragoza, bà đã công khai tách mình ra khỏi nhóm
- Vào tháng 5 năm 1936, sau khi Don Alfonso Carlos quyết định giải quyết vấn đề kế vị bằng cách chỉ định một người họ hàng xa là Javier de Borbón-Parma, nhiếp chính tương lai, Blanca đưa ra một tuyên bố mới rằng sau cái chết của chú mình, bà sẽ chấp nhận quyền thừa kế để truyền lại cho con trai út của bà.
- Năm 1940, Blanca tuyên bố trung thành hoàn toàn với nhiếp chính Don Javier. Tuyên bố này không có nghĩa là Blanca từ bỏ rõ ràng các yêu sách kế vị, mà ngầm ám chỉ rằng chúng ít nhất đã bị đình chỉ hoặc bị đình chỉ theo cách khác.
- Vào tháng 5 năm 1943, Blanca quay trở lại lập trường từ năm 1936 và tuyên bố đầu tiên là thừa kế và sau đó truyền lại quyền thừa kế cho con trai út của mình. Khi Karl tuyên bố mình là người thừa kế hợp pháp của phái Carlos vào một tháng sau đó, Doña Blanca đã ủng hộ con trai cho đến khi bà qua đời.
Blanca qua đời vào ngày 25 tháng 10 năm 1949 tại Viareggio, Toscana, thọ 81 tuổi.
Con cái
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Infanta_Blanca_and_her_family.jpg|phải|nhỏ|310x310px|Blanca cùng chồng và mười người con. Từ trái sang phải: Assunta, Franz Josef, Immaculata, Maria Antonia, Rainier, Leopold Salvator, Dolores, Anton, Karl, Leopold, Margaretha và Blanca. Viên, 1915.
- Dolores của Áo (5 tháng 5 năm 1891 – 10 tháng 4 năm 1974)
- Immaculata của Áo (9 tháng 9 năm 1892 – 3 tháng 9 năm 1971), kết hôn năm 1932 với Nobile Igino Neri-Serneri
- Margaretha của Áo (8 tháng 5 năm 1894 – 21 tháng 1 năm 1986), kết hôn năm 1937 với Francesco Maria Taliani de Marchio
- Rainer của Áo (21 tháng 11 năm 1895 – 25 tháng 5 năm 1930)
- Leopold của Áo (30 tháng 1 năm 1897 – 14 tháng 3 năm 1958), kết hôn năm 1919–1931 với Nữ Nam tước Dagmar von Nicolics-Podrinski, kết hôn năm 1932 với Alicia Gibson Coburn
- Maria Antonia của Áo (13 tháng 7 năm 1899 – 22 tháng 10 năm 1977), kết hôn năm 1924 với Don Ramón de Orlando y Villalonga (mất năm 1936), kết hôn năm 1942 với Luis Perez Sucre
- Anton của Áo (20 tháng 3 năm 1901 – 22 tháng 10 năm 1987), kết hôn 1931–1954 với Ileana của România
- Assunta của Áo (10 tháng 8 năm 1902 – 24 tháng 1 năm 1993), kết hôn năm 1939–1950 với Joseph Hopfinger
- Franz Josef của Áo, Đại công tử xứ Toscana (4 tháng 2 năm 1905 – 9 tháng 5 năm 1975), kết hôn năm 1937–1938 với Maria Aloisa Baumer, kết hôn năm 1962 với Maria Elena Seunig
- Karl Pius của Áo, Đại công tử xứ Toscana (4 tháng 12 năm 1909 – 24 tháng 12 năm 1953), kết hôn 1938–1950 với Christa Satzger de Bálványos
Tổ tiên
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Blanca của Tây Ban Nha** hay **Blanca de Borbón** (7 tháng 9 năm 1868 – 25 tháng 10 năm 1949) là con cả của Carlos María của Tây Ban Nha, người đòi ngai vàng Tây
**Infante/Infanta của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Infante/Infanta de España) là một tước hiệu được ban cho các con của Quân chủ Tây Ban Nha cũng như cho con cái của người thừa
**Các lâu đài ở Tây Ban Nha** được xây dựng với mục đích phòng thủ. Trong suốt thời kì Trung Cổ, các vương quốc Kitô phía bắc tranh chấp biên giới lãnh thổ với các
**Toledo** ( (); ; , , DIN: __) nằm ở giữa Tây Ban Nha , 70 km về phía nam của Madrid bên bờ sông Tagus. Nó là tỉnh lỵ của tỉnh Toledo, cũng như
**Costa Blanca** (, , nghĩa là "Bờ Biển Trắng") đề cập đến hơn đường bờ biển Địa Trung Hải ở tỉnh Alicante của Tây Ban Nha. Nó mô tả các bờ biển trên bờ biển
phải|nhỏ|Khu vực gần đúng của tiếng Tây Ban Nha Rioplata với các biến thể Patagonia. **Tiếng Tây Ban Nha Rioplata** hay còn gọi là **tiếng Castila Rioplata** là một phương ngữ tiếng Tây Ban Nha
**Sevilla** là thành phố nằm ở phía nam Tây Ban Nha, là thành phố lớn nhất và thủ phủ của vùng Andalucía và tỉnh Sevilla, nằm ở hạ lưu sông Guadalquivir, nơi có cảng cho
thumb|Cảnh nhìn từ phía bắc, từ trái sang phải: Nhà thờ con Condastable, tháp bát giác và 2 chóp Flamboyant phía tây **Nhà thờ chính tòa Burgos** () là một nhà thờ Công giáo ở
**Bahía Blanca** là một thành phố nằm trong tỉnh Buenos Aires của Argentina. Thành phố Bahía Blanca có diện tích km², dân số theo ước tính năm 2009 là 304.000 người. Đây là thành phố
**Blanca của Castilla** (, , ; 4 tháng 3 năm 1188 - 27 tháng 11 năm 1252) là Vương hậu Pháp với tư cách là người vợ duy nhất của Nhà vua Louis VIII. Bà
**Isaac Manuel Francisco Albéniz i Pascual** (29 tháng 5 năm 1860 - 18 tháng 5 năm 1909) là nghệ sĩ chơi piano người Tây Ban Nha đồng thời là nhà soạn nhạc nổi tiếng với
**Alacante** (**Alicante** trong tiếng Tây Ban Nha, tiếng Valencia: Alacant) là một thành phố ở Tây Ban Nha, thủ phủ của tỉnh Alicante và của comarca Alacantí, ở phía nam cộng đồng Valencia. Đây cũng
**Fabiola, Vương hậu Bỉ** (**Fabiola de Mora y Aragón**; 11 tháng 6 năm 1928 – 5 tháng 12 năm 2014) là vợ của Vua Baudouin của Bỉ. Bà là Hoàng hậu Bỉ từ năm 1960
**Vương tôn nữ Isabella của Bayern** (Maria Isabella Luise Amalia Elvira Blanca Eleonora ; 31 tháng 8 năm 1863 – 26 tháng 2 năm 1924) là một trong năm người con của Vương tử Adalbert
**Blanca María Rodríguez de Pérez** (1 tháng 1 năm 1926 – 5 tháng 8 năm 2020) là Đệ nhất phu nhân Venezuela trong hai nhiệm kỳ, từ năm 1974 đến 1979 và từ năm 1989
nhỏ **Paloma Blanca** (bồ câu trắng) là tên một ca khúc của nhạc sĩ Hà Lan là **George Baker**, lấy theo tiếng Tây Ban Nha, đã thành công vang dội khắp châu Âu, châu Mỹ,
**Codellera Blanca** (tiếng Tây Ban Nha là "Dãy núi Trắng") là một dãy núi ở khu vực Ancash của Peru. Nó trải dài từ 8°08' và 9°58'B và 77°00' đến 77°52'T. Nó chứa 722 sông
**Pilar López de Ayala** tên đầy đủ là **Pilar López de Ayala y Arroyo**, sinh ngày 18.9.1978 tại Madrid, là một nữ diễn viên điện ảnh Tây Ban Nha. Cô đã đoạt giải Goya cho
**Sergio Ramos García** (; sinh ngày 30 tháng 3 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc
**Eduardo Jesús De Maria Vargas Rojas** (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [eˈðwarðo ˈβarɣas]; sinh ngày 20 tháng 11 năm 1989) thường được gọi là **Eduardo Vargas**, là một cầu thủ bóng đá người Chile
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
**Sergio Leonel Agüero del Castillo** (sinh ngày 2 tháng 6 năm 1988), hay còn được gọi là **Kun Agüero**, là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina từng thi đấu ở vị
**Núi Teide** (, , "đỉnh Teide") là một núi lửa trên đảo Tenerife của quần đảo Canaria, Tây Ban Nha. Với độ cao 3.718 mét, đỉnh núi là điểm cao nhất Tây Ban Nha và
**_Giấc mơ Lọ Lem_** (tựa gốc tiếng Tây Ban Nha: **_Lola... Érase una vez_**) là một bộ phim truyền hình dành cho thanh thiếu niên của México được hãng Televisa sản xuất. Phim kể về
**Mercedes Sampietro**, tên khai sinh là **Mercedes Sampietro Marro**, sinh ngày 24.1.1947 tại Barcelona, là một nữ diễn viên Tây Ban Nha. Bà bắt đầu sự nghiệp diễn xuất trên sân khấu từ năm 1979,
| leader_name = | area_land_km2 = 38.51 | area_water_km2 = | population_as_of = | population_blank1_title = Thứ tự ở Tây Ban Nha | population_blank1 = | population_footnotes = | population_total = | population_density_km2 =
**Margarita Xirgu**, tên khác **Margarida Xirgu** (18 tháng 6 năm 1888, Molins de Rei, Catalunya, Tây Ban Nha – 25 tháng 4 năm 1969, Montevideo, Uruguay), là một nữ diễn viên sân khấu Tây Ban
**Emma Suárez** sinh ngày 25.6.1964 tại Madrid, là một nữ diễn viên điện ảnh Tây Ban Nha đã đoạt giải Goya cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. ## Tiểu sử Suárez bắt đầu
**Sân bay Murcia-San Javier** là một sân bay hỗn hợp dân dụng và quân sự ở San Javier, 17 dặm Anh về phía nam Murcia. Đơn vị vận hành là Aena (_Aeropuertos Españoles y Navegación
Bản đồ đô thị của tỉnh Đây là danh sách các đô thị ở tỉnh và cộng đồng tự trị Murcia, Tây Ban Nha. {| class="wikitable sortable"
**Tên** | **Dân số (2007)** |
Abanilla | 6.568 |
Abarán | 12.968 |
"**Noble patria, tu hermosa bandera**" (tiếng Việt: Hỡi Tổ quốc vinh quang với ngọn cờ xinh đẹp của Người) là quốc ca của Costa Rica. Bài hát được phổ nhạc bởi Manuel María Gutiérrez Flores,
**Blanca II của Navarra** (tiếng Basque: _Zuria II.a Nafarroakoa_; tiếng Tây Ban Nha: _Blanca II de Navarra_; tiếng Anh: _Blanche II de Navarre_; 9 tháng 6 năm 1424 – 2 tháng 12 năm 1464), là
**Leonor I của Navarra** (tiếng Basque: _Leonor I.a Nafarroakoa_; tiếng Tây Ban Nha: _Leonor I de Navarra_; 2 tháng 2 năm 1426 – 12 tháng 2 năm 1479), là Nữ vương Navarra và Bá tước
**Ubre Blanca** (1972–1985) là một con bò ở Cuba nổi tiếng với khả năng sản xuất sữa phi thường. Con bò này, cùng với các đồn điền cà phê "Cordón de La Habana", hệ thống
nhỏ|phải|Vương cung thánh đường Saint-Denis **Vương cung Thánh đường Thánh Denis** (tiếng Pháp: _basilique Saint-Denis_ hay _cathédrale Saint-Denis_) là một nhà thờ chính tòa Công giáo, và trước đây là một đan viện dòng Biển
**Blanca Vischer** (5 tháng 1 năm 1915 - 24 tháng 11 năm 1969) là một nữ diễn viên điện ảnh người Guatemala đã chuyển đến Hoa Kỳ nơi cô thực hiện hầu hết các bộ
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua
**Chuan II của Aragón** (tiếng Tây Ban Nha: _Juan II de Aragón_, tiếng Catalunya: _Joan II d'Aragó_, tiếng Aragon: _Chuan II d'Aragón_ và . tiếng Sicilia: _Giuvanni II di Aragona_; 29 tháng 6 năm 1398
**Nhà thờ Đức Bà Chartres** (tiếng Pháp: _Cathédrale Notre-Dame de Chartres_) là một nhà thờ chính tòa ở thành phố Chartres, tỉnh lỵ của tỉnh Eure-et-Loir, nằm cách Paris 80 km về phía Tây Nam.
**Carlos III của Navarra** (tiếng Basque: _Karlos III.a Nafarroakoa_; tiếng Tây Ban Nha: _Carlos III de Navarra_; tiếng Pháp: _Charles III de Navarre_ 1361 - 8 tháng 9 năm 1425), còn được gọi là **Carlos
**Thibaut I của Navarra** (, ; 30 tháng 5, 1201 - 8 tháng 7, 1253), còn được gọi là **Thibaut IV xứ Champagne** (), **Thibaut Thi nhân** ( hay **Thibaut Di tử** (), là Bá
nhỏ|221x221px|Quốc huy được vương quốc Navarra sử dụng từ năm 1212. Dưới đây là **danh sách vua và nữ vương của vương quốc Pamplona**, sau là **vương quốc Navarra**. Vương quốc Pamplona tồn tại với
**Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023** (tiếng Anh: _2023 FIBA Basketball World Cup_, tiếng Nhật: FIBAバスケットボールワールドカップ2023, tiếng Indonesia: _Piala Dunia Bola Basket FIBA 2023_) là giải đấu thứ 19 của Giải vô địch
thumb|right|Con tàu _Beagle_ neo đậu tại [[Tierra del Fuego vào năm 1832; tác phẩm của phác họa gia Conrad Martens.]] **Hành trình thứ hai của tàu HMS _Beagle**_ (ngày 27 tháng 12 năm 1831 -
**Philippe II Auguste** (21 tháng 8 năm 1165 - 14 tháng 7 năm 1223) là vua Pháp từ năm 1180 đến khi băng hà. Là một thành viên của nhà Capet, Philippe Auguste sinh ra
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 8 tháng 1: Vua Bảo Đại chính thức kế vị * 11 tháng 1: Trương Tác Lâm tuyên bố 3 tỉnh đông bắc Trung Quốc độc lập
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn
"**Around the World**" là một bài hát của bộ đôi nhạc điện tử người Pháp Daft Punk, được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ ba trong album phòng thu đầu tay của họ, _Homework_
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
**Isabelle của Pháp** (tháng 3 năm 1225 - 23 tháng 2 năm 1270) là con gái của vua Louis VIII của Pháp và Blanca của Castilla. Cô là em gái của Vua Louis IX của