✨Danh sách quân chủ Navarra

Danh sách quân chủ Navarra

nhỏ|221x221px|Quốc huy được vương quốc Navarra sử dụng từ năm 1212. Dưới đây là danh sách vua và nữ vương của vương quốc Pamplona, sau là vương quốc Navarra. Vương quốc Pamplona tồn tại với tư cách là một vương quốc độc lập ở miền Bắc bán đảo Iberia cho đến khi tiến hành thiết lập liên minh với vương quốc Aragón kế cận (1076–1134). Tuy vậy, cái tên Pamplona vẫn được tiếp tục sử dụng với tư cách là tên gọi chính thức của vương quốc cho đến cuối thế kỷ thứ 12, mặc dù tên gọi vương quốc Navarra cũng được sử dụng từ sau thế kỷ thứ 10.

Nhà Íñiguez (824? – 905)

Nhà Íñiguez thành lập nên vương quốc Pamplona vào khoảng năm 824 nhằm chống lại bất kỳ nỗ lực nào nhằm gia tăng ảnh hưởng của người Frank ở miền Bắc Iberia khi đó. Các nguồn sử liệu của người Cordoba cho rằng vương quốc chỉ là một thuộc quốc thường xuyên nổi loạn của Hồi quốc, nhiều hơn việc nghĩ đến chuyện vương quốc với tư cách là một nền quân chủ Công giáo nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Vương triều tồn tại được đến năm 905, khi liên minh chống Cordoba thành công trong việc thay thế gia tộc đang cầm quyền vương quốc bằng nhà Jiménez.

Nhà Jiménez (905 – 1234)

Năm 905, một liên minh của các nhà nước kế cận đánh bại và buộc Fortún Garcés thoái vị để về sống tại tu viện. Vương triều cũ cũng chấm dứt, nhường chỗ cho một gia tộc mới cai trị vương quốc. Danh xưng Navarra cũng bắt đầu được sử dụng cho vương quốc mới này thay cho tên gọi đang tồn tại lúc bấy giờ là Pamplona.

Sau khi Sancho IV xứ Navarra bị ám sát vào năm 1076, lãnh thổ Navarra bị chia cắt bởi hai người chú họ của ông này là Alfonso VI xứ Castilla và Sancho Ramírez xứ Aragon. Hai người sau này trở thành vua, mở đầu thời kỳ hơn nửa thế kỷ vùng đất là thuộc quốc của Aragon.

Cái chết của Alfonso I xứ Aragon mà không có có con hay người chỉ định nối dõi gây ra một cuộc khủng hoảng kế vị trên toàn xứ Aragon. Lợi dụng điều này, giới quý tộc xứ Navarra khôi phục lại nền độc lập của vương quốc bằng việc đưa cháu trai (của một người anh trai không hợp pháp) của Sancho IV lên ngôi vua.

Nhà Champagne (1234 – 1284)

Sau cái chết của Sancho VII, vị vua nhà Jiménez cuối cùng cai trị Navarra, ngai vàng của vương quốc được trao cho con của Blanca Sánchez xứ Navarra, lúc này đang là bá tước phu nhân xứ Champagne. Bà từ đây bắt đầu quá trình nhiếp chính trên phần lớn thời kỳ cai trị của em trai tại các vùng đất Champagne và Navarra.

Vương triều Capet (1284 – 1441)

Nhà Capet (1284 – 1349)

Cái chết bất ngờ của Enrique I buộc Juana I xứ Navarra phải lên thừa kế ngai vàng. Mẹ của Juana là Blanche xứ Artois theo đó tiến hành nhiếp chính trong khoảng thời gian 10 năm tiếp theo. Năm 1384, Juana cưới vua Pháp là Philippe IV, kết thúc quá trình nhiếp chính mà mẹ của Juana đã tiến hành. Philippe thừa kế ngai vàng Pháp vào năm sau và theo đó lên ngôi với danh hiệu "Vua của Pháp và xứ Navarra"

Nhà Évreux (1328 – 1441)

Sau cái chết của Loius cùng đứa con trai Jean, các em trai của ông là Philippe và Charles thay nhau cai trị nước Pháp đến khi mất. Sau đó, ngai vàng nước Pháp được trao cho Philippe xứ Valouis, một người họ hàng xa không cùng chung huyết thống với những đứa con của Joan I, ngai vàng xứ Navarra được trao cho Joan II (Tiếng Tây Ban Nha: Juana), con gái duy nhất còn sống của Charles IV Công bằng. Bà nhiếp chính cùng chồng cho đến lúc chồng mất năm 1343 rồi từ đó tự mình nhiếp chính đến lúc bà mất năm 1349.

Xem thêm: Nhà Évreux

Nhà Trastámara (1425 – 1479)

Blanche II cai trị cùng chồng là Juan, lúc này đang là công tước xứ Montblach. Năm 1458, Juan thừa kế ngôi vương từ người anh trai Alifonso V của mình; ngai vàng Navarra lúc đó được trao cho Leonor, đứa con gái duy nhất của ông với Blanca khi đó; trong khi ngai vàng xứ Aragon được trao cho Ferrando II của Aragón, con trai của Juan và người vợ thứ hai là Juana Enríquez.

Tuyên bố ngai vàng

Sau cái chết của Blanca I, Juan giữ ngai vàng cho riêng mình cho đến khi ông mất vào 38 năm sau đó, giữ ngai vàng không rơi vào tay của Carlos IV và Blanca II là hai con của ông. Xung đột lợi ích sau đó dẫn đến cuộc nội chiến Navarra. Một vài nguồn dẫn hai đứa con nói trên của Juan là những người cai trị hợp pháp của vương quốc; Juan tuy vậy vẫn giữ ngôi vương trên thực tế cho đến khi ông chết và Leonor lên kế vị. Trước khi ông chết, Leonor cũng không tham gia vào quá trình tranh đoạt ngôi báu trước khi cha của bà mất.

Nhà Foix (1479 – 1517)

Leonor, người liên minh cùng vua cha chống lại hai người anh chị em của chính cha mình, chỉ sống được lâu hơn cha có 3 tuần lễ. Lúc này thì bà vẫn còn là một góa phụ của Gaston IV, Bá tước xứ Foix, và con trai lớn nhất của họ là Gaston xứ Foix, Vương tử xứ Viana cũng không còn sống nữa. Đo đó, cháu trai Francis của Leonor kế thừa ngôi vương xứ Navarra.

Nhà Albret (1484 – 1516)

Catherine cai trị cùng người chồng John của mình cai trị cùng nhau cho đến khi chồng chết. Sau đó, bà tự mình cai trị được thêm 8 tháng nữa sau thì bà cũng mất luôn. Trong thời kỳ cai trị của mình, vương quốc Navarra bị Fernando II xứ Aragon đánh bại, buộc phải để mất vùng lãnh thổ phía Nam dãy Pyrenees, kể cả thủ đô Pamplona. Fernando sau đó đăng quang ngai vàng xứ Navarra, và đưa danh hiệu "Vua xứ Navarra" vào trong triều đại của mình và những vị vua kế cận (cả xứ Aragon lẫn Tây Ban Nha sau này). Catalina cùng Juan cai trị phần Hạ Navarra, một phần nhỏ lãnh thổ phía Bắc dãy Pyrenees của vương quốc Navarra mà về sau bị người Pháp sát nhập.

Nhà Trastámara (1512 – 1516)

Vương quốc bị phân chia

Hạ Navarra

Năm 1530, Carlos IV quyết định từ bỏ mọi yêu sách đối với vùng phía Bắc vương quốc Navarra vì không thể bình định được vùng và cũng vì Enrique II vẫn đang cai trị tốt vùng đất này. Tuy vậy, ông (Charles V) và mẹ là Juana III vẫn tiếp tục cai trị vùng Thượng Navarra

Catalina và Juan III tiếp tục cai trị phần lãnh thổ vương quốc phía Bắc dãy Pyreness, sau thì vùng đất sát nhập với nước Pháp.

Nhà Albert (1517 – 1572)

Nhà Bourbon (1572 – 1620)

Juana III cai trị cùng chồng là Antoine đến khi chồng mất thì tự mình cai trị và mất không lâu sau đó. Người con trai Enrique của họ trở thành vua của Pháp năm 1589, khi chiến sự trong chiến tranh tôn giáo Pháp dần đi đến hồi kết. Sau đó, ngôi vua xứ Navarra được thêm vào danh xưng của các vị vua Pháp. Năm 1620, Pháp sát nhập toàn bộ vùng Hạ Navarra, tuy vậy, các vị vua Pháp vẫn giữ danh xưng Vua của Navarra cho đến tận cách mạng Pháp và sau đó là thời kỳ Phục Hoàng Bourbon.

Vua trên danh nghĩa xứ Navarra (1620 – 1830)

Phục hoàng (1814 – 1815, 1815 – 1830)

Thượng Navarra

Nhà Trastámara (1516 – 1555)

Nhà Áo (1516 – 1700)

Nhà Borbón (1700 – 1833)

Nhiếp chính

Những người yêu sách hiện tại

Tập tin:Louis Alphonse de Bourbon et la princesse Marie-Marguerite (1) (cropped).jpg|Louis Alphonse, Công tước xứ Anjou, người đòi ngai vàng phe _Légitimistes_ của vương quốc Pháp và Navarra. Yêu sách ngai vàng xứ Navarra được ông đưa ra với lý do là sự hợp nhất ngai vàng Pháp và xứ Navarra dưới thời Louis XIII, bỏ qua những người phụ nữ được quyền nối ngôi. Tập tin:Jean d'Orléans, Duc de Vendôme.jpg|Jean, Công tước Paris, người đòi yêu sách ngai vàng của Pháp và xứ Navarra của phe Orléaniste. Yêu sách ngai vàng xứ Navarra được ông đưa ra cũng với lý do là sự hợp nhất ngai vàng Pháp và xứ Navarra dưới thời Louis XIII, bỏ qua những người phụ nữ được quyền nối ngôi. Tập tin:2019-05-30 Felipe VI of Spain-5976 (cropped).jpg|Felipe VI của Tây Ban Nha, người sử dụng danh xưng ‘Vua xứ Navarra’ trong danh xưng tước hiệu theo sau của mình, thừa hưởng tước hiệu từ các vị quân chủ Tây Ban Nha trước đó (xứ Castilla và Aragon), đồng thời cũng dựa trên việc chinh phục được phần lớn vương quốc Navarra cũ bởi Fernando II xứ Aragon. Tập tin:Sixtehenribp.JPG|Sixte Henry nhà Bourbon-Parma tuyên bố danh xưng ‘Vua xứ Navarra’ như là danh xưng hoàng gia Tây Ban Nha dựa trên việc chinh phục vương quốc Navarra cũ của Fernando II xứ Aragon. Ông khẳng định mình là người kế vị hợp pháp dựa trên bộ luật truyền thống của Hoàng gia Công giáo ở Tây Ban Nha của Carlos María Isidro. Tập tin:D. Pedro de Borbón Dos Sicilias y Orleans. Duque de Calabria.jpg|Vương tử Pedro, Công tước xứ Calabria, hiện đang là người thừa kế của vương quốc Navarra dựa trên luật riêng của vương quốc cho phép phụ nữ có quyền được nối ngôi, không như luật Salic của Pháp.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Chế độ quân chủ tại Vương quốc Anh bắt đầu từ Alfred Vĩ đại với danh hiệu _Vua của Anglo-Saxons_ và kết thúc bởi Nữ vương Anne, người đã trở thành Nữ vương Vương quốc
nhỏ|221x221px|Quốc huy được vương quốc Navarra sử dụng từ năm 1212. Dưới đây là **danh sách vua và nữ vương của vương quốc Pamplona**, sau là **vương quốc Navarra**. Vương quốc Pamplona tồn tại với
**Các quốc vương và hoàng đế của Pháp** là danh xưng để chỉ các nhà cai trị với tư cách là quân chủ của lãnh thổ Pháp, bắt đầu trị vì từ thời Trung Cổ
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
Đây là **danh sách ­­­­­vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
nhỏ|Vương gia huy của Vương quyền Aragón.Dưới đây là danh sách các quân vương của vương quốc Aragón. Vương quốc Aragón được hình thành trong khoảng thời gian giữa các năm 950 và 1035, khi
Đây là danh sách những người Tây Ban Nha đồng tính nữ, đồng tính nam và song tính và chuyển giới (LGBT) đã từng phục vụ trong Cortes Generales của Tây Ban Nha, chính phủ
Nhiều vấn đề **Vương quốc Navarra** (tiếng Tây Ban Nha: _Reino de Navarra_, tiếng Basque: _Nafarroako Erresuma_, tiếng Pháp: _Royaume de Navarre_), ban đầu được gọi là **Vương quốc Pamplona**, là một vương quốc ở
Vương quốc **in đậm** là vương quốc chứa nhiều các vương quốc nhỏ. ## Châu Phi * Ai Cập cổ đại - (3150 TCN - 30 TCN) * Vương quốc Kerma - (2500 TCN -
**Felipe III** (, , ; 27 tháng 3 năm 1306 – 16 tháng 9 năm 1343), là một vị vua của vương quốc Navarra từ năm 1328 cho đến khi ông qua đời. Felipe sinh
thumb|[[Eugenia xứ Montijo, Hoàng hậu của Đế quốc Pháp. Một trong ba vị _"Hoàng hậu"_ trong lịch sử Pháp, và cũng là người cuối cùng.]] right|thumb|[[Maria Antonia của Áo, Vương hậu của Quốc vương Louis
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
**Richard I** (8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Quốc vương nước Anh từ 6 tháng 7 năm 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy,
**Isabelle của Pháp, cũng là Isabel của Navarra** ( hay _Isabelle de Navarre_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_ hay _Isabel de Navarra_; ; 1295 - 22 tháng 8, 1385), có biệt danh là
**Thibaut I của Navarra** (, ; 30 tháng 5, 1201 - 8 tháng 7, 1253), còn được gọi là **Thibaut IV xứ Champagne** (), **Thibaut Thi nhân** ( hay **Thibaut Di tử** (), là Bá
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Juana II của Navarra** (; tiếng Basque: Joana II.a Nafarroakoa; ; 28 tháng 1 năm 1312 - 6 tháng 10 năm 1349) là nữ vương của Navarra từ năm 1328 cho đến khi bà qua
**Edward II của Anh** (25 tháng 4, 1284 – 21 tháng 9, 1327), còn gọi là **Edward xứ Caernarfon**, là Vua của Anh từ 1307 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 1 năm
**Tây Ban Nha thời Franco** () hoặc **Chế độ độc tài Francisco Franco** (), chính thức được gọi là **Quốc gia Tây Ban Nha** (), là thời kỳ lịch sử Tây Ban Nha từ năm
**Karl VI của Thánh chế La Mã** (; 1 tháng 10 năm 1685 – 20 tháng 10 năm 1740) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 1711 đến 1740. Ông đã kế thừa ngai
**Philippe IV** (Tháng 4 / tháng 6 năm 1268 – 29 tháng 11 năm 1314), được gọi là **Philippe Đẹp Trai** (), là một vị Vua Pháp từ 1285 đến khi qua đời (là vị
**Philippe V của Pháp** (; khoảng 1292/93 - 3 tháng 1 năm 1322), hay **Felipe II của Navarra** (), biệt danh là **Philippe Cao kều** (), là vua Pháp và Navarra, đồng thời cũng là
**Louis XIII** (27 tháng 9 1601—14 tháng 5 1643) là một vị vua thuộc vương triều Bourbon với tước hiệu là Vua của Pháp từ 1610 đến 1643 và Vua của Navarra (với danh xưng
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Henri xứ Bourbon** (; 13 tháng 12 năm 1553 – 14 tháng 5 năm 1610), cũng gọi là **Henri IV của Pháp** () hoặc **Enrique III của Navarra** (), là Vua nước Pháp từ năm
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Isabel I của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: Isabel I de Castilla; tiếng Bồ Đào Nha: _Isabel I de Castela_; tiếng Anh: _Isabella of Castile_; tiếng Đức: _Isabella I. von Kastilien_; tiếng Pháp: _Isabelle Ire
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
Sinh khoảng năm [[1450, Cristoforo Colombo được thể hiện trong bức chân dung do Alejo Fernándõ vẽ giai đoạn 1505–1536. Ảnh chụp của nhà sử học Manuel Rosa]] **Cristoforo Colombo** (tiếng Tây Ban Nha: _Cristóbal
**Richard II** (6 tháng 1, 1367 – c. 14 tháng 2, 1400), còn được gọi là **Richard xứ Bordeaux**, là Vua của Anh từ 1377 đến khi bị lật đổ ngày 30 tháng 9 năm
**Chiến tranh Trăm Năm** là cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp kéo dài từ năm 1337 đến năm 1453 nhằm giành giật lãnh thổ và ngôi vua Pháp. Hai phe chính tham gia vào
**Quốc hội Tây Ban Nha** (, ) là cơ quan lập pháp lưỡng viện của Tây Ban Nha. Quốc hội gồm Đại hội Đại biểu và Thượng viện. Quốc hội có quyền làm luật và
**Maria Karolina Zofia Felicja Leszczyńska của Ba Lan** (; 23 tháng 6 năm 1703 – 24 tháng 6 năm 1768), còn được gọi là **Marie Leczinska** (), là Vương hậu Pháp sau khi kết
**Louis XVIII** (Louis Stanislas Xavier; 17 tháng 11 năm 1755 - 16 tháng 9 năm 1824), có biệt danh là "le Désiré", là vua của Vương quốc Pháp từ năm 1814 đến năm 1824, bị
**Leonor của Tây Ban Nha, Nữ Thân vương xứ Asturias** (tên đầy đủ: **Leonor de Todos los Santos de Borbón y Ortiz**; sinh ngày 31 tháng 10 năm 2005) là con trưởng của Quốc vương
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Philippe III** (1 tháng 5 năm 1245 – 5 tháng 10 năm 1285), còn được biết tới với biệt danh là **Táo bạo** (), là Vua của Pháp từ năm 1270 cho đến khi
**Leonor của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Leonor de Castilla_; tiếng Anh: _Eleanor of Castilla_; năm 1241 – 28 tháng 11 năm 1290) là Vương hậu nước Anh từ năm 1272 đến năm 1290, và
**Louis X của Pháp** (; tháng 10 năm 1289 – 5 tháng 6 năm 1316), hay **Luis I của Navarra** (), còn có biệt danh là **le Hutin** (_Kẻ cứng đầu_), là vua Navarra từ
**Philippe VI của Pháp** (tiếng Pháp: Philippe; 1293 - 22 tháng 8 năm 1350), được gọi là _Fortunate_ (tiếng Pháp: _le Fortuné_) là bá tước của Valois, là vị vua đầu tiên của Pháp từ
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn
**Charles IX** (**Charles Maximilien**; 27 tháng 6 năm 1550 – 30 tháng 5 năm 1574) là Vua của Pháp từ năm 1560 cho đến khi qua đời vào năm 1574. Ông lên ngôi Pháp sau
**Vương tộc Lancaster** (tiếng Anh: _House of Lancaster_; tiếng Pháp: _Maison de Lancastre_) là một nhánh của Vương tộc Plantagenet (giữ ngai vàng của Anh gần 3,5 thế kỷ, từ năm 1154 đến năm 1485).
**Urraca I của León** (tiếng Tây Ban Nha: _Urraca I de León_; tiếng Anh: _Urraca of León_; Tiếng Pháp: _Urraque Ire de León_; Tiếng Bồ Đào Nha: _Urraca I de Leão e Castela_; Tiếng Catalunya:
**Quốc gia cấu thành** là một thuật ngữ đôi khi được sử dụng trong những bối cảnh mà quốc gia đó là một phần của một thực thể chính trị lớn hơn, như là quốc