✨Isabel I của Castilla

Isabel I của Castilla

Isabel I của Castilla (tiếng Tây Ban Nha: Isabel I de Castilla; tiếng Bồ Đào Nha: Isabel I de Castela; tiếng Anh: Isabella of Castile; tiếng Đức: Isabella I. von Kastilien; tiếng Pháp: Isabelle Ire de Castille**; 22 tháng 4 năm 1451 — 26 tháng 11 năm 1504), hay còn được gọi là Isabel la Católica (Isabel Công giáo)**, là Nữ vương của Vương quốc Castilla và León và là một trong những quân chủ vĩ đại nhất của lịch sử Tây Ban Nha. Cùng với chồng, Ferrando II của Aragón, bà đã có công trong việc mang lại sự ổn định cho các vương quốc này, làm cơ sở cho việc thống nhất Tây Ban Nha bởi người cháu ngoại của hai người là Hoàng đế Karl V của Thánh chế La Mã.

Sau khi giành được quyền kế vị, bà đã cải tổ lại bộ máy hành chính của Castilla, đem tỉ lệ tệ nạn xuống mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Bà cũng cố gắng xoay trở xóa đi số nợ quốc gia khổng lồ mà người anh của bà, Enrique IV của Castilla, đã để lại khi qua đời. Sự cải cách của bà cùng chồng mình, Ferrando II xứ Aragón, đã giúp sự liên minh giữa Castilla và Aragón thêm lớn mạnh, mở rộng thêm tầm ảnh hưởng ra bên ngoài. Bà cùng chồng mình được biết đến nhiều vì công cuộc khép tội những người Do Thái và người Hồi giáo trên liên bang 2 vương quốc, buộc tội họ trước Tòa án dị giáo hoặc là phải cải đạo Cơ-đốc, hoặc là bị trục xuất khỏi vùng đất này. Trong chuyến hành trình đi tìm Tân thế giới của Cristoforo Colombo năm 1492, sự kiện này mở đầu căn bản biến Tây Ban Nha trở thành một cường quốc có ảnh hưởng toàn cầu và đến toàn bộ Châu Âu trong suốt hơn 1 thế kỷ. Trong một số trường hợp, bà thậm chí còn có quyền lực hơn cả chồng mình, và thường được xem là một trong những người phụ nữ quyền lực nhất trong lịch sử Châu Âu.

Vì những chiến công bảo vệ Công giáo trước Hồi giáo, điển hình là chiến thắng vang dội trước Vương quốc Hồi giáo Granada, Isabel cùng chồng mình đã được Giáo hoàng Alexanđê VI phong làm Quân chủ Công giáo, the Catholic, và hai vợ chồng bà trở thành Song vương có danh tiếng nhất thế giới Công giáo khi ấy. Năm 1974, bà được phong tước hiệu Tôi tớ Chúa (Servant of God) bởi Giáo hội Công giáo La Mã, nhưng vẫn chưa được phong làm Á thánh, theo yêu cầu của Tín ngưỡng tôn giáo Jesus.

Thân thế

thumb|Isabel lúc thiếu thời. Isabel sinh vào ngày 22 tháng 4 năm 1451 tại Madrigal de las Altas Torres, Ávila, là con gái của Quốc vương Juan II và Vương hậu Isabel của Bồ Đào Nha. Bà được mô tả có dáng người khá bệ vệ và khỏe mạnh, nước da trắng sáng, mái tóc có màu trộn lẫn giữa màu dâu tây lai vàng và nâu vàng. Tuy nhiên, hầu hết các tranh chân dung vẽ bà đều có tóc màu ngăm đen.

Khi sinh ra, Isabel nằm thứ 2 trong danh sách thừa kế, chỉ sau người anh trai cùng cha khác mẹ là Enrique IV của Castilla. Enrique khi đó đã 26 tuổi, dù đã kết hôn nhưng chưa có con. Ngày 17 tháng 11, năm 1453, em trai ruột của Isabel là Alfonso, Thân vương xứ Asturias sinh ra, nằm thứ 3 trong danh sách thừa kế sau chị là Isabel.

Năm 1454, Quốc vương Juan II thăng hà, Henry IV kế vị. Isabel cùng mẹ và em trai nằm dưới sự quản lý của Enrique IV, không lâu sau họ chuyển ra sinh sống tại Arévalo. Điều kiện sinh sống của cả ba mẹ con rất tệ, vì anh trai bà Henry IV không tuân theo di mệnh của vua cha là đảm bảo cho 3 mẹ con không thiếu thốn về tài chính vật chất. Dù vậy, dưới sự chăm sóc của mẹ bà, Isabel vẫn được hưởng một chế độ giáo dục cao và có một lòng mộ đạo sâu sắc.

Từ khi sinh ra đến khi cuối đời, Isabel được nhận xét là vẫn giữ một nếp sống giản dị và có quy tắc. Và dù có đối lập rất hiển nhiên với Hồi giáo, phong cách ăn mặc của bà lại theo hơi hướng của người Moor.

Dưới triều Vua Enrique IV

Khi Vương hậu của Vua Enrique, Joana của Bồ Đào Nha đang mang thai vương nữ Juana, Isabel và Alfonso được triệu về triều đình ở Segovia và chịu sự quản lý gay gắt của Henry cho tới khi hoàn tất việc học của cả hai. Trong khi Alfonso chịu sự quản lý của một gia sư trong khi Isabel trở thành Thị nữ trong đoàn tùy tùng của Vương hậu Joan. Vì vậy, cuộc sống của Isabel được cải thiện hơn so với tình trạng khó khăn nghèo nàn trước đây, bà không phải thiếu quần áo và thức ăn như khi còn sống ở Arévalo. Bà tiếp tục hoàn thiện các kỹ năng đọc, viết, lịch sử, âm nhạc, toán học và thần học. Hằng ngày, Isabel cùng các Thị nữ của mình học tập và trau dồi lòng mộ đạo, bà rất ít khi rời khỏi Segovia vì Vua anh Henry không cho phép.

Trước nguy cơ không có con trai thừa kế, các quý tộc Castilla lo lắng và ép buộc Vua Enrique phải chỉ định người em trai khác mẹ Alfonso, cũng là em cùng mẹ của Isabel, được chỉ định làm Trữ quân. Tình hình kế vị này đã gây một sự khủng hoảng trong triều đình Vua Henry khi ấy, các lãnh chúa thậm chí còn lôi kéo, ép buộc Alfonso phải tự lập, dẫn đến Trận Olmedo thứ hai diễn ra vào năm 1467, giữa các lãnh chúa ủng hộ Alfonso với quân đội của Vua Henry. Kết quả của cuộc chiến này là sự nhượng bộ của Vua Henry, công nhận Alfonso là Trữ quân, đồng thời giao điều kiện Alfonso phải cưới con gái của ông là Juana xứ Castilla, cũng là cháu gái của Alfonso và Isabel.

Năm 1468, tháng 7, chỉ vừa vài tháng sau khi được lập làm Trữ quân, Alfonso qua đời vì bệnh cảm. Phe lãnh chúa ủng hộ Alfonso nghi ngờ Trữ quân bị hạ độc, và họ lại khơi mào một cuộc chiến khác và đề nghị Isabel trở thành Trữ quân, bởi vì Isabel có tên trong hàng ngũ thừa kế trong di chúc sớm của Vua Enrique. Isabel, thay vì công khai về phe nổi loạn, đã đến gặp Vua Enrique tại Toros de Guisando, và ngay sau đó được chỉ định làm Trữ quân thay cho vương nữ Juana của Castilla. Theo nội dung đề nghị, Isabel không được phép kết hôn khi nhà vua chưa cho phép, và nhà vua cũng không được ép buộc bà kết hôn nếu bà không muốn.

Hôn nhân

thumb|Lễ cưới lịch sử giữa Ferrando xứ Aragón và Isabel xứ Castilla. Vấn đề hôn nhân của Isabel đã diễn ra từ rất sớm. Bà đã được đề nghị hứa hôn trên bàn cân chính trị từ khi 6 tuổi, và đối tượng chính là Ferrando, con trai của Juan, Quốc vương Navarra và cũng là người chồng tương lai của bà. Vào thời điểm ấy, Vua John và Vua Henry đang có một liên minh vững chãi và muốn củng cố thêm bằng hôn nhân. Tuy nhiên, khi anh trai của Vua Juan là Alifonso V của Aragón qua đời năm 1458, và lúc này Vua Juan của Navarra thừa hưởng Vương quốc Aragón rộng lớn cùng các lãnh địa khắp Châu Âu như Sicily và Sardinia. Với thế cục này, Vua Juan trở nên mạnh hơn và không còn thấy cần thiết khi thiết đặt liên minh với Castilla nữa.

Vua Enrique lúc này cực kỳ thèm khát một liên minh vững chắc, và ông nhắm đến người con trai cả của Vua John, Charles, Vương công xứ Viana. Vương công Charles có một mối quan hệ căng thẳng với vua cha, trong khi đó Vua John đang rất yêu thích đứa con thứ Ferdinand, và đó là lý do khiến ông muốn có một liên minh với Vua Henry để củng cố quyền lực của mình trong tương lai. Và để thiết đặt liên minh này, Charles sẽ được hứa hôn với Isabel. Vua John sau đó biết được tin về mối liên hệ này, và ông cảm thấy tức giận và bị đe dọa, do không chỉ Charles có ý chống đối, mà mối hôn nhân giữa Isabel vốn được dành cho Ferdinand - đứa con mà ông yêu thích nhất. Sau cùng, Charles bị vua cha giam cầm và chết không lâu sau.

Năm 1465, Isabel được hứa hôn cho Afonso V của Bồ Đào Nha - anh vợ của Vua Henry. Người trung gian của Vương hậu đã đến gặp Vua Henry để thiết đặt hôn nhân, song Isabel tỏ ra thận trọng và từ chối. Thời gian ấy, khắp Castilla diễn ra những cuộc nội chiến vì các lãnh chúa chỉ trích Vua Henry thiếu khả năng cai trị, và vì lý do đó mà nhà vua rất muốn cuộc hôn nhân của Isabel thành công, để có thể tạo một liên minh hùng mạnh bảo vệ ngai vàng của mình. Sau đó, Isabel được hứa hôn với Pedro Girón Acuña Pacheco, thủ lĩnh của Hội hiệp sĩ Calatrava và là anh trai của sủng thần của Vua Henry là Juan Pacheco. Thỏa thuận cuộc hôn nhân này giúp triều đình Vua Henry thoát khỏi cảnh phá sản, khi Don Pedro đồng ý hiến một lượng lớn vàng vào quốc khố. Isabel biết được tin đã rất kinh ngạc cùng sợ hãi, bà cầu nguyện trước Chúa mong sao cuộc hôn nhân này không diễn ra. Năm 1466, Don Pedro mắc một cơn bệnh lạ và qua đời, khi đang trên đường đến gặp vị hôn thê của mình.

Ngày 19 tháng 9 năm 1468, Vua Enrique chính thức làm lễ tấn phong Isabel trở thành Trữ quân của Castilla, với danh hiệu Thân vương xứ Asturias (Princess of Asturias). Bằng việc này, Vua Enrique đã chính thức không còn quyền hạn sắp đặt hôn nhân của Isabel nữa. Bắt đầu từ đây, Isabel chính thức tìm kiếm chồng của mình. Đã có một cuộc xem xét hôn nhân của Isabel với Quốc vương Edward IV của Anh, hoặc với người em trai, Richard, Công tước xứ Gloucester, nhưng điều này cũng không triển vọng cho lắm.

thumb|Ảnh cưới của Fernando và Isabel, vẽ vào cuối thế kỉ 15.

Vào lúc này, Vua Alfonso V của Bồ Đào Nha lại đề nghị hôn nhân, và điều này khiến Vua Henry rất vui mừng. Nếu Isabel cưới Alfonso V, thì tương lai con gái của Vua Henry là Juana sẽ cưới John, con trai và là người thừa kế của Vua Alfonso. Như vậy, tương lai cả Joanna và John sẽ kiểm soát Bồ Đào Nha lẫn Castilla, và Isabel đủ khôn ngoan nhìn thấy sự thiệt thòi của bản thân trong mối liên minh này để khước từ. Thay vào đó, bà bí mật hứa hôn với ứng cử viên đầu tiên trong đời mình, Ferdinand của Aragon. Thất bại liên tiếp trong sắp xếp hôn nhân của em gái, Vua Henry quyết định cưỡng ép Isabel cưới Charles của Pháp, Công tước xứ Berry, em trai của Quốc vương Louis XI của Pháp. Với ý định này, Vua Henry vừa muốn hàn gắng quan hệ giữa Pháp và Castilla, vừa muốn Isabel khuất mắt khỏi mình khi bà sẽ buộc phải rời Castilla mà về làm dâu xứ Pháp. Isabel cự tuyệt sắp xếp này của Vua Henry, trong khi Juan II của Aragon bắt đầu thương thảo một cuộc hôn nhân bí mật giữa Isabel và Ferdinand.

Ngày 18 tháng 10 năm 1469, lễ đính hôn chính thức diễn ra. Theo gia phổ, Isabel và Ferdinand là chị em họ cùng chung một ông cố, Juan I của Castilla, do đó phải có phép miễn trừ từ Giáo hoàng để cuộc hôn nhân có thể diễn ra và hợp pháp.

Quy trình giải trừ này luôn diễn ra rất phức tạp. Với sự giúp đỡ của một Hồng y gốc Tây Ban Nha là Rodrigo Borgia (sau là Giáo hoàng Alexanđê VI), Giáo hoàng khi ấy là Pius II đã chấp thuận cho Ferdinand và Isabel. Nhằm tránh bị dòm ngó, Isabel lấy lý do đi thăm mộ của em trai ở Ávila để đi khỏi triều đình, còn Ferdinand thì giả dạng một nô lệ trà trộn vào lãnh địa Castilla. Ngày 19 tháng 10 cùng năm, cả hai hội ngộ và lập tức tổ chức đám cưới ở Palacio de los Vivero, Valladolid.

Cuộc chiến đầu tiên

thumb|Trận chiến ở Toro, trận chiến giúp Isabel có được thế thắng ngai vàng Castilla. Năm 1474, ngày 12 tháng 12, Vua Henry IV qua đời ở Madrid, tin tức nhanh chóng chuyển đến triều đình Segovia. Isabel nhanh chóng dời đến Lâu đài Segovia, nơi bà nhận được toàn bộ sự ủng hộ của Andres de Cabrera và các triều thần thề tận trung với bà. Ngày hôm sau, 13 tháng 12, Isabel tuyên bố trở thành Nữ vương của Castilla và León.

Sự lên ngôi của Isabel về cơ bản là đầy chông gai, đây là bởi vì con gái của Vua Henry IV, vương nữ Juana, đã trưởng thành vào thời điểm ấy, cũng như không ít người nhận thấy Isabel không thích hợp trở thành Nữ vương. Diego Lopez de Pacheco, Hầu tước Villena, đã cùng các phe phái thề tận trung với vương nữ Juana. Sau tuyên bố của Hầu tước Villena, Tổng giám mục Toledo là Alfonso Carrillo de Acuña, một người từng tận trung với Isabel đã quay ra ủng hộ vương nữ Juana và rời khỏi Segovia để về phe Hầu tước Villena. Cả hai người bày mưu vương nữ Juana sẽ kết hôn với người cậu, Vua Afonso V của Bồ Đào Nha, và sau đó cả hai sẽ đưa quân đội Bồ Đào Nha đến xâm lược Castilla để giành lại ngôi báu. Vào tháng 5 năm 1475, Vua Alfonso đem quân vượt qua biên giới Castilla và tiến đến Plasencia, nơi mà ông ta cưới vương nữ Joanna, người cháu gái chỉ mới 13 tuổi. Đó là sự khởi đầu của cuộc chiến kế vị Castilla, mà lịch sử gọi là [War of the Castilian Succession].

Ngày 1 tháng 3 năm 1476, diễn ra Trận Toro, một cuộc chiến còn gây tranh cãi vì cả hai bên đều tuyên bố mình là người thắng, song lại có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với Isabel và Ferdinand. Sau đó, quân đội của Joanna la Beltraneja bị giải thể, và quân Bồ Đào Nha rút lui khỏi Castilla. Nhà sử học Justo L. González tóm tắt: ::Cả hai bên lập phòng tuyến đối doanh trại diện nhau ở Toro, kết quả của việc do dự tiến công. Và trong khi Quốc vương Bồ Đào Nha đang cải tổ lại quân đội, Ferdinand liền gửi tin đến khắp các thành phố ở Castilla cũng như các quốc gia lân bang, loan tin rằng quân đội của Castilla đã thắng lớn và giáng một cú vỡ mật cho quân đội Bồ Đào Nha. Đối diện với tin tức này, tập đoàn của "la Beltraneja" [Joanna] lập tức giải tán, và quân đội Bồ Đào Nha rút khỏi quốc gia này.

Chớp ngay thời cơ còn mơ hồ khi ấy, vào khoảng tháng 10 năm 1476, Isabel lập tức triệu tập đồng minh tại Segovia, tuyên bố đứa con gái đầu tiên của bà là Isabel sẽ trở thành Trữ quân của ngai vàng Castilla. Tuyên bố này đã khiến Isabel trở thành quân chủ có người thừa kế, cũng khiến quyền vị của bà được hợp pháp hóa.

Cũng trong khi ấy, vào tháng 8, ở Segovia xảy ra bạo loạn, và Isabel đã thể hiện mình là một quân chủ đầy quyền uy ngay lúc cần thiết nhất. Phiến loạn tràn vào Segovia đầy hỗn loạn, Isabel một mình cưỡi ngựa lãnh đạo quân đội bình định, vì chồng bà là Ferrando lúc này đang ở ngoài chiến đấu với quân Bồ Đào Nha. Mặc cho các cố vấn nam giới khuyên can, Isabel vẫn tự tin cưỡi ngựa vào tòa thành này, đối diện với thủ lĩnh quân phiến loạn và tiến hành thỏa hiệp, kết quả ngoài sức tưởng tượng khi quân phiến loạn nhanh chóng phục tùng và giải tán. Hai năm sau, Isabel hạ sinh người con trai mà bà yêu thương nhất, Juan của Aragón, vào ngày 30 tháng 6 năm 1478. Sự ra đời của người con trai này càng làm Isabel ở vững trên ngai vị Nữ vương.

thumb|Bản đồ Bồ Đào Nha sở hữu các thuộc địa ở phía Tây của [[Châu Phi, vẽ ở thế kỉ thứ 16.]]

Trong lúc này, hạm đội hải quân Castilla và Bồ Đào Nha đang giành quyền bá chủ ở Đại Tây Dương, kéo theo việc tranh giành thành phố Guinea, nơi có nhiều vàng và nô lệ rất cần thiết khi ấy cho nền quân chủ Châu Âu. Điều này đã dẫn đến trận chiến quyết định là Trận Guinea. Cuộc chiến kéo dài 3 năm, với việc Castilla làm chủ đất liền còn Bồ Đào Nha làm chủ đại dương. Ngày 4 tháng 9 năm 1479, Hòa ước Alcáçovas được ký kết, với việc Bồ Đào Nha từ bỏ ngai vị Castilla, đổi lại Isabel chia sẻ một phần lãnh địa quanh Đại Tây Dương cho phép Bồ Đào Nha cùng khai thác (trừ khu vực Quần đảo Canaria, thì mỏ vàng của Guinea, các đảo Cabo Verde, Madeira, Azores và quyền xâm chiếm Vương quốc Fez đều thuộc về Bồ Đào Nha), cùng đền bù chiến phí khổng lồ: 106.676 đồng vàng. Isabel cũng phải chấp nhận Joanna la Beltraneja được ở lại Bồ Đào Nha, cũng như đại xá cho bất kỳ thế lực nào từng ủng hộ Joanna và Bồ Đào Nha xâm chiếm Castilla.

Với cái kết này, Isabel và Ferdinand có được ngai vàng, song đã phải từ bỏ nguồn lợi nhuận khổng lồ ở Đại Tây Dương. Nhà sử học hàn lâm Tây Ban Nha là Antonio Rumeu de Armas nhận xét bản hòa ước Alcáçovas này, hai vụ Quân chủ Công giáo đã phải "... mua hòa bình với cái giá quá chát". Về sau, chuyến du hành của Christopher Columbus đã giải tỏa áp lực này của Castilla.

Cải cách quốc gia

Cuộc chiến với Granada

Chuyến du hành của Columbus

Cuối đời

Di sản

Văn hóa đại chúng

Vương hiệu

Khi còn là Nữ Thân vương xứ Asturias (Princess of Asturias), Isabel mang vương hiệu ngai vàng của Castilla, kèm theo hình hiệu chim đại bàng của Thánh sử Gioan. Khi là Nữ vương kèm Vương hậu, Isabel chia sẻ một phần vương hiệu của Ngai vàng xứ Aragon, cộng thêm cặp Cung và Tên (Yoke and arrows) như một dấu hiệu riêng. Khi là Đồng quân vương, vương hiệu của bà có thêm khẩu hiệu ["Tanto monta"] biểu thị hôn ước vĩnh cữu. Sau khi chinh phục Granada năm 1492, vương hiệu của Isabel có thêm quả lựu ở góc chính diện phía dưới, bên dưới vương hiệu Nữ vương, vì Granada trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là quả lựu.

Ngoài ra, còn có một vương hiệu khác có hình hai sư tử vàng, biểu thị sự trung tận của các lãnh chúa trung thành John II - cha của Isabel.

Tập tin:Coat of Arms of Isabella of Castile as Princess of Asturias (with crest).svg|Vương hiệu của Isabel khi là Thân vương xứ Asturias
(1468–1474) Tập tin:Coat of Arms of Queen Isabella of Castile (1474-1492).svg|Vương hiệu khi là Nữ vương
(1474–1492) Tập tin:Coat of Arms of Queen Isabella of Castile (1492-1504).svg|Vương hiệu khi là Vương hậu kiêm Nữ vương, sau khi chinh phục Granada
(1492–1504) Tập tin:Ornamented Coat of Arms of Queen Isabella of Castile (1492-1504).svg|Vương hiệu hiếm có cặp đôi sư tử vàng
(1492–1504) Tập tin:Escudo de Isabel la Católica ca 1495.jpg|Vương hiệu từ năm 1495, _Breviary of Isabella the Catholic_

Hậu duệ

thumb|Bức tranh "La Virgen de los Reyes Católicos", thể hiện Song vương Ferrando và Isabel cùng hậu duệ của hai người.

Cuộc hôn nhân của Ferrando và Isabel có 5 người con, và từ 5 người con này mà hai người có rất nhiều hậu duệ. Theo đó, Ferdinand và Isabel liên tiếp sắp xếp các cuộc hôn nhân cho những người con này, đều là Quốc vương của một Vương quốc hoặc các nữ quý tộc có dòng dõi lớn. Trong một thời gian, rất nhiều hậu duệ của họ liên tiếp là Hoàng đế và Hoàng hậu, rồi Quốc vương và Vương hậu của rất nhiều quốc gia lớn nhỏ khác khắp Châu Âu, đặc biệt là thế hệ đời cháu đã khiến Ferdinand và Isabel trở thành cặp vợ chồng có tầm ảnh hưởng hậu duệ khắp Châu Âu đầu tiên trong lịch sử.

Điểm đặc biệt nhất, Ferdinand và Isabel đến tận thời điểm hiện tại vẫn là tổ tiên của rất nhiều gia tộc vương triều Châu Âu khác, đáng kể nhất có Felipe VI của Tây Ban Nha, Elizabeth II của Khối thịnh vượng chung, Albert II của Bỉ, Margrethe II của Đan Mạch, Harald V của Na Uy, Carl XVI Gustaf của Thụy Điển và Willem-Alexander của Hà Lan. Ngoài ra, nếu kể đến các Thân vương quốc, thì còn có Albert II của Monaco và Hans-Adam II của Liechtenstein.

Gia phả

Hình ảnh

Tập tin:Los Reyes Católicos y la infanta doña Juana.jpg|alt=Isabella và Ferdinand cùng với người con gái, Juana|Isabel và Fernando cùng với người con gái, Juana Tập tin:Emanuel Gottlieb Leutze - Columbus Before the Queen.JPG|alt=Isabella gặp gỡ Christopher Columbus|Isabel gặp gỡ Cristoforo Colombo Tập tin:Columbian244b-4$.jpg|Hình chân dung Isabel cùng Columbus trong con tem của Mỹ, năm 1893 Tập tin:Isabel la Católica cede sus joyas.jpg|Bản khắc gỗ của Isabella, diễn tả việc bà quyên góp trang sức góp kinh phí cho cuộc thám hiểm của Columbus Tập tin:Capilla real tombs.jpg|Lăng mộ của Isabella và Ferdinand tại La Capilla Real, Granada Tập tin:VirgenMosca.jpg|Bức tranh _Virgen de la mosca_, giả thiết cho rằng người ở góc phải là Isabel the Catholic Tập tin:Liberación de los cautivos de Málaga por los Reyes Católicos (Museo de Málaga).jpg|Tranh vẽ Quân chủ Công giáo nhận sự sùng bái của nô lệ sau _Cuộc vây hãm Málaga_ năm 1487, vẽ bởi José Moreno Carbonero
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Isabel I của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: Isabel I de Castilla; tiếng Bồ Đào Nha: _Isabel I de Castela_; tiếng Anh: _Isabella of Castile_; tiếng Đức: _Isabella I. von Kastilien_; tiếng Pháp: _Isabelle Ire
**Juana I của Castilla và Aragón** (tiếng Tây Ban Nha: _Juana I de Castilla_; tiếng Bồ Đào Nha: _Joana I de Castela_; tiếng Anh: _Joanna of Castile_; tiếng Đức: _Johanna I. von Kastilien_; tiếng Hà
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Alfonso của Castilla, Alfonso của Trastámara hay Alfonso Ngây thơ** (tiếng Tây Ban Nha: _Alfonso de Castilla_; _Alfonso el Inocente_; tiếng Anh: _Alfonso of Castile_; 17 tháng 11 năm 1453 – 5 tháng 7 năm
**Isabel của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Castilla_; tiếng Anh: _Isabella of Castile_; 1355 - 23 tháng 12 năm 1392) là con gái của Pedro I của Castilla và tình nhân María của
**_Reconquista_** (một từ tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha, có nghĩa là "tái chinh phục", trong tiếng Ả Rập gọi là: الاسترداد _al-ʼIstirdād_, "tái chiếm") là một quá trình hơn 700 năm
**Constanza của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Constanza de Castilla_; tiếng Anh: _Constance of Castile_; 1354; 24 tháng 3 năm 1394) là người hưởng quyền thừa kế ngai vàng Vương quốc Castilla. Constanza là con
**Ferdinand I** () (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1503 tại Alcála de Henares (gần Madrid), Vương quốc Castilla – 25 tháng 7, 1564 tại Praha, Bohemia nay là Tiệp Khắc) là một quốc vương
_Xem thêm_: Hậu **Hậu** (, ) là một trong hai loại quân cờ chủ lực nặng trên bàn cờ vua (loại còn lại là Xe), đây là quân mạnh nhất trên bàn cờ và quan
**Isabel của Bồ Đào Nha **(tiếng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha: _Isabel de Portugal_; tiếng Anh: _Isabella of Portugal_; tiếng Đức: _Isabella von Portugal_; tiếng Pháp: _Isabelle de Portugal_; 24 tháng 10 năm
**Leonor của Castilla,** hay còn được gọi là **Eleonore của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Leonor de Austria_; tiếng Đức: _Eleonore von Kastilien_; tiếng Bồ Đào Nha: _Leonor da Áustria_; tiếng Pháp: _Éléonore d'Autriche_ hay
**Isabel của Aragón và Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Aragón_; tiếng Bồ Đào Nha: _Isabel de Aragão e Castela_; tiếng Anh: _Isabella of Aragon_) là vương hậu Bồ Đào Nha từ năm 1497
**Henry VII** (tiếng Wales: _Harri Tudur_; tiếng Anh: _Henry VII of England_; 28 tháng 1, 1457 - 21 tháng 4, 1509) là Quốc vương của nước Anh và là Lãnh chúa của Ireland, lên ngôi
**Juan của Aragón và Castilla, Thân vương xứ Asturias và Gerona** (tiếng Tây Ban Nha: _Juan de Aragón_; tiếng Đức: _Johann von Aragón und Kastilien_; Tiếng Bồ Đào Nha: _João, Príncipe das Astúrias_; tiếng Pháp:
**María của Aragón và Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _María de Aragón_; tiếng Bồ Đào Nha: _Maria de Aragão e Castela_; tiếng Anh: _Maria of Aragon_; sinh ngày 29 tháng 6 năm 1482, mất ngày
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Beatriz** (, ; 7 –13 tháng 2 năm 1373 – ) là người con hợp pháp duy nhất còn sống của Fernando I của Bồ Đào Nha và Leonor Teles, và là Vương hậu Castilla
**Ferrando II của Aragón** (tiếng Aragón: Ferrando II d'Aragón, tiếng Tây Ban Nha: Fernando II de Aragón, ; 10 tháng 3 năm 1452 - 23 tháng 1 năm 1516), còn gọi là **Fernando el Católico
**Vương quyền Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Corona de Castilla_; tiếng La Tinh: _Corona Castellae_; tiếng Anh: _Crown of Castile_ ### Vương quyền Castilla từ thời trị vì của Fernano III cho đến khi Carlos
**Alionor của Aragón** (tiếng Aragón: Alionor d'Aragón; tiếng Ý: Eleonora d'Aragona; tiếng Catalan: Elionor d'Aragó i Sicilia; tiếng Tây Ban Nha: Leonor de Aragón y Sicilia; tiếng Anh: Eleanor of Aragon; 20 tháng 2 năm
**Felipe II của Tây Ban Nha** (21 tháng 5, 1527 – 13 tháng 9, 1598), cũng gọi **Felipe Cẩn Trọng** (Felipe el Prudente), là vua Tây Ban Nha từ năm 1556 đến năm 1598, đồng
**João II** (tiếng Bồ Đào Nha: João II, phát âm Bồ Đào Nha: [ʒuɐw]) còn được gọi là là "**Vị hoàng tử hoàn hảo**" (Tiếng Bồ Đào Nha: _o Príncipe Perfeito)_ là vua của Bồ
**Chuan II của Aragón** (tiếng Tây Ban Nha: _Juan II de Aragón_, tiếng Catalunya: _Joan II d'Aragó_, tiếng Aragon: _Chuan II d'Aragón_ và . tiếng Sicilia: _Giuvanni II di Aragona_; 29 tháng 6 năm 1398
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Isabel của Bồ Đào Nha**, hay **Isabel của Avis** (tiếng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha: _Isabel de Portugal_ hay _Isabel de Avis_; tiếng Anh: _Isabella of Portugal_; năm 1428 — 15 tháng 8
**Infante/Infanta của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Infante/Infanta de España) là một tước hiệu được ban cho các con của Quân chủ Tây Ban Nha cũng như cho con cái của người thừa
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**Trận hải chiến Guinea** (tiếng Bồ Đào Nha: Batalha Naval da Guiné; tiếng Bồ Đào Nha: _Batalla naval de Guinea_) diễn ra trong Vịnh Guinea, phía Tây châu Phi, năm 1478, giữa hạm đội Bồ
thumb|Hiệp ước Alcaçovas. Thông báo về hiệp ước gửi tới thành phố [[Seville, ngày 14 tháng 3 năm 1480. Trang 1.]] **Hiệp ước Alcáçovas** (tiếng Tây Ban Nha: _Tratado de Alcazobas_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Catalina Micaela của Tây Ban Nha, hay Catalina Micaela của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina Micaela de Austria_; tiếng Đức: _Katharina Michaela von Spanien_; 10 tháng 10 năm 1567 - 6 tháng 11 năm
**Chế độ quân chủ Habsburg** () hoặc **đế quốc Habsburg** là một tên gọi không chính thức giữa các nhà sử học của các quốc gia và tỉnh được cai trị bởi các chi nhánh
**Gibraltar** ( , ) là một Lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh và tồn tại như một thành bang nằm ở mũi phía nam của Bán đảo Iberia. Nó có diện tích 6,7 km2 (2,6
**Constance của York** ( 1375 – 28 tháng 11 năm 1416) là con gái duy nhất của Edmund xứ Langley và Isabel của Castilla, con gái của Pedro I của Castilla và người tình yêu
**Vương quốc Sardegna** (tiếng Anh: _Kingdom of Sardinia_, tiếng Ý: _Regno di Sardegna_), dưới thời cai trị của Nhà Savoy, nó còn được gọi là Vương quốc _Savoy-Sardegna_, _Piedmont-Sardegna_, hoặc _Savoy-Piedmont-Sardegna_. Sardegna là một nhà
**Johanna của Áo** (tiếng Đức: _Johanna von Österreich_, tiếng Ý: _Giovanna d'Austria_, tiếng Anh: _Joanna of Austria_; 24 tháng 1 năm 1547 – 11 tháng 4 năm 1578) là một Nữ Đại Vương công Áo.
**Nữ Đại vương công Margarete của Áo** (tiếng Đức: _Margarete von Österreich_; tiếng Hà Lan: _Margaretha van Oostenrijk_; tiếng Tây Ban Nha: _Margarita de Austria_; tiếng Pháp: _Marguerite d'Autriche_; tiếng Anh: _Margaret of Austria_; sinh
**Gran Canaria** () là một trong bảy đảo chính ở quần đảo Canaria thuộc Tây Ban Nha nằm ở ngoài khơi phía tây châu Phi, trong Đại Tây Dương. Đây là đảo đông dân thứ
**Hiệp ước Tordesillas** là một hiệp định được ký kết tại Tordesillas (nay thuộc tỉnh Valladolid, Tây Ban Nha) vào ngày 7 tháng 6 năm 1494 và chứng thực tại Setúbal, Bồ Đào Nha, chia
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
Đây là **danh sách ­­­­­vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
thumb|Quốc vương và Nữ vương Công giáo, [[Ferrando II của Aragón và Isabel I của Castilla.]] **Quân chủ Công giáo** (tiếng Tây Ban Nha: _Reyes Católicos_) là tước hiệu chung dành cho hai vị Song
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
**María de la Paz của Tây Ban Nha** (; 23 tháng 6 năm 1862 – 4 tháng 12 năm 1946) là một Vương nữ Tây Ban Nha, con gái của Isabel II của Tây Ban
**Isabel của Navarra** (1395 – 31 tháng 8 năm 1450) là con gái của Carlos III của Navarra và Leonor của Castilla. ## Thiếu thời Không lâu trước khi Isabel chào đời, mẹ của Isabel,
**Nữ vương** (chữ Hán: 女王, tiếng Anh: _Queen Regnant_) hay **Nữ chúa** (chữ Hán: 女主) là vị quân chủ nữ giới của một Vương quốc, ngang hàng với một vị vua hoặc Quốc vương. Những
Vua **João III của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _João III de Portugal_; tiếng Tây Ban Nha: _Juan III de Portugal_; tiếng Anh: _John III of Portugal_; 7 tháng 6, 1502- 11 tháng
**María Isabel Francisca de Asís của Tây Ban Nha, Isabel của Tây Ban Nha hay Isabel de Borbón y Borbón** (; 20 tháng 12 năm 1851 – 22 tháng 4 năm 1931) là con gái