Alfonso của Castilla, Alfonso của Trastámara hay Alfonso Ngây thơ (tiếng Tây Ban Nha: Alfonso de Castilla; Alfonso el Inocente; tiếng Anh: Alfonso of Castile; 17 tháng 11 năm 1453 – 5 tháng 7 năm 1468) là Vương tử Castilla, Thân vương xứ Asturias và là nhân vật biểu tượng của cuộc nổi dậy của các cận thần Castilia chống lại người anh cùng cha khác mẹ của mình là Enrique IV của Castilla.
Thời thơ ấu
Alfonso là con trai duy nhất còn sống của Juan II với người vợ thứ hai là Isabel của Bồ Đào Nha. Chị gái của Alfonso là Isabel, tương lai là Nữ vương Isabel I của Castilla, cũng là con gái duy nhất còn sống của Juan II và Isabel của Bồ Đào Nha.
Sau cái chết của cha là Juan II, Alfonso, mẹ và chị gái gần như bị lưu đày, trong khi Thái hậu Isabel bị đưa đến Arevalo thì hai chị em đến Segovia. Khi Alfonso khoảng bảy tuổi, Vương tử cùng chị gái được chuyển đến triều đình của Enrique IV tại Madrid và được đặt trong hộ gia của Vương hậu Joana. Trong thời gian này, có tin đồn rằng Vương hậu Joana đã cố gắng đầu độc Alfonso ít nhất một lần để đảm bảo quyền kế vị cho cô con gái duy nhất của mình.
Người thừa kế ngai vàng
nhỏ| Đồng xu được đúc bởi những người ủng hộ Alfonso ở [[Sevilla.]]
Vào đầu những năm 1460, các quý tộc Castilia trở nên không hài lòng với sự cai trị của Enrique IV và tin rằng đứa con của Vương hậu Joana (Juana, Nữ Thân vương xứ Asturias) không phải con gái của nhà vua. Thông qua tuyên truyền và đồn thổi, được tiếp tay bởi liên minh các quý tộc nổi loạn, lập luận rằng cha của Juana thực chất là Beltrán de la Cueva, một sủng thần của vương thất có xuất thân thấp kém, người mà Henry đã nâng lên thành quyền lực to lớn và người, theo gợi ý của Alfonso de Palencia và những người khác, có thể là người tình của Joana. Điều này dẫn đến cái tên "Juana la Beltraneja" gắn với Vương nữ Juana theo dòng lịch sử. Nếu Juana là con ngoại hôn của Vương hậu Joana, thì người kế vị hợp pháp là Alfonso. Nếu Joana đích thực là con gái của Enrique IV thì Alfonso và người chị gái trứ danh Isabel I của Castilla đều là những kẻ soán ngôi. Xem xét những ảnh hưởng của Isabel I đối với lịch sử thế giới, câu hỏi này đã thu hút các nhà sử học trong nhiều thế kỷ.
"Alfonso XII của Castilla"
Liên minh các quý tộc kiểm soát Alfonso đã buộc Henry với Đại diện của Burgos năm 1464 phải từ chối Joanna và công nhận Alfonso là người thừa kế chính thức của mình. Alfonso do đó trở thành Thân vương xứ Asturias, thay thế cháu gái Juana. Enrique IV đã đồng ý yêu cầu này với điều kiện rằng Alfonso sẽ kết hôn với Juana trong tương lai, để đảm bảo rằng một ngày nào đó cả hai đều sẽ nhận được ngai vàng.
Không lâu sau đó, Enrique IV đã thất hứa và bắt đầu ủng hộ quyền kế vị của con gái một lần nữa. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1465, liên minh quý tộc chống lại Enrique IV đã tiến hành nghi lễ phế truất hình nộm của Enrique IV bên ngoài thành phố Avila và tôn Alfonso làm quốc vương đối đầu với Enrique IV. Sự kiện này được gọi là Trò hề Ávila. Không lâu sau đó, Alfonso bắt đầu trao đất đai và phong tước vị như thể bản thân đã là quân chủ chân chính. Một cuộc nội chiến bắt đầu. Cuộc đụng độ đáng chú ý nhất là tại Trận Olmedo lần thứ hai vào năm 1467, kết thúc với kết quả hòa.
Qua đời và chôn cất
Tuy nhiên, vào năm 1468, Alfonso đột ngột qua đời khi chỉ được 14 tuổi. Nguyên nhân cái chết vẫn chưa được xác định, nhưng có khả năng là do một căn bệnh nào đó như bệnh lao hoặc dịch hạch (mặc dù có tin đồn rằng Alfonso đã bị kẻ thù đầu độc).
Alfonso được chôn cất gần cha mình, (sau này di hài của Isabel của Bồ Đào Nha cũng được an táng tại đây) tại Tu viện Miraflores, được ủy quyền bởi Nữ vương Isabel I. Năm 2006, trong quá trình trùng tu tu viện, Tổng cục Di sản Văn hóa và Tài sản của Junta de Castilla y León đã quyết định thực hiện một nghiên cứu nhân chủng học về các ngôi mộ. Hài cốt của Alfonso, được đặt trong một chiếc quan tài bằng gỗ óc chó, được tìm thấy trong tình trạng bảo quản kém. Chiều cao của Alfonso được ước tính là 165 cm.
Vào năm 2013, một nghiên cứu chi tiết hơn dựa trên những kết quả này đã được Đại học León công bố với giả thuyết rằng Alfonso thực chất đã bị hạ độc, vì các triệu chứng không giống với các triệu chứng của bệnh dịch hạch thể hạch và hài cốt của Alfonso cũng không có dấu vết của vi khuẩn Yersinia pestis.
Theo ý nguyện của mình, ngai vàng sẽ được kế thừ bởi chị gái Isabel, người được đề nghị thay thế em trai trở thành biểu tưởng của quân nổi loạn. Ngay sau đó, Isabel đã từ chối, và sau một cuộc đàm phán tại Toros de Guisando, Isabel và đồng minh của mình đạt được hầu hết mục tiêu, Enrique đã chấp thuận loại trừ con gái Juana khỏi vị trí kế vị và công nhận Isabel là người thừa kế chính thức của mình. Mặc dù Enrique tiếp tục chống lại quyết định này khi có thể, nhưng nỗ lực của Enrique IV không thành công, và quốc vương vẫn duy trì thế hòa hảo với Isabel trong suốt triều đại của mình. Isabel cũng trở thành vị vua tiếp theo của Castilla khi Enrique IV qua đời vào năm 1474.
Gia phả
Gia phả
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Alfonso của Castilla, Alfonso của Trastámara hay Alfonso Ngây thơ** (tiếng Tây Ban Nha: _Alfonso de Castilla_; _Alfonso el Inocente_; tiếng Anh: _Alfonso of Castile_; 17 tháng 11 năm 1453 – 5 tháng 7 năm
**Isabel I của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: Isabel I de Castilla; tiếng Bồ Đào Nha: _Isabel I de Castela_; tiếng Anh: _Isabella of Castile_; tiếng Đức: _Isabella I. von Kastilien_; tiếng Pháp: _Isabelle
Ire**Leonor của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Leonor de Castilla_; tiếng Anh: _Eleanor of Castilla_; năm 1241 – 28 tháng 11 năm 1290) là Vương hậu nước Anh từ năm 1272 đến năm 1290, và
**Mafalda của Castilla, hay Mafalda de Castilla y Plantagenet** (tiếng Tây Ban Nha: _Mafalda de Castilla_; tiếng Anh: _Mafalda of Castile_; 1191—1204) là một Vương nữ Castilla, con gái của Alfonso VIII của Castilla và
thumb **Alfonso X của Castilla** (cũng đôi khi **Alphonso X**, **Alphonse X**, hoặc **Alfons X**, 23 tháng 11 năm 1221 - 4 tháng 4 năm 1284), được gọi là **khôn ngoan** () là vua của
**Berenguela I của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Berenguela I de Castilla_; tiếng Anh: _Berengaria I of Castile_; tiếng Pháp: _Bérengère
Ire de Castille_) hay còn gọi là **Berenguela Đại vương _(Berenguela la Grande)**_, là
**Blanca của Castilla** (, , ; 4 tháng 3 năm 1188 - 27 tháng 11 năm 1252) là Vương hậu Pháp với tư cách là người vợ duy nhất của Nhà vua Louis VIII. Bà
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
Blanca của Castilla có thể là những người sau: * **Blanca của Castilla** (1188-1252), con gái của Alfonso VIII của Castilla và Eleanor của Anh, là Vương hậu Pháp thông qua cuộc hôn nhân với
**Constanza của Castillla** (tiếng Tây Ban Nha: _Constanza de Castilla_; 1136 hoặc 1140 - 4 tháng 10 năm 1160) là một vương hậu Pháp với tư cách là người vợ thứ hai của Louis VII,
**Urraca I của León** (tiếng Tây Ban Nha: _Urraca I de León_; tiếng Anh: _Urraca of León_; Tiếng Pháp: _Urraque
Ire de León_; Tiếng Bồ Đào Nha: _Urraca I de Leão e Castela_; Tiếng Catalunya:
**Vương quyền Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Corona de Castilla_; tiếng La Tinh: _Corona Castellae_; tiếng Anh: _Crown of Castile_ ### Vương quyền Castilla từ thời trị vì của Fernano III cho đến khi Carlos
**Eleanor của Anh** (tiếng Anh: _Eleanor of England_; tiếng Pháp: _Aliénor d'Angleterre_; tiếng Tây Ban Nha: _Leonor de Inglaterra_; khoảng 1161 - 31 tháng 10 năm 1214 ), là Vương hậu của Castilla và Toledo
**Beatriz** (, ; 7 –13 tháng 2 năm 1373 – ) là người con hợp pháp duy nhất còn sống của Fernando I của Bồ Đào Nha và Leonor Teles, và là Vương hậu Castilla
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Felipe III** (, , ; 27 tháng 3 năm 1306 – 16 tháng 9 năm 1343), là một vị vua của vương quốc Navarra từ năm 1328 cho đến khi ông qua đời. Felipe sinh
**María del Pilar của Tây Ban Nha** (; 4 tháng 6 năm 1861 – 5 tháng 8 năm 1879) là người con thứ ba cũng như là con gái thứ hai sống qua tuổi ấu
**Louis VII của Pháp** (biệt danh bằng tiếng Pháp: _Louis le Jeune_; tạm dịch _Louis Con_ hay _Louis Trẻ_ 1120 – 18 tháng 9 năm 1180) là vua Pháp, con trai và người kế tục
**Leonor của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Leonor de Portugal_; 1328 – 30 tháng 10 năm 1348), là một Infanta của Bồ Đào Nha và là Vương hậu Aragón từ năm 1347 đến
**Sancho VI của Navarra** (, ; 21 tháng 4 năm 1132 - 27 tháng 6 năm 1194), còn được gọi là **Sancho Garcés VI**, hay **Người khôn ngoan** (, ) là vua của Navarre từ
thumb|right|Hình nộm nổi trên lăng mộ của Louis của Pháp. **Louis của Pháp** (21 hoặc 24 tháng 2 năm 1244 - 11 tháng 1 năm 1260) là một hoàng tử Pháp, người con trai đầu
**Blanca xứ Évreux** (; sinh khoảng năm 1331 – 5 tháng mười năm 1398), là vương tằng tôn nữ nước Pháp và Infanta của Navarra với tư cách là thành viên của Gia tộc Évreux
**Blanca I của Navarra** (, ; 6 tháng 7 năm 1387 – 1 tháng 4 năm 1441) là Nữ vương của Navarra sau khi cha bà Carlos III qua đời vào năm 1425 cho đến
**Thibaut I của Navarra** (, ; 30 tháng 5, 1201 - 8 tháng 7, 1253), còn được gọi là **Thibaut IV xứ Champagne** (), **Thibaut Thi nhân** ( hay **Thibaut Di tử** (), là Bá
**Chuan II của Aragón** (tiếng Tây Ban Nha: _Juan II de Aragón_, tiếng Catalunya: _Joan II d'Aragó_, tiếng Aragon: _Chuan II d'Aragón_ và . tiếng Sicilia: _Giuvanni II di Aragona_; 29 tháng 6 năm 1398
**Isabelle của Pháp** (tháng 3 năm 1225 - 23 tháng 2 năm 1270) là con gái của vua Louis VIII của Pháp và Blanca của Castilla. Cô là em gái của Vua Louis IX của
**Catalina Micaela của Tây Ban Nha, hay Catalina Micaela của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina Micaela de Austria_; tiếng Đức: _Katharina Michaela von Spanien_; 10 tháng 10 năm 1567 - 6 tháng 11 năm
**Vương tộc Trastámara** (tiếng Tây Ban Nha, tiếng Aragón và tiếng Catalan: _Casa de Trastámara_; tiếng Anh: _House of Trastámara_) là một triều đại từng cai trị Vương quyền Castilla và sau đó mở rộng
**Alfonso XII** (_Alfonso Francisco de Asís Fernando Pío Juan María de la Concepción Gregorio Pelayo_; 28 tháng 11 năm 1857 - 25 tháng 11 năm 1885) còn được gọi là **El Pacificador** (tiếng Tây Ban
**María de la Paz của Tây Ban Nha** (; 23 tháng 6 năm 1862 – 4 tháng 12 năm 1946) là một Vương nữ Tây Ban Nha, con gái của Isabel II của Tây Ban
**María Isabel Francisca de Asís của Tây Ban Nha, Isabel của Tây Ban Nha hay Isabel de Borbón y Borbón** (; 20 tháng 12 năm 1851 – 22 tháng 4 năm 1931) là con gái
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Urraca của Bồ Đào Nha** (; tiếng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha: _Urraca de Portugal_; 1148 – 1211) là Vương hậu León từ năm 1165 cho đến năm 1171/1172 với tư cách là
**Vương quốc Sardegna** (tiếng Anh: _Kingdom of Sardinia_, tiếng Ý: _Regno di Sardegna_), dưới thời cai trị của Nhà Savoy, nó còn được gọi là Vương quốc _Savoy-Sardegna_, _Piedmont-Sardegna_, hoặc _Savoy-Piedmont-Sardegna_. Sardegna là một nhà
**Enrique I của Navarra** (, , ; khoảng 1244 - 22 tháng 7 năm 1274), còn gọi là **Enrique Béo mập** () là Vua của Navarra và Bá tước Champagne và Brie (với tư cách
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán
**Louis VIII Sư tử** (5 tháng 9 năm 1187 – 8 tháng 11 năm 1226) là vua Pháp từ năm 1223 đến năm 1226. Ông là một vị quân chủ thuộc vương tộc Capet. Louis
**Louis IX** (25 tháng 4 năm 1215 – 25 tháng 8 năm 1270), thường được gọi thông dụng là **Thánh Lu-Y** hoặc **Thánh Luđôvicô**, là vị vua đã trị vì Pháp từ năm 1226 tới
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
Đây là **danh sách vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
Một khu vườn thời kỳ Hồi giáo ở [[Granada, al-Andalus]] **Al-Andalus** (tiếng Ả Rập: الأندلس, al-Andalus) là tên tiếng Ả Rập để chỉ một quốc gia và vùng lãnh thổ trên bán đảo Iberia của
**Madrid** () là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Tây Ban Nha. Dân số thành phố vào khoảng 3,4 triệu người, toàn bộ dân số của vùng đô thị Madrid ước tính
**Vua Tây Ban Nha** (), hiến pháp gọi là **Ngôi vua** (la Corona) và thường được gọi **chế độ quân chủ Tây Ban Nha** (Monarquía de España) hoặc **chế độ quân chủ Hispanic** (Monarquía Hispánica)
**Bá quốc Barcelona** () nguyên là một khu vực biên thuỳ dưới quyền cai trị của Vương triều Caroling. Đến cuối thế kỷ 10, các Bá tước xứ Barcelona trở nên độc lập trên thực
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn
**Alphonse** hoặc **Alfonso** (11 tháng 11 năm 1220 21 tháng 8 năm 1271) là bá tước của Poitou từ năm 1225 và là bá tước của Toulouse (còn được gọi là **Alphonse II**) từ năm
**Liên minh Iberia** là một thuật ngữ hiện đại dùng để chỉ sự thống nhất lịch sử và chính trị cai trị toàn bộ bán đảo Iberia phía nam Pirenia từ năm 1580 đến 1640.
nhỏ| [[Quân chủ Công giáo và Cristoforo Colombo, 1493]] **Liên hiệp vương triều** (**', **') là một hình thức liên bang chỉ có hai nhà nước khác nhau được quản lý dưới cùng một triều