✨Quốc hội Tây Ban Nha

Quốc hội Tây Ban Nha

Quốc hội Tây Ban Nha (, ) là cơ quan lập pháp lưỡng viện của Tây Ban Nha. Quốc hội gồm Đại hội Đại biểu và Thượng viện. Quốc hội có quyền làm luật và sửa đổi hiến pháp, Đại hội Đại biểu có quyền phê chuẩn và bãi nhiệm thủ tướng.

Lịch sử

Nguồn gốc: Thời phong kiến (thế kỷ 8-12)

nhỏ|trái|Saint Isidoro Basilic, nơi Quốc hội León ra đời. Hệ thống Cortes xuất hiện từ thời Trung cổ, là một phần của chủ nghĩa phong kiến. Một "Corte" là một hội đồng cố vấn bao gồm các lãnh chúa nhiều quyền lực nhất và thân cận nhất với nhà vua. Quốc hội của Vương quốc León được lập năm 1188. Quốc hội León được coi là thể chế nghị viện đầu tiên ở tây Âu Từ năm 1230, Quốc hội León và Castile được hợp lại làm một, dù vai trò của quốc hội giảm bớt. Các giáo sĩ cấp cao, quý tộc và thường dân vẫn bị chia ra thành ba đẳng cấp trong quốc hội. Nhà vua có quyền triệu tập hoặc giải tán quốc hội, nhưng vì những lãnh chúa trong quốc hội cũng là những người đứng đầu quân đội và nắm quyền kiểm soát ngân quỹ quốc gia, nhà vua thường ký các thỏa thuận với họ để thông qua những hóa đơn trả cho chi phí các cuộc chiến của ông, với sự nhượng bộ từ các lãnh chúa và từ quốc hội.

Sự vươn lên của tầng lớp tư sản trung lưu (thế kỷ 12-15)

nhỏ|Nữ hoàng Maria de Molina đưa con trai, vua Fernando IV, ra trình diện nghị viện Valladolid năm 1295. Với sự xuất hiện của những thành phố vào khoảng thế kỷ 12, một tầng lớp xã hội mới bắt đầu nổi lên: những thị dân không phải là tá điền của các lãnh chúa, nhưng cũng không phải là quý tộc. Các lãnh chúa trong giai đoạn này gặp nhiều khó khăn về kinh tế vì sự kiện Reconquista; nên giờ tầng lớp tư sản trung lưu (tiếng Tây Ban Nha là burguesía, xuất phát từ burgo, thành phố) có tiền và nhờ vậy, có quyền lực. Vì vậy nhà vua bắt đầu chấp nhận các đại biểu từ những thành phố vào quốc hội để thu tiền cho Reconquista. Đổi lại, các thành phố nhận được quyền tự trị ngày càng rộng rãi hơn. Lúc này, quốc hội đã có quyền lực phản đối các quyết định của nhà vua, trên thực tế có thể phủ quyết chúng. Hơn nữa, một số đại biểu được chính các thành viên quốc hội bầu lên đã trở thành cố vấn thường trực cho nhà vua, ngay cả khi quốc hội không họp.

Các vị quân chủ theo Công giáo Rôma (thế kỷ 15)

Isabel I của Castilla và Ferdinand II của Aragon, những vị quân chủ theo đạo Công giáo Rôma, bắt đầu chính sách tước bớt quyền lực của tầng lớp tư sản trung lưu và quý tộc. Họ giảm rất nhiều quyền lực của quốc hội đến mức quốc hội chỉ còn là một cơ quan có chức năng thủ tục thông qua những quyết định của hoàng gia. Những nhà quân chủ nói trên cũng tìm cách lôi kéo tầng lớp quý tộc về phía họ. Một trong những chủ đề chính gây tranh cãi giữa quốc hội và triều đình là quyền tăng và giảm các mức thuế. Đó là vấn đề duy nhất mà quốc hội còn duy trì được một số quyền kiểm soát trực tiếp; khi nữ hoàng Isabella muốn tài trợ cho chuyến đi của Christopher Columbus, bà đã phải mất rất nhiều thời gian đấu tranh với những người thị dân trung lưu để nhận được sự đồng ý từ quốc hội.

Quốc hội của đế quốc Tây Ban Nha (thế kỷ 16-17)

Vai trò của quốc hội trong thời kỳ Đế quốc Tây Ban Nha chủ yếu chỉ là cơ quan thủ tục thông qua các quyết định của hoàng gia. Tuy nhiên, họ có một số quyền lực về những vấn đề kinh tế và châu Mỹ, nhất là thuế khóa. Thời kỳ hoàng kim của Tây Ban Nha về văn học, nghệ thuật, lại là một thời kỳ đen tối về chính trị: Hà Lan tuyên bố độc lập, gây ra một cuộc chiến tranh, một số vị quân chủ cuối cùng của dòng họ Habsburg không ngó ngàng gì tới Tây Ban Nha mà phó thác hết cho các vị phó vương cai trị trên danh nghĩa của họ, nổi tiếng nhất có Gaspar de Guzmán, Công tước của Olivares, Philip IV. Điều này giúp quốc hội có nhiều quyền hạn hơn, dù họ vẫn không thể đối đầu trực tiếp với các quyết định của nhà vua, hay của các phó vương nhân danh nhà vua.

Quốc hội của các vương quốc Aragon và Navarre

Một cuộc họp của quốc hội Catalan vào thế kỷ 15. Tây Ban Nha được thống nhất trên thực tế dưới thời vua Charles I (V của Đế chế La Mã thần thánh), người kết hợp hai ngai vàng của Castilla and Aragón vào năm 1516; các vùng lãnh thổ khác của vương gia Tây Ban Nha vẫn duy trì quyền tự trị hạn chế và không được thống nhất hoàn toàn cho tới khi hiến pháp hiện đại đầu tiên của Tây Ban Nha được thông qua năm 1812.

Một số vùng thuộc Vương quốc Aragon (Aragon, Catalonia và Valencia) và Vương quốc Navarra là những thực thể tự trị cho tới khi Sắc lệnh Nueva Planta năm 1707 hủy bỏ quyền tự trị của các vùng này và thống nhất Aragon với Castile thành một nhà nước Tây Ban Nha tập quyền. Việc hủy bỏ quyền tự trị của Aragon hoàn tất năm 1716, trong khi Navarre duy trì sự tự trị tới năm 1833. Cho tới tận bây giờ Navarre vẫn là vùng tự trị duy nhất ở Tây Ban Nha có quyền về pháp luật liên hệ với quyền tự trị trong thời phong kiến, dù họ vẫn thừa nhận hiến pháp Tây Ban Nha là tối cao.

Ở mỗi vùng Aragon, Catalonia, Valencia và Navarre đều có một quốc hội. Các cơ quan này có nhiều quyền hành thực tế với địa phương hơn quốc hội "trung ương" ở Castile. Các hội đồng hành pháp cũng tồn tại ở những vùng này, ban đầu do quốc hội giám sát. Tuy nhiên, cùng với sự cai trị của các dòng họ Habsburg và Bourbon ở Tây Ban Nha, triều đình muốn tập trung quyền lực hơn, buộc các vùng lãnh thổ phải có quan điểm thống nhất về các vấn đề đối ngoại và đã bổ nhiệm các hội đồng từ trên xuống để kiểm soát các quốc hội ở một số vùng. Vì vậy, quốc hội Tây Ban Nha không phát triển thành một hệ thống ủy nhiệm như ở Anh, mà trở thành một cơ quan nghị gật chỉ có nhiệm vụ thông qua các sắc lệnh của hoàng gia. Dẫu vậy, quốc hội vẫn luôn cố gắng kiểm soát các vấn đề liên quan tới ngân sách, với mức độ ảnh hưởng khác nhau tùy thời kỳ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quốc hội Tây Ban Nha** (, ) là cơ quan lập pháp lưỡng viện của Tây Ban Nha. Quốc hội gồm Đại hội Đại biểu và Thượng viện. Quốc hội có quyền làm luật và
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha** () là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha trên bình diện quốc tế
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
**Hôn nhân cùng giới ở Tây Ban Nha** hợp pháp hóa từ ngày 3 tháng 7 năm 2005. Năm 2004, chính phủ của Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Tây Ban Nha vừa mới
**Tây Ban Nha thời Franco** () hoặc **Chế độ độc tài Francisco Franco** (), chính thức được gọi là **Quốc gia Tây Ban Nha** (), là thời kỳ lịch sử Tây Ban Nha từ năm
**Đại hội Đại biểu Tây Ban Nha** là hạ viện của Quốc hội Tây Ban Nha. Đại hội Đại biểu gồm 350 đại biểu được bầu theo hệ thống phổ thông đầu phiếu theo danh
**Carlos IV** (Tiếng Anh: Charles IV, Tiếng Tây Ban Nha: Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno José Januario Serafín Diego; sinh 11/11/1748 - mất 20/01/1819) là vua của Vương quốc Tây Ban Nha và
Đây là cuộc tổng tuyển cử được tổ chức vào Chủ nhật, ngày 28 tháng 4 năm 2019, để bầu ra Quốc hội Tây Ban Nha thứ 13 của Vương quốc Tây Ban Nha. Tất
phải|[[Allegory của Cộng hòa Tây Ban Nha, được công bố trên một tạp chí châm biếm và tự do]] **Đệ nhất Cộng hòa Tây Ban Nha** là một chính thể từng tồn tại ở Tây
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**Alfonso XII** (_Alfonso Francisco de Asís Fernando Pío Juan María de la Concepción Gregorio Pelayo_; 28 tháng 11 năm 1857 - 25 tháng 11 năm 1885) còn được gọi là **El Pacificador** (tiếng Tây Ban
thumb|Ngai vàng của Vua Tây Ban Nha tại Cung điện Vương thất ở thủ đô [[Madrid]] Vương quốc Tây Ban Nha hiện vẫn còn áp dụng chế độ kế vị theo _Male-preference primogeniture_ (con trưởng
**Thượng viện Tây Ban Nha** là thượng viện của Quốc hội Tây Ban Nha. Thượng viện gồm 266 thượng nghị sĩ trong đó 208 được bầu theo phổ thông đầu phiếu và 58 được các
Một cuộc trưng cầu ý dân về hiến pháp được tổ chức ở Tây Ban Nha vào ngày 6 tháng 12 năm 1978 để phê chuẩn dự thảo Hiến pháp Tây Ban Nha. Dự thảo
**Felipe VI của Tây Ban Nha (Felipe đệ lục)** (; sinh 30 tháng 1 năm 1968) là vua trị vì Tây Ban Nha từ ngày 19 tháng 6 năm 2014, một ngày sau khi cha
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**Vua Tây Ban Nha** (), hiến pháp gọi là **Ngôi vua** (la Corona) và thường được gọi **chế độ quân chủ Tây Ban Nha** (Monarquía de España) hoặc **chế độ quân chủ Hispanic** (Monarquía Hispánica)
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
Đây là danh sách những người Tây Ban Nha đồng tính nữ, đồng tính nam và song tính và chuyển giới (LGBT) đã từng phục vụ trong Cortes Generales của Tây Ban Nha, chính phủ
**Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha** là xung đột quân sự giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ xảy ra từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1898 liên quan đến vấn đề về
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
Đây là **danh sách ­­­­­vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha hay María de las Mercedes de Borbón y Habsburgo-Lorena** (tiếng Tây Ban Nha: _María de las Mercedes de España_; 11 tháng 9 năm 1880 – 17 tháng
page=7|thumb|right|Hiến pháp 1931 **Hiến pháp Tây Ban Nha 1931** được Hội đồng Lập hiến nước này thông qua vào ngày 9 tháng 12 năm 1931. Đây là hiến pháp của Đệ nhị Cộng hòa Tây
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**Felipe II của Tây Ban Nha** (21 tháng 5, 1527 – 13 tháng 9, 1598), cũng gọi **Felipe Cẩn Trọng** (Felipe el Prudente), là vua Tây Ban Nha từ năm 1556 đến năm 1598, đồng
**Infante/Infanta của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Infante/Infanta de España) là một tước hiệu được ban cho các con của Quân chủ Tây Ban Nha cũng như cho con cái của người thừa
thumb|Đội tuyển nữ Tây Ban Nha vào năm 2018|248x248px **Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Selección Española de Fútbol Femenina_) đại diện cho Tây Ban Nha tại
**Đội bóng rổ quốc gia nam Tây Ban Nha** () đại diện cho Tây Ban Nha trong cuộc thi quốc tế bóng rổ. Họ được quản lý bởi Liên đoàn bóng rổ Tây Ban Nha,
**María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin** (tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de España_, tiếng Đức: _Maria Ludovica von Spanien_; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng
Cuenca **Cuenca (thành phố)** là một đô thị trong tỉnh Cuenca, cộng đồng tự trị Castile-La Mancha Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích là 911,06 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2009 là
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
**Cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha**, còn gọi là **Cuộc chinh phục Mexico** hay **Chiến tranh Aztec-Tây Ban Nha** (1519-1521) là một trong những sự kiện quan trọng nhất của quá
**Đông Ấn Tây Ban Nha** (; tiếng Filipino: _Silangang Indiyas ng Espanya_) là lãnh thổ Tây Ban Nha tại Châu Á-Thái Bình Dương từ 1565 đến 1899. Bao gồm Philippines, Quần đảo Mariana, the Quần
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Chủ tịch Chính phủ Tây Ban Nha** (), thường được gọi là **thủ tướng Tây Ban Nha**, là người đứng đầu chính phủ của Tây Ban Nha. Chủ tịch Chính phủ bổ nhiệm các bộ
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**Formosa thuộc Tây Ban Nha** là một thuộc địa tồn tại từ năm 1626 đến 1642 của đế quốc Tây Ban Nha ở phía bắc đảo Đài Loan. Mặc dù Đài Loan gần gũi về
**Chiến tranh Pháp-Tây Ban Nha** là một cuộc xung đột quân sự đã đẩy nước Pháp tham chiến trong Chiến tranh Ba mươi năm. Sau khi các đồng minh Đức của Thụy Điển buộc phải
**Ana của Tây Ban Nha, hay Ana của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Ana María Mauricia de Austria y Austria-Estiria_ hay _Ana de España_; tiếng Đức: _Anna von Österreich_; tiếng Bồ Đào Nha: _Ana da