✨Karl VI của Thánh chế La Mã

Karl VI của Thánh chế La Mã

Karl VI của Thánh chế La Mã (; 1 tháng 10 năm 1685 – 20 tháng 10 năm 1740) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 1711 đến 1740. Ông đã kế thừa ngai vàng từ anh trai của mình là Joseph I, với các tước vị Hoàng đế La Mã Thần thánh (Karl VI), Vua của Bohemia (Karel II), Vua của Hungary và Croatia (Károly III), và Vua của Serbia, Đại vương công Áo, etc., năm 1711. Ông thất bại trong việc giành ngai vàng Tây Ban Nha (Carlos III) sau cái chết của người bà con của ông, Carlos II của Tây Ban Nha, năm 1700 mà không để lại con cái kế vị. Ông cũng có yêu sách về các ngôi vị quân vương của Napoli (Carlo VI), Sardegna (Carlo III) và Sicilia (Carlo IV).

Ông thành hôn với Elisabeth Christine xứ Braunschweig-Wolfenbüttel, và họ có với nhau 2 người con sống sót đến tuổi trưởng thành: Maria Theresia, chào đời 1717, quân chủ cuối cùng của Vương tộc Habsburg, và Maria Anna, chào đời 1718, chồng bà được bổ nhiệm làm thống đốc cai quản đất Hà Lan thuộc Áo.

Bốn năm trước ngày sinh của Maria Theresia, với vấn đề thiếu người thừa kế nam, Hoàng đế Karl VI đã ban hành Sắc lệnh thực dụng 1713. Ông ủng hộ quyền kế vị của con gái mình, đứng trên các con của Cựu hoàng Joseph I, phủ nhận các nghị quyết mà ông đã ký dưới thời vua cha, Leopold I. Karl đã thực hiện các chiêu bài ngoại giao với các cường quốc châu Âu khác để họ chấp thuận không can thiệp vào việc kế vị của Áo. Các cường quốc đã đòi hỏi những yêu sách khắc nghiệt: Vương quốc Anh buộc Áo giải tán Công ty Thương mại nước ngoài của Áo. Tổng cộng, Vương quốc Anh, Vương quốc Pháp, Tuyển hầu quốc Sachsen-Liên bang Ba Lan-Litva, Cộng hòa Hà Lan, Đế quốc Tây Ban Nha, Cộng hòa Venezia, Lãnh địa Giáo hoàng, Savoy-Sardinia, Điều này dẫn tới Chiến tranh kế vị Tây Ban Nha, tranh chấp với một thành viên hoàng tộc Pháp, Philip, Công tước xứ Anjou, cháu vua Louis XIV của Pháp, kéo dài 40 năm. Vương quốc Bồ Đào Nha, Vương quốc Anh, Scotland, Ireland và phần lớn các vương hầu trong Thánh chế La Mã ủng hộ Karl. Charles III, đổ bộ lên đất Tây Ban Nha năm 1705 và ở đó 6 năm, nhưng chỉ nắm được quyền cai trị tại Catalonia, cho đến cái chết của anh ông, Joseph I, Hoàng đế La Mã Thần thánh; ông trở về Vienna về kế tự hoàng đế. Không muốn nhìn thấy Áo và Tây Ban Nha lập Liên minh cá nhân lần nữa, phía Vương quốc Anh rút lực lượng viện binh cho Áo, chiến tranh lên đến đỉnh điểm với các hiệp ước Utrecht và Rastatt ba năm sau. Hiệp ước 1713 được phê chuẩn, công nhận Philip là Vua của Tây Ban Nha, tuy nhiên, Vương quốc Naples, Công quốc Milan, đất Hà Lan thuộc Áo và Vương quốc Sardinia – vốn thuộc quyền quản lý của Tây Ban Nha, phải nhượng lại cho Áo. Để ngăn chặn liên minh cá nhân Pháp - Tây Ban Nha, Philip bị buộc phải từ bỏ quyền kế vị người ông trên ngai vàng Pháp. Karl thất vọng vì để mất Tây Ban Nha, và kết quả là ông bắt chước trang phục của một vị vua Tây Ban Nha, theo như sử gia Anh quốc Edward Crankshaw, bao gồm "một đôi màu đen và ống, giày màu đen và vớ đỏ". Ngày 1 tháng 8 năm 1708, tại Barcelona, Charles kết hôn gián tiếp với bà. Bà sinh cho ông 2 cô con gái sống tới tuổi trưởng thành, Maria Theresa và Maria Anna.

Kế vị nhà Habsburg

thumb|Karl VI, 1721 thumb|Hoàng đế La Mã Thần thánh, Vua của Bohemia, Vua của Hungary, embossed seal

Việc thiếu người thừa kế nam dẫn đến Sắc lệnh thực dụng 1713, tài liệu phủ quyết người thừa kế nam duy nhất (có hiệu lực trên tất cả các lãnh thổ của Harburg trừ Hungary, nơi Karl chỉ thuyết phục được họ chấp thuận sắc lệnh năm 1723). Hoàng đế ủng hộ quyền kế vị của con gái mình đứng trên các con gái của huynh trưởng Joseph I, và liên tục phủ nhận Hiệp định thừa kế Mutual mà ông đã ký dưới thời phụ thân, Leopold I. Trong 20 năm tiếp theo, Karl tranh thủ sự ủng hộ của các liệt cường châu Âu khác.

thumb|left|Karl VI với vợ và các con gái năm 1730.

Trong một thời gian ngắn, có vẻ như, Sắc lệnh thực dụng không phát huy tác dụng khi Elisabeth Christine hạ sinh một hoàng nam năm 1716. Nhưng cậu bé lại chết yểu. Một năm sau, Maria Theresia, người con lớn tuổi nhất còn sống tới khi trưởng thành của ông chào đời. Người đương thời viết rằng trong buổi lễ rửa tội của cô bé, Karl, mặc dù cố gắng lắm vẫn không giấu được nỗi thất vọng về giới tính của đứa bé. Năm sau một hoàng nữ nữa ra đời, Maria Anna.

Karl đã thành công trong Chiến tranh Áo-Thổ Nhĩ Kì 1716–18, sáp nhập Banat vào Hungary, và xác lập quyền cai trị của người Áo lên Serbia và Oltenia (Lesser Wallachia).

Chiến tranh liên minh bốn bên (1718-1720) diễn ra. Nó cũng khép lại bằng chiến thắng của người Áo; với Hiệp ước The Hague (1720), Karl đổi Sardinia, cho Công tước xứ Savoy, Victor Amadeus, để lấy Sicily, đảo lớn nhất tại Địa Trung Hải, nơi khó bảo vệ hơn Sardinia. Hiệp ước cũng công nhận con trai của Felipe V của Tây Ban Nha, Don Carlos (về sau là Charles III của Tây Ban Nha), là người kế tự Công quốc Parma và Đại Công quốc Tuscany; dù Charles trước đó đã xác nhận quyền thừa kế của Đại Công tước đương nhiệm, Anna Maria Luisa, Nữ Tuyển hầu Palatine.

Năm 1722, Karl thành lập Công ty Ostend để tăng cường giao lưu thương mại giữa châu Âu với Đông Ấn, Tây Ấn và Phi châu. Hợp đồng có hiệu lực trong 30 năm. Quốc khố của Áo nhận thêm từ 3 đến 6 phần trăm lợi tức hằng năm. Công ty cạnh tranh lợi ích với người Anh và Hà Lan và trong Hội nghị Vienna (1731), ông giải tán công ty để đổi lấy sự công nhận Sắc lệnh thực dụng của người Anh.

thumb|Hoàng hậu Elisabeth Christine, họa phẩm của [[Christoph Bernhard Francke, 1712.]]

Hòa bình ở châu Âu bị phá vỡ bởi Chiến tranh Kế vị Ba Lan (1733–1738), một cuộc tranh chấp ngai vàng giữa Augustus của Saxony, con trai lớn của vua trước, và Stanisław Leszczyński. Áo hỗ trợ Augustus, Pháp hỗ trợ Stanislaw; sau đó chiến tranh nổ ra. Với Hiệp ước Vienna (1738), Augustus lên ngôi nhưng Karl phải trao Vương quốc Naples cho Don Carlos, đổi lấy vùng đất nhỏ hơn là Công quốc Parma.

Việc chỉ hôn cho Maria Theresia được tiến hành từ khi cô còn nhỏ. Ban đầu bà được hứa gả Léopold Clément xứ Lorraine, người được cho là đã đi đến Vienna và gặp Maria Theresia. Nhưng ông qua đời vì bệnh đậu mùa năm 1723, khiến cho Maria Theresia thất vọng. Em trai Léopold Clément, Francis Stephen, được đưa đến Vienna và thay thế ông. Karl còn để ý đến những người khác (chẳng hạn Don Carlos) trước khi chấp nhận Francis. Vào cuối cuộc chiến kế vị Ba Lan, Pháp buộc Francis dâng Công quốc Lorraine (lãnh thổ thừa kế của ông), cho Stanisław Leszczyński, vua bị lật đổ của Ba Lan, sau khi ông ta chết đất này nhập vào ngôi vua Pháp. Karl yêu cầu Francis bỏ quyền kế vị ở Lorraine và nói với ông: "Từ bỏ, hoặc là không có được Nữ Đại Công tước." Francis chấp thuận; ông thành hôn với Maria Theresia tháng 2, 1736, và Lorraine được chuyển cho Stanisław vào tháng 7, 1737.

Năm 1737, Hoàng đế tiến hành cuộc chiến tranh với người Thổ và liên minh với Nga quốc. Không như cuộc chiến tranh trước, chiến tranh lần này kết thúc với thất bại của Áo. Phần lớn lãnh thổ đã lấy được trong năm 1718 (trừ Banat) đã bị chiếm lại. Sự bất mãn hình thành vì chi phí chiến tranh tốn kém, và người ta coi nhà cai trị Vienna; Francis của Lorraine, chồng Maria Theresia, là một điệp viên của người Pháp tại thành Vienna. Cuộc chiến phơi bày tình trạng tồi tệ của quân đội Áo, không đủ sức mạnh tài chính để duy trì cuộc chiến lâu dài mà không có sự hỗ trợ.

Qua đời và di sản

left|thumb|[[Euro gold and silver commemorative coins (Austria)#2006 coinage|Đồng xu kỷ niệm Tu viện Göttweig có hình Hoàng đế Karl VI]]

thumb|Cái chết của hoàng đế ([[Harper's New Monthly Magazine, Vol. 40, 1870).]]

Khi Karl qua đời, các lãnh thổ của nhà Habsburg ngập tràn trong nợ nần; quốc khố còn 100,000 florins; tình trạng đào ngũ lan tràn trong quân đội, lan đến doanh trại của Hoàng đế. Người đương thời mong rằng Áo-Hungary sẽ giải phóng khỏi ách nhà Habsburg sau khi ông chết. tại Favorita Palace, Vienna, vào ông chết ngày 20 tháng 10 năm 1740 ở Hofburg. Trong quyển Memoirs của mình, Voltaire viết rằng nguyên nhân gây ra cái chết Charles là do ăn phải nấm độc. Karl chết, và Sắc lệnh thực dụng bị bác bỏ. Maria Theresia buộc phải dùng đến vũ lực để bảo vệ quyền thừa kế các lãnh thổ của bà trước sự đe dọa của Phổ, Bavaria, Pháp, Tây Ban Nha, Saxony và Ba Lan-khi liên quân các nước tiến sát biên giới Áo quốc sau cái chết của cha bà. Trong Chiến tranh Kế vị Áo, Maria Theresia bảo vệ được ngai vàng và phần lớn lãnh thổ nhưng bị mất vùng đất giàu có Công quốc Silesia cho người Phổ và Công quốc Parma cho người Tây Ban Nha.

Con cái

Danh hiệu và huy hiệu

Danh xưng

1 tháng 1685 – 12 tháng 10 năm 1711 His Royal Highness Đại Công tước Karl của Áo 1 tháng 11 năm 1700 – 12 tháng 10 năm 1711 His Majesty Vua của Tây Ban Nha 12 tháng 10 năm 1711 – 20 tháng 10 năm 1740** His Imperial Majesty Hoàng đế La Mã Thần thánh

Danh hiệu đầy đủ

Chức danh đầy đủ của Karl trên cương vị hoàng đế và người cai trị các vùng đất của nhà Habsburg cũng như người đòi ngôi vua Tây Ban Nha là: Karl, Nhờ ân điển của Chúa, Hoàng đế La Mã Thần thánh, vĩnh viễn đáng kính, Vua ở Đức, Castile, Aragon, Leon, kể cả Sicilies, Jerusalem, Hungary, Bohemia, Dalmatia, Croatia, Slavonia, Rama, Serbia, Galitia, Lodomeria, Cumania, Navarra, Grenada, Toledo, Valencia, Galicia, Mallorca, Sevilla, Sardinia, Cordova, Corsica, Murcia, Jaen, Algarve, Algeciras, Gibraltar, quần đảo Canary, những hòn đảo của Ấn Độ và đại lục của biển, Đại vương công Áo, Công tước xứ Burgundy, Brabant, Milan, Styria, Carinthia, Carniola, Limburg, Luxemburg, Gelderland, Württemberg, Upper và Hạ Silesia, Calabria, Athens và Neopatria, Vương công Swabia, Catalonia, Asturia, bá tước của Thánh chế La Mã, của Burgau, Moravia, Thượng và Hạ Lusatia, Hoàng thân Bá tước Habsburg, Flanders, Tyrol, ferrette, Kyburg, Gorizia, Artois, Lãnh chúa Alsace, bá tước Oristano, Bá tước của Goceano, Namur, Roussillon, Cerdagne, Lãnh chúa của Wendish March, Pordenone, Biscay, Molina, Salins, Tripoli và Mechelen, vv

Huy hiệu

|}

Tổ tiên

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Karl VI của Thánh chế La Mã** (; 1 tháng 10 năm 1685 – 20 tháng 10 năm 1740) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 1711 đến 1740. Ông đã kế thừa ngai
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua
**François I** (tiếng Pháp) hay **Franz I** (tiếng Đức) (8 tháng 12 năm 1708 – 18 tháng 8 năm 1765)), còn được gọi là **François Étienne** (tiếng Pháp) hoặc **Franz Stephan** (tiếng Đức), là Hoàng
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Ferdinand II** (sinh ngày 9 tháng 7 năm 1578 – mất ngày 15 tháng 2 năm 1637) một thành viên của Gia tộc Habsburg là Hoàng đế của Thánh chế La Mã (1619–1637), Vua của
**Joseph I** (Joseph Jacob Ignaz Johann Anton Eustachius; 26 tháng 6 1678 – 17 tháng 4 năm 1711) là Hoàng đế Thánh chế La Mã và là con trai cả của Leopold I với người
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Ferdinand I** () (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1503 tại Alcála de Henares (gần Madrid), Vương quốc Castilla – 25 tháng 7, 1564 tại Praha, Bohemia nay là Tiệp Khắc) là một quốc vương
**Sigismund của Luxemburg** (14 tháng 2, 1368 - 9 tháng 12, 1437) (tiếng Đức: _Siegmund von Luxemburg_) là tuyển hầu tước của công quốc Brandenburg từ 1378 cho đến 1388 và từ 1411 cho đến
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
**Karl VII** (6 tháng 8 năm 1697 – 20 tháng 1 năm 1745) là Tuyển hầu tước của Bayern từ năm 1726 và là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 24 tháng 1 năm
**Joseph II** (tên đầy đủ là **Joseph Benedikt Anton Michael Adam**; sinh ngày 13 tháng 3 năm 1741, mất ngày 20 tháng 2 năm 1790) là Hoàng đế của đế quốc La Mã Thần thánh
**Karl I xứ Braunschweig-Wolfenbüttel** (1 tháng 08 năm 1713, Braunschweig - 26 tháng 03 năm 1780, Braunschweig), đôi khi viết là **Carl I**, là Công tước xứ Braunschweig và Lüneburg (_Herzöge zu Braunschweig und Lüneburg_)
**Leopold II** (tiếng Đức: _Peter Leopold Josef Anton Joachim Pius Gotthard_; tiếng Ý: _Pietro Leopoldo Giuseppe Antonio Gioacchino Pio Gottardo_; tiếng Anh: _Peter Leopold Joseph Anthony Joachim Pius Godehard_; 5 tháng 5 năm 1747 1
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**Nhà Liechtenstein** (tiếng Đức: _Haus Liechtenstein_) là gia tộc hoàng gia cai trị Thân vương quốc Liechtenstein, theo luật định, chỉ có những thành viên gia tộc này mới đủ điều kiện thừa kế ngai
**Chiến tranh Kế vị Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Wojna o sukcesję polską_; tiếng Anh: _War of the Polish Succession_; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
**Tuyển hầu quốc Hannover** ( hoặc đơn giản là _Kurhannover_; ) là một Tuyển hầu quốc của Đế quốc La Mã Thần thánh, toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức hiện nay. Tên của nó
**Liechtenstein** (, phiên âm: _"Lích-tân-xtai"_) (), tên chính thức **Thân vương quốc Liechtenstein** (), là một quốc gia vùng Alps nhỏ bao quanh bởi các nước không giáp biển ở Trung Âu, giáp với các
**Tuyển hầu xứ Sachsen** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Sachsen_, cũng được gọi là _Kursachsen_) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập sau khi Hoàng đế Karl IV nâng Công
**Công quốc Milano** (tiếng Ý: _Ducato di Milano_; tiếng Lombard: _Ducaa de Milan_) là một nhà nước ở Bắc Ý, được thành lập vào năm 1395 bởi Gian Galeazzo Visconti, khi đó là lãnh chúa
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Công quốc Sachsen-Weimar** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Weimar_) là một trong những nhà nước của Các công quốc Ernestine do nhánh Ernestine của triều đại Wettin nắm giữ ở bang Thuringia, Đức ngày nay, vì thế
**Chiến tranh Kế vị Áo** là một cuộc chiến bắt đầu với lý do rằng Nữ vương công Áo Maria Theresia không đủ điều kiện để ngồi lên ngai vàng Habsburg của cha mình, Karl
**Vương miện của Thánh Václav** (_Svatováclavská koruna_) là một chiếc vương miện thuộc bộ báu vật hoàng gia của xứ Bohemia, được làm vào năm 1346. Hoàng đế Karl IV của Thánh chế La Mã,
**Lãnh địa Frisia** (Tiếng Tây Frisia: _Hearlikheid Fryslân_; tiếng Hà Lan: _Heerlijkheid Friesland_) là một lãnh địa phong kiến ​​ở Hà Lan. Nó được thành lập vào năm 1498 bởi Hoàng đế Maximilian I của
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Công quốc Oldenburg** (tiếng Đức: _Herzogtum Oldenburg_) là một nhà nước lịch sử toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức ngày nay. Tên của nó được đặt theo thị trấn Oldenburg, đồng thời cũng là
nhỏ|491x491px| Cận cảnh thanh gươm Thánh **Thanh gươm của Thánh Václav** (tiếng Séc: _Meč svatého Václava_) hay còn được gọi là **thanh gươm đăng quang của xứ Bohemia** (_Korunovační meč Čech)_ là một thanh gươm
**Friedrich Wilhelm II** (25 tháng 9 năm 1744 – 16 tháng 11 năm 1797) là vị vua thứ 4 của Vương quốc Phổ, tại vị từ năm 1786 cho đến khi qua đời vào năm
**Lãnh địa Groningen** (tiếng Hà Lan: _Heerlijkheid Groningen_) là một vùng đất lịch sử do một lãnh chúa cai trị nằm dưới quyền của Quân chủ Habsburg, chính thức thành lập vào năm 1536, sau
**Lãnh địa Overijssel** hay **Overissel** (tiếng La Tinh: Transisalania, tiếng Hà Lan: Heerlijkheid Overijssel, tiếng Anh: Lordship of Overijssel) là một lãnh địa được lập ra bởi Nhà Habsburg vào năm 1528, từ một phần
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Công quốc Lorraine** ( ; ) ban đầu có tên là **Thượng Lorraine**, là một Công quốc thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh, lãnh thổ của nó hiện nay nằm trong Vùng Lorraine, Đông
nhỏ|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Thần thánh của Hungary (Vương miện của Thánh Stephen)]] **Lễ đăng quang của quốc vương Hungary** là một buổi lễ trong đó vua hoặc nữ vương của Vương quốc
thumb|[[Tuyển đế hầu Berthold von Henneberg, Giám mục vương quyền xứ Mainz, người đã đề nghị lập ra Chính phủ đế chế đầu tiên]] **Chính phủ đế quốc** (tiếng Đức: Reichsregiment; tiếng Anh: _Imperial Government_)
**Henri II** (tiếng Pháp: Henri II; 31 tháng 3 năm 1519 – 10 tháng 7 năm 1559) là Vua của Pháp từ ngày 31 tháng 3 năm 1547 cho đến khi ông qua đời vào
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**Tuyển hầu xứ Württemberg** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Württemberg_) là một nhà nước tồn tại trong thời gian ngắn trong Đế chế La Mã Thần thánh ở hữu ngạn sông Rhein. Năm 1803, Đệ Nhất Tổng
**Wenzel IV của Bohemia** (; còn được gọi là Wenzel _der Faule_) (26 tháng 2 năm 1361 - 16 tháng 8 năm 1419) thừa kế ngôi Vua của Bohemia 1363 và được bầu làm Vua
**María Ana của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Ana de España_, tiếng Đức: _Maria Anna von Spanien_; tiếng Anh: _Maria Anna of Spain_; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Maria Anna của Áo** (_Maria Anna von Österreich_) có thể chỉ đến những người sau: * Maria Anna của Áo (1606–1646), con gái của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, Hoàng