✨María Ana của Tây Ban Nha

María Ana của Tây Ban Nha

María Ana của Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: María Ana de España, tiếng Đức: Maria Anna von Spanien; tiếng Anh: Maria Anna of Spain; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5 năm 1646) là Vương nữ Tây Ban Nha và là Hoàng hậu La Mã Thần thánh, Vương hậu Hungary và Bohemia thông qua cuộc hôn nhân với Ferdinand III của Thánh chế La Mã. María Ana từng nhiều lần đảm nhiệm vai trò nhiếp chính trong thời gian chồng vắng mặt, đặc biệt là khi Ferdinand III ở Bohemia năm 1645.

Là con gái của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, trước khi kết hôn với Ferdinand III, María Ana được coi là người vợ tiềm năng của Charles I của Anh (bấy giờ là Thân vương xứ Wales). Sự kiện này được biết đến trong lịch sử gọi là "Hôn ước Tây Ban Nha" (the Spanish match), đã gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị trong nội bộ Vương quốc Anh và Scotland. Tại triều đình Viên, María Ana tiếp tục thể hiện văn hóa Tây Ban Nha bản địa của mình, từ quần áo đến âm nhạc và cũng thúc đẩy việc thắt chặt mối quan hệ giữa nhánh Đế quốc và nhánh Tây Ban Nha của Hoàng tộc Habsburg.

Những năm đầu đời

María Ana của Tây Ban Nha sinh ra tại Cung điện El Escorial, gần Madrid, vào ngày 18 tháng 8 năm 1606, là con thứ tư và là con gái thứ ba của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, Nữ Đại vương công Áo thuộc nhánh Nội Áo của Hoàng tộc Habsburg. Trong số bảy anh chị em của María Ana, chỉ có bốn người sống qua tuổi ấu thơ: Ana (sau này là vợ của Louis XIII của Pháp), Felipe IV của Tây Ban Nha, Carlos (qua đời khi còn trẻ vào năm 1632) và Fernando (sau này là Hồng y-Infante và Thống đốc của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha). Cha mẹ của María Ana, tức là Felipe III và Margarete có quan hệ họ hàng gần và có rất nhiều liên hệ với nhau thông qua hôn nhân của tổ tiên: thông qua cha của Felipe III, Felipe III chính là anh họ của Margarete và thông qua mẹ của Quốc vương, Felipe III là cháu gọi cô lẫn dì của Margarete. Ngoài ra, Margarete cũng là em họ của Felipe III thông qua mẹ. María Ana được rửa tội vào ngày 8 tháng 9, ngày Lễ sinh nhật của Đức Maria và được đỡ đầu bởi chị gái Ana và Francisco de Sandoval y Rojas, Công tước thứ 1 xứ Lerma.

Đính hôn

Ngay từ khi còn nhỏ, María Ana đã có một vai trò quan trọng trong các dự tính hôn nhân của Felipe III. Ở tuổi thiếu niên, Vương nữ được hứa hôn với Đại vương công Johann Karl, con trai cả và là người thừa kế của Ferdinand II của Thánh chế La Mã và người vợ đầu là Maria Anna xứ Bayern và cũng là anh họ của Vương nữ. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân không diễn ra vì Johann Karl đã qua đời vào năm 1618.

Năm 1622, Quốc vương James I của Anh nhận được lời đề nghị gả María Ana từ Felipe IV của Tây Ban Nha, anh trai của María Ana để thắt chặt mối quan hệ giữa hai quốc gia thông qua cuộc hôn nhân giữa Vương tử Charles, Thân vương xứ Wales và Infanta María Ana. Bản thân James I mong rằng cuộc hôn nhân giữa Charles và María Ana sẽ khiến Tây Ban Nha trao trả lại vùng Pfalz cho vợ chồng con gái Elizabeth. Phía Luân Đôn và Madrid bắt đầu có những hoạt động đàm phán tích cực. Cuộc hôn nhân tiềm năng giữa Thân vương xứ Wales và Infanta Tây Ban Nha được biết đến trong lịch sử với cái tên "Hôn ước Tây Ban Nha" (The Spanish match) và gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ ở cả Anh và Scotland. Năm 1623, Thân vương xứ Wales cùng với George Villiers, Công tước thứ 1 xứ Buckingham, đến thăm Madrid để gặp nàng dâu sắp cưới. Tuy nhiên, María Ana thà vào tu viện còn hơn là kết hôn với tín hữu Kháng Cách và Charles sẽ không cải sang Công giáo. Cuối cùng, cuộc hôn nhân không diễn ra vì lý do chính trị cũng như vì sự miễn cưỡng của vị tân vương của Tây Ban Nha trong việc thiết lập hôn nhân với Vương tộc Stuart dù bên Anh đã chấp nhận một hiệp ước rất có lợi cho phía Tây Ban Nha. Charles sau cùng đã kết hôn với một người Công giáo sùng đạo là Henriette Marie của Pháp thuộc Vương tộc Bourbon.

Hôn nhân

Cuối năm 1626, María Ana đính hôn với Đại vương công Ferdinand, em trai của vị hôn phu đầu tiên của Vương nữ và là trữ quân mới của Hoàng đế Ferdinand II. Lễ đính hôn chính thức diễn ra trước một loạt cuộc đàm phán được tiến hành vào năm 1625. Cùng năm đó, Ferdinand lên ngôi Quốc vương Hungary, và năm 1627, Ferdinand trở thành Quốc vương Bohemia. Nội dung của các cuộc đàm phán là về cuộc sống của María Ana tại triều đình của người chồng tương lai. Bất chấp mong muốn của Ferdinand rằng cha giải tội của María Ana sẽ là Tu sĩ Dòng Tên Ambrosio de Peñalosa, Diego Quiroga là người được bổ nhiệm. Theo thỏa thuận hôn nhân được hai bên ký kết vào năm 1628 có ghi rằng María Ana có thể giữ quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha, nhưng chị gái của Vương nữ là Ana, người kết hôn với Louis XIII của Pháp năm 1615, thì buộc phải từ bỏ quyền thừa kế.

Tháng 12 năm 1629, María Ana rời Madrid đến Viên, tròn ba năm sau khi đính hôn và gần năm năm sau khi lời hỏi cưới lần đầu được đề xuất. Chuyến hành trình phải mất hơn một năm mới hoàn thành. Trên đường đi bằng đường biển ở Genova, đã có sự cố phát sinh do một trận dịch hạch bùng phát ở Bán đảo Ý. Vì lý do đó, đoàn người không thể dừng lại ở Bologna, nơi Hồng y Antonio Barberini, cháu trai của Giáo hoàng Urbanô VIII, đang đợi Vương nữ đến để trao Hoa hồng Vàng. Đoàn người chuyển đến Napoli và María Ana đã nhận được Hoa hồng Vàng tại đây. Infanta sau đó di chuyển qua Lãnh địa Giáo hoàng sau khi Vương nữ thực hiện chuyến hành hương đến Vương cung Thánh đường Thánh Casa. Trong đoạn hành trình đó, María Ana được tầng lớp quý tộc ở Roma tháp tùng, dẫn đầu bởi một người cháu khác của Giáo hoàng Urbanô VIII là Taddeo Barberini, Thân vương xứ Palestrina. Ngày 26 tháng 1 năm 1631, Vương nữ đến Trieste và gặp Đại vương công Leopold Wilhelm của Áo, em chồng tương lai của mình. Ngay ngày hôm đó, María Ana kết hôn với Quốc vương Ferdinand của Hungary và Bohemia theo phương thức ủy nhiệm, với người đại diện cho Ferdinand là Leopold Wilhelm. Sau hôn lễ, Leopold Wilhelm hộ tống María Ana đến Viên.

Trước hôn lễ chính thức, vì không tin tưởng vào những bức chân dung trước đó mà mình đã nhìn thấy về ngoại hình của Vương nữ, Ferdinand đã bí mật gặp mặt cô dâu của mình. Ngài Oberhofmeister (tạm dịch: quản sự) yêu cầu được diện kiến María Ana. Trong chuyến thăm, Ferdinand đi cùng với một số quý tộc. Bị ấn tượng bởi vẻ đẹp của Vương nữ, Ferdinand ngay lập tức tiết lộ danh tính và bắt chuyện với María Ana bằng tiếng Tây Ban Nha. Tình yêu và sự tôn trọng mà vị Ferdinand dành cho vợ kéo dài trong suốt cuộc hôn nhân của hai người. Ferdinand một lòng với María Ana và không bao giờ có con ngoại hôn.

Ngày 20 tháng 2 năm 1631, tại Viên, María Ana kết hôn với Quốc vương Ferdinand của Hungary và Bohemia. Lễ hội mừng lễ cưới của hai người kéo dài một tháng. Cuộc hôn nhân được mô tả là hòa hợp. María Ana được miêu tả là người vui tính, thân thiện và thông minh, tân Vương hậu đã xoa dịu tính cách u sầu của Ferdinand.

Hoàng hậu La Mã Thần thánh và Vương hậu Đức

trái|nhỏ|267x267px| Bức chân dung Infanta María Ana của Tây Ban Nha bởi [[Felipe Diricksen, 1630 (Bảo tàng Nghệ thuật Portland)]]María Ana đến triều đình Viên với thời trang, kịch sân khấu, khiêu vũ và âm nhạc mang phong cách Tây Ban Nha (bao gồm cả tiếng guitar đầu tiên). Với tư cách là vợ của người thừa kế, María Ana duy trì mối quan hệ tốt đẹp với tất cả các thành viên trong gia đình chồng, nhưng Vương nữ có mối quan hệ phức tạp với mẹ kế của Ferdinand là Hoàng thái hậu Eleonora Gonzaga, người chỉ lớn hơn María Ana tám tuổi, chủ yếu là do sự cạnh tranh giữa hai người trong việc giành ảnh hưởng tại triều đình. María Ana cũng dành nhiều sự quan tâm cho nghệ thuật, đặc biệt là hội họa. Vương nữ đã sưu tầm các tác phẩm của các họa sĩ người Ý, Tây Ban Nha và Flemish cuối thời kỳ Phục hưng và đầu thời kỳ Baroque.

Tại Regensburg, ngày 22 tháng 12 năm 1636, Ferdinand được bầu làm Quốc vương La Mã Đức, và một tuần sau, Ferdinand được Tổng giám mục Mainz trao Vương miện. María Ana đăng cơ với tư cách là Vương hậu Đức một tháng sau đó, vào ngày 21 tháng 1 năm 1637. Sau cái chết của cha vào ngày 15 tháng 2 năm 1637, Ferdinand trở thành tân Hoàng đế La Mã Thần thánh với đế hiệu Ferdinand III và cũng trở thành Quốc vương cai trị Hungary và Bohemia. María Ana do đó cũng trở thành Hoàng hậu La Mã Thần thánh và Vương hậu thực sự của Hungary và Bohemia. Lễ đăng cơ của María với tư cách là Vương hậu Hungary được cử hành tại Pressburg.

María Ana tham gia chính trị với tư cách là cố vấn cho chồng, là người hòa giải giữa Hoàng đế và họ hàng bên Tây Ban Nha. Dù luôn bảo vệ quyền lợi của chồng nhưng María Ana cũng không quên quyền lợi của các anh em trai là Quốc vương Felipe IV và Hồng y-Infante Fernando.

Qua đời

Vào tháng 3 năm 1645 María Ana và các con rời khỏi Linz vì sự đổ bộ của quân đội Thụy Điển Kháng Cách và chuyển đến Viên. Đến tháng 4, quân Thụy Điển chuẩn bị vượt sông Danube và đe dọa chiếm đóng thành phố. Hoàng thất do đó tạm thời chạy trốn đến Graz. Sau khi trở về Viên, María Ana và gia đình lại buộc phải chuyển đến Linz vì bệnh dịch. Lần mang thai thứ sáu của María Ana được ghi nhận vào tháng 1 năm 1646. Bốn tháng sau, vào ngày 12 tháng 5, tại lâu đài Linz, María Ana đột nhiên cảm thấy sốt, chảy nhiều máu và qua đời vào sáng hôm sau. Đứa trẻ trong bụng của María Ana được mổ lấy ra và được đặt tên là Maria nhưng chỉ sống được vài giờ. Ngày 24 tháng 5, cả hai mẹ con được đặt trong cùng một quan tài, được chuyển đến Viên và chôn cất trong Hầm mộ Hoàng gia, nơi chứa sẵn quan tài chứa hài cốt của hai người con trai đã qua đời trước đó của María Ana. Đoàn tang lễ được tháp tùng bởi đại sứ Tây Ban Nha và các thị nữ của Hoàng hậu. Rất đau buồn trước cái chết của vợ con, Hoàng đế không thể đến dự tang lễ. Tuy nhiên, sau khi trở về Viên vào cuối tháng 8, Ferdinand III cũng đã bày tỏ lòng kính trọng đối với hài cốt của vợ, và vào tháng 9, Ferdinand III tuyên bố lễ đính hôn của con gái lớn Maria Anna với Baltasar Carlos của Tây Ban Nha, Thân vương xứ Asturias. Tuy nhiên, Vương tử đã qua đời chỉ một tháng sau đó. Các thành viên trong hộ gia (household) của cố Hoàng hậu, những người đa theo María Ana từ Tây Ban Nha, gồm có cha giải tội và các thị nữ, đã sống tại triều đình Viên thêm vài năm sau khi Hoàng hậu qua đời.

Con cái

María Ana và Ferdinand III có sáu người con:

Năm 1634, nhà thơ kiêm viết kịch người Tây Ban Nha là Pedro Calderón de la Barca, để vinh danh chiến thắng của quân Tây Ban Nha và Áo trước quân Thụy Điển trong trận Nördlingen, đã dựng một buổi biểu diễn ở Madrid trong đó María Ana, cùng chồng là một trong số các diễn viên.

Ngoại trừ một vài bức chân dung của María Ana khi còn nhỏ thì hầu hết đều nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Kunsthistorisches ở Viên. Bức chân dung đầu tiên được họa bởi Juan Pantoja de la Cruz, khi Vương nữ được một tuổi. Bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Portland bao gồm một bức chân dung của María Ana trong những năm 1630, được họa bởi Felipe Diriksen. Một bức chân dung khác của Infanta María Ana, bấy giờ là Vương hậu Hungary và Bohemia được Diego Velázquez, họa sĩ cung đình Madrid thực hiện và hiện là một phần trong bộ sưu tập của Bảo tàng Prado. Các bức chân dung của Hoàng hậu do Frans Luycx (họa sĩ tại cung đình Viên), Bartolomé González y Serrano, Rodrigo de Villandrando, Justus Sustermans, Juan van der Hamen và các họa sĩ vô danh khác thực hiện được lưu giữ trong bộ sưu tập của Bảo tàng Kunsthistorisches, Bảo tàng Prado, phòng trưng bày của Cung điện Esterházy ở Eisenstadt và Bảo tàng Fesch ở Ajaccio.

Image:Juan Pantoja de la Cruz 006.jpg|**_Infantin Maria Anna, Kaiserin, im Alter von 4 bis 5 Monaten, Bildnis in ganzer Figur_** (1607), by Juan Pantoja de la Cruz, Bảo tàng Kunsthistorisches, Viên. Image:Maria Anna, Infanta of Spain, future Holy Roman Empress by Bartolomé González, c. 1608-1610.jpg|**_Maria Anna, Infanta of Spain, Later Archduchess of Austria, Queen of Hungary and Empress, as a child_**, bởi Bartolomé González y Serrano, National Trust, Cliveden. Image:Bartolomé González y Serrano 006.jpg|**_Infantin Maria Anna, Kaiserin, in ganzer Figur_** (1617), bởi Bartolomé González y Serrano, Bảo tàng Kunsthistorisches, Viên. Image:Retrato de la Infanta María Ana de Austria, por Felipe Diriksen.jpg|**_Retrato de la infanta María Ana de Austria_** (1630), bởi Felipe Diricksen, Bảo tàng Nghệ thuật Portland. Image:Luycks-maria reina de hungria-prado.jpg|**_María de Austria, reina de Hungría_** (1635), bởi Frans Luycx, Bảo tàng Prado, Madrid. Image:Juan van der Hamen y León - Infanta María de Austria.jpg|**_María Ana de Austria_** (c. 1630), bởi Juan van der Hamen, Bảo tàng Fesch, Ajaccio. Image:FerdinandIII.MariaAnna.JPG|**_Ölgemälde von Ferdinand III. von Habsburg und seiner ersten Gemahlin Maria Anna von Spanien_** (1628/30) bởi Justus Sustermans, Schloss Esterházy, Eisenstadt. Image:Maria Anna of Austria, Holy Roman Empress with her son Archduke Ferdinand by an unknown artist.jpg|**_Infantin Maria Anna, Kaiserin, in ganzer Figur mit ihrem erstgeborenen Sohn Ferdinand_** (1634), họa sĩ vô danh, Bảo tàng Kunsthistorisches, Viên.

Gia phả

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**María Ana của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Ana de España_, tiếng Đức: _Maria Anna von Spanien_; tiếng Anh: _Maria Anna of Spain_; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5
**Ana của Tây Ban Nha, hay Ana của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Ana María Mauricia de Austria y Austria-Estiria_ hay _Ana de España_; tiếng Đức: _Anna von Österreich_; tiếng Bồ Đào Nha: _Ana da
**María Teresa của Tây Ban Nha**, **Maria Theresia của Áo** hay **María Teresa của Áo và Borbón** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Austria y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Thérèse d'Autriche_; tiếng Bồ Đào Nha:
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**Amalia của Tây Ban Nha hay Amalia de Borbón y Borbón-Dos Sicilias** (tiếng Tây Ban Nha: _Amalia de España_; tiếng Đức: _Amalia von Spanien_; 12 tháng 10 năm 1834 – 27 tháng 8 năm 1905)
**Beatriz của Tây Ban Nha** hay **Beatriz de Borbón y Battenberg** (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: _Beatrice of Spain_; tiếng Scotland: _Beatrice o Spain_; tiếng Ý: _Beatrice di Borbone-Spagna_; tiếng Đức:
**Margarita Francisca của Tây Ban Nha, hay Margarida của Bồ Đào Nha, Margarete của Áo, Margarita de Habsburgo** (25 tháng 5 năm 1610 - 11 tháng 3 năm 1617) là một Vương nữ Tây Ban
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
phải|nhỏ|299x299px| Vương huy của Vương tử Gabriel của Tây Ban Nha. **Gabriel của Tây Ban Nha** (tên đầy đủ: _Gabriel Antonio Francisco Javier Juan Nepomuceno José Serafín Pascual Salvador_; 12 tháng 5 năm 1752 –
**Vương tộc Borbón**, hay **Borbón-Anjou**, là vương tộc hiện đang trị vì Tây Ban Nha, xuất phát từ Vương tộc Bourbon có nguồn gốc từ Pháp, khi Philippe của Pháp, Công tước xứ Anjou trở
**Margarete của Áo** (25 tháng 12 năm 1584 – 3 tháng 10 năm 1611) là Vương hậu Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thông qua cuộc hôn nhân của với Felipe III của Tây
**Letizia Ortiz Rocasolano** (; ngày 15 tháng 9 năm 1972) là Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Felipe VI của Tây Ban Nha. Cũng như hầu hết
**Các lâu đài ở Tây Ban Nha** được xây dựng với mục đích phòng thủ. Trong suốt thời kì Trung Cổ, các vương quốc Kitô phía bắc tranh chấp biên giới lãnh thổ với các
Giới từ của tiếng Tây Ban Nha—như giới từ trong các ngôn ngữ khác—là bộ các từ nối (như là _con_, _de_ hoặc _para_) có mục dích chỉ mối quan hệ giữa một từ nội
Dom **Carlos I** (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [ˈkaɾluʃ]; tiếng Anh: _King Charles of Portugal_; 28 tháng 9 năm 1863 - 1 tháng 2 năm 1908), còn được gọi là **Nhà ngoại giao** (tiếng
**Mariana Vitória của Bồ Đào Nha** (hoặc của Bragança; ; tên đầy đủ: _Mariana Vitória Josefa Francisca Xavier de Paula Antonieta Joana Domingas Gabriela de Bragança_ ; ; 15 tháng 12 năm 1768 – 2
**Maria Benedita của Bồ Đào Nha** (Maria Francisca Benedita Ana Isabel Antónia Lourença Inácia Teresa Gertrudes Rita Rosa; 25 tháng 7 năm 1746 – 18 tháng 8 năm 1829) là một Infanta của Bồ Đào
**Élisabeth của Pháp** hay **Isabelle của Bourbon** (22 tháng 11 năm 1602 – 6 tháng 10 năm 1644) là con gái của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici cũng như là Vương hậu
**Marie Louise của Orléans** (tiếng Pháp: _Marie-Louise d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de Orleans_; 26 tháng 3 năm 1662 – 12 tháng 2 năm 1689) là một _petite-fille de France_ (_Cháu gái nước
**Maria Anna của Áo** (_Maria Anna von Österreich_) có thể chỉ đến những người sau: * Maria Anna của Áo (1606–1646), con gái của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, Hoàng
**Ana de Jesus Maria của Bồ Đào Nha, hay Ana de Jesus Maria của Bragança** (_Ana de Jesus Maria Luísa Gonzaga Joaquina Micaela Rafaela Sérvula Antónia Francisca Xavier de Paula de Bragança e Bourbon_; Mafra,
**Maria Ana Francisca của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Maria Ana Francisca de Portugal_; tên đầy đủ: _Maria Ana Francisca Josefa Rita Joana_; 7 tháng 10 năm 1736 – 16 tháng 5 năm
Dom **Pedro I** (tiếng Việt:Phêrô I; 12 tháng 10 năm 1798 – 24 tháng 9 năm 1834), biệt danh "Người Giải phóng", là người thành lập và nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc Brasil. Với
**Anna của Áo** (, ; 2 tháng 11 năm 1549 – 26 tháng 10 năm 1580), là Nữ Đại vương công Áo, sau thành Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha, María de las Mercedes của Orléans, María de las Mercedes de Orleans y Borbón hay Mercedes của Orléans** (tiếng Tây Ban Nha: _María de las Mercedes de
**Ferdinand III** (13 tháng 7 năm 1608 – 2 tháng 4 năm 1657) là Hoàng đế La Mã Thần thánh (15 tháng 2 năm 1637 – 1657). ## Cuộc đời Là con trưởng của Hoàng
**Maria Adelaide của Savoia** (6 tháng 12 năm 1685 – 12 tháng 2 năm 1712), hay còn được biết với tên tiếng Pháp là **Marie Adélaïde**, là vợ của Louis của Pháp, Công tước xứ
**Sevilla** là thành phố nằm ở phía nam Tây Ban Nha, là thành phố lớn nhất và thủ phủ của vùng Andalucía và tỉnh Sevilla, nằm ở hạ lưu sông Guadalquivir, nơi có cảng cho
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Henriette Marie của Pháp** (tiếng Pháp: _Henriette Marie de France_; 25 tháng 11, năm 1609 – 10 tháng 9, năm 1669) là Vương hậu của Vương quốc Anh, Ireland và Scotland với tư cách là
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**Ana Isabel de Palacio y del Valle-Lersundi** (sinh ngày 22 tháng 7 năm 1948) tại Madrid, con gái của Luis María de Palacio y de Palacio, Marqués de Matonte, và vợ Luisa Mariana del Valle-Lersundi
**Louis Philippe I, Công tước xứ Orléans** còn được gọi là **le Gros** (Béo) (12 tháng 5 năm 1725 - 18 tháng 11 năm 1785) là một thân vương người Pháp, công tước đời thứ
(sinh ngày 25 tháng 2 năm 1953) là thủ tướng Tây Ban Nha trong 2 nhiệm kỳ: nhiệm kỳ 1 từ 5 tháng 5 năm 1996 và nhiệm kỳ 2 tiếp tục đến ngày 17
**Henrietta Anne của Anh** (tiếng Pháp: _Henriette-Anne Stuart d'Angleterre_; 16 tháng 6 năm 1644 - 30 tháng 6 năm 1670), biệt danh **Minette**, là một Vương nữ Anh, con gái của Charles I của Anh
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán
**Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Maria hồn xác lên trời** () là trụ sở của Tổng giáo phận Công giáo México. Nhà thờ tọa lạc trên đỉnh khu vực linh thiêng của người Aztec
**Cuộc cách mạng Philippines** (tiếng Filipino: Himagsikang Pilipino), hay còn được gọi là **Chiến tranh Tagalog** (tiếng Tây Ban Nha: _Guerra Tagalog_) bởi người Tây Ban Nha, là một cuộc cách mạng và các cuộc
**Rafael Nadal Parera** (, sinh ngày 3 tháng 6 năm 1986 tại Manacor, Mallorca), biệt danh **Rafa**, là một cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Tây Ban Nha. Nadal được đánh giá
**Louis XIII** (27 tháng 9 1601—14 tháng 5 1643) là một vị vua thuộc vương triều Bourbon với tước hiệu là Vua của Pháp từ 1610 đến 1643 và Vua của Navarra (với danh xưng
**_Little Ashes_** là một bộ phim Tây Ban Nha-Anh năm 2008 lấy bối cảnh Tây Ban Nha trong những năm 1920 và 1930, khi ba trong số những tài năng trẻ sáng tạo nhất thời
**Câu lạc bộ bóng đá nữ Barcelona** là một câu lạc bộ bóng đá nữ có trụ sở tại Barcelona, ​​Tây Ban Nha. Câu lạc bộ bóng đá nữ Barcelona là câu lạc bộ nữ
**Garbiñe Muguruza Blanco** (, sinh ngày 8 tháng 10 năm 1993 tại Caracas, Venezuela) là một nữ vận động viên quần vợt người Tây Ban Nha. Tính tới thời điểm hiện tại, cô đã có
**Ana María Barrenechea** (6 tháng 3 năm 1913 – 4 tháng 10 năm 2010) là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học và nhà phê bình văn học người Argentina. ## Tiểu sử Barrenechea hoàn
**Ana Ivanović** (Ана Ивановић, , sinh ngày 6 tháng 11 năm 1987 tại Beograd) là một cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp của Serbia. Cô từng xếp thứ 1 thế giới năm 2008.
**Salvador Felipe Jacinto Dalí Domènech** hay **Salvador Felip Jacint Dalí Domènech** (11 tháng 5 năm 1904 – 23 tháng 1 năm 1989), thường được biết đến bằng cái tên **Salvador Dalí**, là nghệ sĩ sinh
nhỏ|phải|Một cuộc diễn hành để ban phước cho những con ngựa trước nhà thờ San Pedro de Santa Bárbara de Heredia ở [[Costa Rica]] **Ban phước lành cho thú vật** (_Blessing of animals_) là các