✨Charles I của Anh

Charles I của Anh

Charles I của Anh (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết vào năm 1649.

Charles là vương tử thứ hai của vua James VI của Scotland, nhưng sau khi cha ông giành được ngai vàng ở Anh năm 1603, ông chuyển đến Anh và dành phần lớn thời gian còn lại của cuộc đời ở đây. Ông trở thành người thừa kế ngai vàng Anh, Ireland và Scotland sau cái chết của vương huynh, Henry Frederick, Thân vương xứ Wales, năm 1612. Khi trưởng thành, ông bị trưởng công chúa Tây Ban Nha thuộc nhà Habsburg là María Ana từ hôn sau chuyến thăm kéo dài 8 tháng đến Tây Ban Nha năm 1623. Hai năm sau, ông kết hôn với công chúa nhà Bourbon là Henriette Marie của Pháp.

Sau khi kế vị, Charles tranh chấp với Nghị viện, trong nỗ lực của ông nhằm củng cố đặc quyền hoàng gia. Charles tin tưởng vào quyền lực thiêng liêng của các vị vua và cho rằng ông có thể cai quản đất nước theo ý muốn của mình. Nhiều chính sách của ông bị quần chúng phản đối, đặc biệt là việc tăng thuế mà không thông qua sự đồng ý của Quốc hội, khiến ông bị mang tiếng là một quân vương chuyên chế, một bạo chúa. Chính sách tôn giáo của ông, cùng với cuộc hôn nhân với một người Công giáo, đã gây ra sự bất bình và ác cảm của những nhóm cải cách tôn giáo như Thanh giáo và thần học Calvin, những người cho rằng ông nghiêng về phía Công giáo. Ông ủng hộ những giáo sĩ high church như Richard Montagu và William Laud, và thất bại trong việc giúp các thế lực Kháng Cách giành thắng lợi cuối cùng trong Chiến tranh Ba mươi năm. Ông cố rắng buộc Giáo hội Scotland làm theo mô hình tôn giáo của Anh dẫn đến Chiến tranh giữa các giám mục, tăng thêm vị thế cho Nghị viện Anh và Scotland đồng thời khiến vị thế của ông tuột dốc không phanh.

Từ 1642, Charles chiến đấu với quân đội Nghị viện trong Nội chiến Anh. Sau thất bại năm 1645, ông đầu hàng lực lượng Scotland và bị rơi vào tay Nghị viện. Charles từ chối công nhận yêu sách của những kẻ bắt được mình khi bác bỏ ý tưởng về nền quân chủ lập hiến, và trốn thoát khởi nơi giam cầm vào tháng 11, 1647. Lại bị cầm tù một lần nữa tại Đảo Wight, Charles cố gắng liên minh với người Scotland, nhưng cuối năm 1648 Oliver Cromwell cùng quân đội kiểu mới của ông ta đã nắm được quyền kiểm soát Anh quốc. Charles bị đưa ra xét xử, bị kết án tử hình vì tội phản quốc vào ngày 30 tháng 1 năm 1649. Vương quyền bị xóa bỏ, nền cộng hòa được thành lập, sử gọi là Khối Thịnh vương chung Anh. Chế độ quân chủ được trung hưng bởi con trai của ông, Charles II, năm 1660.

Cuộc sống thuở ban đầu

thumb|left|upright|Tranh khắc của [[Simon de Passe về Charles cùng song thân, Vua James và Vương hậu Anne, c. 1612]] Là con trai thứ hai của vua James VI của Scotland và Anna của Đan Mạch, Charles chào đời ở Cung điện Dunfermline, Fife, ngày 19 tháng 11 năm 1600. Trong một buổi lễ theo nghi thức Kháng Cách tại Nhà nguyện hoàng gia thuộc Cung điện Holyrood, Edinburgh ngày 23 tháng 12 năm 1600, ông được rửa tội bởi David Lindsay, Giám mục xứ Ross, và được tấn phong Công tước xứ Albany, danh hiệu truyền thống được dành cho con trai thứ hai của nhà vua Scotland, cùng với các tước vị phụ như Hầu tước Ormond, Bá tước xứ Ross và Lãnh chúa Ardmannoch.

James VI là cháu họ của Nữ vương Elizabeth I của Anh, và khi nữ vương chết không con cái vào tháng 3 năm 1603, ông ta trở thành Vua của Anh cùng vương hiệu James I. Charles là một đứa trẻ rất ốm yếu, và trong khi cha mẹ ông rời quê hương đến Anh vào tháng 4 và đầu tháng 6 năm đó, thì vì sức khỏe không cho phép, ông vẫn ở Scotland cùng người bạn thân của phụ thân là Lãnh chúa Fyvie, người được tấn phong làm giám hộ của ông.

Năm 1604, khi được 3 tuổi rưỡi, Charles có thể đi một vòng lớn quanh hội trường lớn ở Cung điện Dunfermline mà không cần người trợ giúp, cho nên ông được cho là đã có thể chịu được chuyến đi dài tới Anh quốc đoàn tụ với song thân. Giữa tháng 7 năm 1604, Charles rời Dunfermline đi đến Anh, nơi ông sống hết quãng đời còn lại. Ở Anh, Charles ông được chăm sóc bởi Elizabeth, Lady Carey, vợ của bá tước Sir Robert Carey, người giúp ông cải thiện tình trạng sức khỏe vốn rất yếu ớt. Ông chậm biết nói, và về sau nói ngập ngừng và nói ngọng, trong suốt quãng đời của mình.

Tháng 1 năm 1605, Charles được tấn phong Công tước xứ York, danh hiệu truyền thống thường dành cho con trai thứ hai của nhà vua, và danh dự Hiệp sĩ xứ Bath. Thomas Murray, một người Scots theo Giáo hội Trưởng lão, được cử làm gia sư của ông. Charles học những môn học cổ điển, truyền thống thời bấy giờ như ngoại ngữ, toán và tôn giáo. Năm 1611, ông được tấn phong Hiệp sĩ Garter.

thumb|right|upright|Chân dung vẽ bởi [[Robert Peake Trẻ|Robert Peake, c. 1610]] Cuối cùng, Charles dường như đã chiến thắng được bệnh tật, có thể tình trạng yếu ớt của ông là do bệnh còi xương. Ông trở thành một kĩ sĩ thành thục và một tay thiện xạ, có thể nhảy qua được hàng rào. Tuy nhiên, hồ sơ công khai của ông vẫn ghi rằng ông vẫn chậm lớn và yếu ớt, trái ngược với hoàng huynh khỏe mạnh và to lớn, Henry Frederick, Thân vương xứ Wales, người Charles kính mến và cố gắng cạnh tranh. Tuy nhiên, đầu tháng 11 năm 1612, Henry qua đời khi mới 18 tuổi do bệnh thương hàn (hoặc có thể là hội chứng porphyria). Charles, chỉ còn 2 tuần nữa sẽ bước sang tuổi 12, trở thành thái tử nước Anh. Là con trai lớn nhất còn sống sót của quốc vương, Charles được phong một số danh hiệu (bao gồm Công tước Cornwall và Công tước Rothesay). Bốn năm sau, tháng 11 năm 1616, ông được tấn phong Thân vương xứ Wales và Bá tước Chester.

Thân vương xứ Wales

Năm 1613, vương tỉ của ông là Elizabeth kết hôn với Frederick V, Tuyển hầu tước Palatine, và dời đến Heidelberg. Năm 1617, thành viên hoàng gia Habsburg Đại Công tước Ferdinand của Áo, một người công giáo, được chọn làm Vua của Bohemia. Năm sau, người Bohemia nổi dậy, tuyên bố ủng hộ đức tin Kháng Cách, chống lại vị vua Công giáo của mình. Tháng 8 năm 1619, Nghị viện Bohemia quyết định chọn Frederick V, lãnh đạo của Liên minh Kháng Cách, làm quốc vương, trong khi Ferdinand được bầu làm Hoàng đế La Mã Thần Thánh trong cuộc bầu cử hoàng đế. Frederick chấp nhận lên ngôi vua Bohemia, hớt tay trên của hoàng đế, là nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ của một cuộc chiến mà về sau phát triển thành Chiến tranh Ba mươi năm. Cuộc xung đột, ban đầu chỉ gói gọn trong lãnh thổ Bohemia, sau đó lan rộng ra khắp châu Âu, khi Nghị viện Anh và công chúng đang muốn đứng yên xem cuộc xung đột giữa phe Công giáo và Kháng Cách trên lục địa. Năm 1620, anh rể của Charles, Frederick V, bị đánh bại ở Trận White Mountain gần Prague và lãnh địa ông được thừa kế thuộc Tuyển hầu quốc Palatinate bị tấn công bởi quân nhà Habsburg từ Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Tuy nhiên, James, khi đó muốn tìm kiếm hòa bình bằng cuộc hôn nhân giữa Thân vương xứ Wales với cháu gái của Ferdinand, công chúa dòng họ Habsburg là Maria Anna của Tây Ban Nha, và bắt đầu đàm phán với Tây Ban Nha trong một nỗ lực ngoại giao nhằm chấm dứt cuộc chiến giữa hai nước và tìm kiếm hòa bình ở châu Âu.

Không may cho James, cuộc thỏa thuận với người Tây Ban Nha không được quần chúng ủng hộ, kể cả người dân lẫn triều đình của James. Nghị viện Anh vốn chủ động muốn gây chiến với Tây Ban Nha và phe Công giáo, khi được triệu tập bởi James năm 1621, các thành viên hi vọng ép được nhà vua ký vào một đạo luật tuyên chiến, chống lại hải quân Tây Ban Nha, và một cuộc hôn nhân của Thân vương xứ Wales với một người Kháng Cách. Quan Chưởng ấn trong triều, Francis Bacon, đã bị Thượng viện kết tội tham nhũng.Việc luận tội như thế này (không cần thông qua nhà vua) bắt đầu từ năm 1459 theo Chỉ dụ attainder. Vụ việc như thế chính là tiền lệ, tiếp tục được sử dụng để xét xử và luận tội chống lại Charles và những người ủng hộ: Công tước Buckingham, Đại Giám mục Laud, và Bá tước Strafford. James nhấn mạnh rằng Viện Thứ dân chỉ cần chú ý đến các vấn đề đối nội, trong khi các thành viên phản đối, cho rằng họ có quyền tự do ngôn luận trước Hạ viện, muốn gây chiến với Tây Ban Nha và đòi Công nương xứ Wales phải là người Kháng Cách. Charles, cũng như phụ thân, coi cuộc bàn tán về hôn nhân của mình trong Hạ viện là một việc làm xấc láo và xâm phạm vào uy quyền của hoàng gia Tháng 1 năm 1622, James giải tán Nghị viện, do tức giận với cái ông gọi là sự vô liêm sỉ và không biết khoan nhượng của các thành viên trong Nghị viện.

thumb|left|upright|Chân dung của Charles khi còn là Thân vương xứ Wales, bởi [[Daniel Mytens, c. 1623]]

Charles và Công tước Buckingham, sủng thần của James và cũng là một người có ảnh hưởng rất lớn đối với thái tử, đã bí mật đến Tây Ban Nha vào tháng 2 năm 1623 nhằm tiều kiếm một thỏa thuận hòa hoãn giữa hai nước sau cuộc chiến lâu năm. Tuy nhiên cuối cùng, chuyến đi trở thành một thất bại đáng xấu hổ. Trưởng Công chúa nghĩ rằng Charles là một người không sùng đạo, và điều kiện thách cưới đầu tiên của phía Tây Ban Nha là ông phải đổi sang Công giáo. Người Tây Ban Nha muốn có sự khoan dung tôn giáo được thực hiện ở Anh và bãi bỏ những đạo luật hình sự, những đòi hỏi mà Charles biết rằng Nghị viện sẽ không bao giờ chấp thuận, và một điều kiện khác: Trưởng Công chúa sẽ ở lại Tây Ban Nha một năm sau khi hôn lễ diễn ra để đảm bảo rằng phía Anh sẽ tuân thủ toàn bộ Hiệp ước. Một cuộc tranh cãi nổ ra giữa Buckingham và Bá tước Olivares, tể tướng Tây Ban Nha, và Charles đã cố gắng hòa giải nhưng vô ích. Khi Charles trở về London vào tháng 10, mà không có một cô dâu nào đi cùng, công chúng cảm thấy hân hoan, ông và Buckingham miễn cưỡng thuyết phục James tiếp tục chiến tranh với Tây Ban Nha.

Với sự khuyến khích của các cố vấn Tin Lành, James triệu tập Nghị viện Anh vào năm 1624 và tuyên bố một cuộc chiến tranh. Charles và Buckingham đứng ra tố cáo Tổng Thủ quỹ, Lionel Cranfield, Bá tước thứ nhất của Middlesex, người phản đối chiến tranh với lý do ngân sách bị suy giảm nghiêm trọng vì cuộc chiến, quan điểm này tương đồng với Bacon. James nói với Buckingham rằng ông ta là một kẻ ngốc, và cảnh báo thái tử rằng ông sẽ sớm phải hối tiếc vì đã ngầm trao cho Nghị viện một công cụ quyền lực, đó là luận tội. Một đội quân dưới quyền Ernst von Mansfeld được lập ra nhằm chiếm lại Palatinate, nhưng chi phí trang trải cho đội quân thấp đến nỗi nó không thể tiến vào vùng bờ biển Hà Lan.

Cuối năm 1624, James lâm bệnh, sau những nỗ lực miệt mài và khó khăn nhằm kiểm soát Quốc hội. Khi ông ta qua đời vào tháng 3 năm 1625, Charles và Công tước Buckingham đã kiểm soát vương quốc trên thực tế.

Làm vua thời kì đầu

Với thất bại trước Tây Ban Nha, Charles và Buckingham chuyển sự chú ý sang Pháp. Ngày 1 tháng 5 năm 1625 Charles kết hôn kết hôn thông qua đại diện với Công chúa 15 tuổi của Pháp quốc Henrietta Maria trước cổng Nhà thờ Đức Bà Paris. Charles đã gặp Henrietta Maria lần đầu ở Paris khi đang trên đường đến Tây Ban Nha. Hai người chính thức kết hôn ngày 13 tháng 6 năm 1625 ở Canterbury. Charles hoãn việc khai mạc Quốc hội cho đến sau đám cưới chính thức để ngăn chặn mọi sự phản đối. Nhiều thành viên của Hạ viện phản đối hôn nhân của nhà vua với một người Công giáo, họ lo rằng Charles sẽ ngăn cản những người Kháng Cách và ngăn cản tiến trình cải cách của Giáo hội Anh. Mặc dù ông phát biểu trước Nghị viện rằng ông không có ý nới lỏng hạn chế tôn giáo, nhưng ông đã cam kết về điều đó trong cuộc đàm phán hôn nhân bí mật với vua Louis XIII của Pháp. Hơn nữa, một hiệp ước theo đó lực lượng Pháp sẽ kết hợp với hải quân Anh đàn áp những người Huguenots ở La Rochelle. Charles tiến hành lễ gia miện ngày 2 tháng 2 năm 1626 tại Tu viện Westminster, nhưng không có vợ ông bên cạnh vì bà từ chối tham gia buổi lễ tổ chức theo nghi thức Kháng Cách.

Sự bất mãn đối với chính sách tôn giáo của Charles gia tăng khi ông chấp thuận một cuộc tranh cãi của một giáo sĩ phản đối thần học Calvin, Richard Montagu, người không được lòng người theo phong trào Thanh giáo. Trong cuốn sách nhỏ A New Gag for an Old Goose (1624), Montagu lập luận chống lại Thần học Calvin nguyên thủy, học thuyết chủ nghĩa rằng sự cứu rỗi và sự nguyền rủa được định trước bởi Chúa. Những người chống Calvin-được gọi là Arminians – tin rằng con người có thể quyết định số phận của mình thông qua việc thực hiện những nguyện vọng của họ. Những người Arminian nằm trong thiểu số những người ủng hộ hôn nhân của Charles với công chúa Tây Ban Nha. Với sự ủng hộ của vua James, Montagu đã từng xuất bản một cuốn sách nhỏ, đầu đề là Appello Caesarem, năm 1625 không lâu trước cái chết của nhà vua, và Charles lên kế vị. Để bảo vệ Montagu khỏi sự chống đối của phe Thanh giáo trong Nghị viện, Charles phong một mục sư trong triều đình của ông, gia tăng sự nghi ngờ của người Thanh giáo rằng Charles ủng hộ những người Arminian với mục đích khôi phục lại Công giáo trên đất Anh.

Thay vì tham gia một cuộc chiến tranh trực tiếp trên lục địa châu Âu, nghị viện Anh tổ chức một cuộc tấn công ít tốn kém hơn vào các thuộc địa của Tây Ban Nha ở Tân Thế giới, với hi vọng sẽ tóm được Đội tàu chở kho báu của Tây Ban Nha. Nghị viện đã quyết định chi £140,000, một số tiền không đủ cho mưu đồ chiến tranh của Charles. Hơn thế nữa, Hạ viện lại giới hạn lại thu nhập của hoàng gia từ phí trọng tải và hoa hồng (hai loại thuế hải quan) trong thời hạn một năm, mặc dù những vị trước đó từ Henry VI của Anh đều có đầy đủ quyền hành trong vấn đề thu thuế này. Theo đó, Nghị viện có thể trì hoãn việc phê duyệt mức thuế cho đến khi họ xem xét toàn diện các nguồn thu từ hải quan. Dự luật này không được thông qua tại Thượng viện trong lần biểu quyết đầu tiên. Mặc dù không có một đạo luận cho phép thu phí trọng tải và hoa hồng, Charles tiếp tục cho thu thuế. thumb|left|Chân dung vẽ bởi [[Gerrit van Honthorst, 1628]] Một kế hoạch không đủ kinh phí nhằm thực hiện chuyến thám hiểm hải quân chống lại Tây Ban Nha dưới sự lãnh đạo Buckingham trở thành một thất bại tồi tệ, và Hạ viện bắt đầu chuẩn bị bằng chứng luận tội Công tước. Tháng 5 năm 1626, Charles tấn phong Buckingham làm Hiệu trưởng của Đại học Cambridge trong một chương trình hỗ trợ, và hai thành viên trong Hạ viện phát biển chống lại Buckingham – Dudley Digges và Sir John Eliot – bị bắt giữ trước cửa Hạ viện. Hạ viện bị xúc phạm khi hai thành viên của họ bị tống giam, và sau khoảng 1 tuần bị giam giữ, cả hai được phóng thích. Ngày 12 tháng 6 năm 1626, Hạ viện tung ra một bản tố cáo trực tiếp vào Buckingham, nội dung là, "Chúng thần phản đối trước mặt Thánh thượng và cả thế giới rằng cái con người tuyệt vời kia không nên được để cho can thiệp vào những vấn đề đại sự của quốc gia, chúng thần đã không còn hi vọng vào bất kì thành công mĩ mãn nào; và thật sợ hãi khi tiền bạc, chúng thần sẽ hoặc là có thể cung cấp, sẽ bị ông ta sử dụng sai chỗ, và trở lại hây tổn thương và ảnh hưởng xấu đến vương quốc của thánh thượng và mặt khác, bởi những kinh nghiệm đáng tiếc, chúng thần thấy rằng những nguồn ngân sách trước đây hoặc gần đây đã bị xuất ra gần hết." Mặc cho sự phản đối của Nghị viện, Charles từ chối bỏ rơi bạn thân của ông, thay vào đó ông giải tán Nghị viện.

Trong khi đó, những cuộc cãi vã giữa Charles và Henrietta Maria rất gay gắt trong những năm đầu hôn nhân. Tranh chấp về tài sản để lại cho vợ, các cuộc hẹn của hoàng hậu với gia đình bà, và nỗ lực chứng tỏ sự sùng đạo của hoàng hậu lên đến đỉnh điểm khi nhà vua trục xuất những người hầu cận đến từ Pháp của hoàng hậu vào tháng 8 năm 1626. Mặc dù Charles đã đồng ý trợ giúp cho người Pháp và sẽ cho một vài hạm đội Anh đến giúp Pháp như một điều kiện thách cưới, năm 1627, ông mở một cuộc tấn công vào bờ biển nước Pháp để bảo vệ những người Huguenots ở La Rochelle. Cuộc tấn công, lãnh đạo bởi Buckingham, đã không thành công. Thất bại của Buckingham trong việc bảo vệ những người Huguenots – và sự rút lui của ông về Saint-Martin-de-Ré – khiến vua Louis XIII có cớ mở Chiến dịch La Rochelle và tăng thêm sự bất bình của Nghị viện Anh và dân chúng đối với vị Công tước.

Charles lại gây ra một bất ổn khi cố gắng kiếm tiền cho cuộc chiến tranh bằng cách "khoản vay bắt buộc": một loại thuế được thu mà không cần quốc hội thông qua. Tháng 11 năm 1627, các sự kiện thử nghiệm trong King's Bench, được gọi là "Vụ kiện năm hiệp sĩ", cho thấy rằng nhà vua có quyền tống giam không qua xét xử đối với những người từ chối thuế mới. Quốc hội được triệu tập vào tháng 3 năm 1628, ngày 26 tháng 5 Nghị viện thông qua Kiến nghị quyền lực, kêu gọi nhà vua thừa nhận rằng ông không thể đánh thuế nếu Quốc hội không đồng ý, không áp đặt quân luật đối với dân thường, không bỏ tù không qua xét xử, và không đóng quân trước cửa Quốc hội. Charles ưng thuận kiến nghị này ngày 7 tháng 6, nhưng đến cuối tháng ông tạm ngưng hoạt động của Nghị viện và tiếp tục khẳng định quyền thu thuế hải quan của ông mà không có sự đồng ý của Nghị viện.

Ngày 23 tháng 8 năm 1628, Buckingham bị ám sát. Charles vô cùng đau khổ. Theo như Edward Hyde, Bá tước thứ nhất của Clarendon, thì "Thánh thượng nằm vật ra giường, than vãn với cảm xúc mạnh và khóc hết nước mắt". Ông đau buồn đến nỗi không rời khỏi phòng trong hai ngày. Trái lại, công chúng rất phấn khởi trước cái chết của Buckingham, người họ cho là cái hố ngăn cách triều đình và nhân dân, giữa Nhà vua với Hạ viện. Mặc dù cái chết của Buckingham chính thức chấm dứt cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha; và chấm dứt sự lãnh đạo kém hiệu quả của ông ta, nhưng nó không chấm dứt mâu thuẫn giữa Charles với Nghị viện. Tuy nhiên, sự kiện này trùng hợp với việc nhà vua và vợ ông đã cải thiện mối quan hệ với nhau, vào tháng 11 năm 1628, những tranh cãi giữa họ đã chấm dứt. Có lẽ tình yêu của Charles dành cho Buckingham đã chuyển sang cho Henrietta Maria. Bà mang thai lần đầu tiên, và quan hệ vợ chồng trở nên tốt đẹp hơn. Họ đã cùng nhau có một cuộc sống gia đình hạnh phúc, và triều đình của họ trở thành khuôn mẫu cho nghi thức và đạo đức.

Tự cai trị

Ngừng hoạt động của Quốc hội

thumb|Charles depicted as a victorious and chivalrous [[Saint George in an English landscape by Rubens, 1629–30.]] Tháng 1 năm 1629, Charles triệu tập Nghị viện lần thứ hai, vốn đã bị giải tán vào tháng 6 năm 1628, và đọc bản tuyên cáo với lời lẽ ôn hòa về vấn đề tiền trọng tải và hoa hồng. Các thành viên của Hạ viện bắt đầu công khai lên tiếng phản đối các chính sách của Charles như trường hợp của John Rolle, một thành viên của Nghị viện, người đã bị tịch thu tất cả hàng hóa vì không chịu nộp tiền thuế. Nhiều nghị sĩ cho rằng việc áp dụng biểu thuế trong thời điểm đất nước không có chiến tranh là sự vi phạm Kiến nghị quyền lực. Khi Charles ra chỉ dụ hoãn hoạt động của quốc hội vào ngày 2 tháng 3, Chủ tịch Hạ viện, Sir John Finch, ngồi xuống ghế của ông ta để kết thúc buổi họp đã từng bị trì hoãn đủ lâu với các nghị quyết chống lại Công giáo, trọng tải và tiền hoa hồng được thông qua. Bản nghị quyết này nhận được sự hoan nghênh từ các chính trị gia. Sự khiêu khích đối với Charles lên cao, ông giải thể Quốc hội và bắt giam 9 thành viên lãnh đạo Nghị viện, bao gồm Sir John Eliot, người sau đó nhận được vinh dự là hi sinh vì đạo, và khiến một cuộc biểu tình nổ ra.

Không lâu sau khi giải tán Quốc hội, khi không có sự phê duyệt của Nghị viện cho một cuộc chiến tranh ở châu Âu, và sự ảnh hưởng của Buckingham, Charles ký hòa ước với Pháp và Tây Ban Nha. Trong 11 năm tiếp theo, Charles cai trị Anh quốc không thông qua Nghị viện, thời kì này được gọi là thời kì tự nắm quyền hay "mười một năm chuyên chế". Việc cai trị không cần có quốc hội ở Anh không phải mới có từ thời Charles, mà đã có tiền lệ vào thời những người tiền nhiệm. Tuy nhiên chỉ có Quốc hội, có thể tăng thuế một cách hợp pháp, và nỗ lực của Charles khi tìm cách tăng ngân quỹ của ông bị thu hẹp bởi đặc quyền bị giới hạn của ông.

Tài chính

thumb|[[Sixpence (British coin)|Sixpence of Charles I]] Vấn đề thâm hụt ngân sách đã khởi nguồn từ thời Elizabeth I và James I. Mặc cho các cuộc chiến dịch của Buckingham chống lại cả Tây Ban Nha và Pháp, Charles không có đủ khả năng tài chính để tiến hành chiến tranh với các nước khác. Trong suốt thời gian cai trị, Charles phải dựa dẫm chủ yếu vào những lực lượng tình nguyện để trang trải quốc phòng và những nỗ lực ngoại giao để ủng hộ hoàng tỉ, Elizabeth, với mục đích khôi phục lại Palatinate. Anh quốc vẫn là nước đánh thuế ít nhất ở châu Âu, không có khoản thu đặc biệt chính thức nào và không có một loại thuế nào được thu định kì. Để có tiền mà không phải triệu tập lại Nghị viện, Charles khôi phục lại đạo luật đã chìm vào quên lãng từ lâu gọi là "Tịch biên Hiệp sĩ", vốn bị hoãn trong hơn một thế kỉ, theo đó bất kì người nào kiếm được nhiều hơn £40 từ lãnh địa mỗi năm phải trình diện nhà vua tại lễ đăng quang của ông và được phong Hiệp sĩ Dựa theo luật này, Charles phạt tiền những ai không tham gia lễ đăng quang của ông năm 1626. thumb|Charles, họa phẩm của van Dyck khoảng 1637 - 1638 Một loại thuế mới được Charles đặt ra, gọi là thuế tàu thủy, càng không nhận được sự tán thành từ quần chúng, và lạm thu hơn so với cả thuế hoa hồng và trong tải trước đó. Trước đây, thuế tàu thủy chỉ được thu trong những lúc có chiến tranh nổ ra, và chỉ thu ở những vùng ven biển. Charles, tuy nhiên, lại cho thu thuế ngay vào thời bình và thu ở tất cả các vùng trong nước. Thuế tàu thủy thu được sẽ chuyển trực tiếp vào ngân quỹ của hải quân, tổng cộng đến khoảng £150,000 - £200,000 mỗi năm trong giai đoạn 1634 - 1638, sau đó giảm dần. Sự phản đối loại thuế này tăng lên, nhưng 12 thành viên trong Hội đồng luật của Anh tuyên bố rằng thu thuế là đặc quyền của nhà vua, mặc dù một vài ngườ trong số họ bị ép buộc. Việc John Hampden bị khởi tố vì không nộp thuế trong năm 1637 - 1638 là nền tăng cho sự phản đối, và Hội đồng chỉ chấp nhận khởi tố ông ta với số phiếu sít sao 7-5.

Nhà vua cũng tìm cách kiếm tiền bằng việc cấp độc quyền, bất chấp việc luật cấm những hành động như vậy, và mặc dù hiệu quả không được như mong đợi, cũng góp vào ngân khố £100,000 mỗi năm vào cuối những năm 1630. Một trong những độc quyền được cấp cho xà phòng, được gọi là xà phòng thuộc về giáo hoàng.. . Charles cũng tiến hành thu tiền từ giới quý tộc Scotland, với chính sách gây ra nhiều sự bất bình, bởi Đạo luật thu hồi (1625), tất cả các quà tặng là đất đai của hoàng gia và giáo hội dành cho quý tộc từ năm 1540 đều bị thu lại, nhưng người bị tước quyền sở hữu vẫn phải đóng thuế hằng năm. Thêm vào đó, ranh giới của các khu rừng hoàng gia ở Anh được khôi phục để tối đa hóa việc thu thuế từ đất và sẵn sàng xử phạt những ai sử dụng đất lấn vào ranh giới. Trọng tâm của chương trình này là nhằm phá rừng và bán đất rừng để phát triển kinh doanh trên đồng cỏ, hoặc trồng trọt, hoặc như trường hợp Forest of Dean, là phát triển ngành công nghiệp sắt. Sự phá rừng đã thường xuyên gây ra bạo loạn và những cuộc nổi dậy từ những nhân vật gọi là cuộc khởi nghĩa miền tây.

Việc thi hành cấp độc quyền ngày càng khiến quần chúng, những người phải trả thuế cao hơn những người được cấp độc quyền, phẫn nộ. Trong tình trạng bất ổn, Charles dường như sắp phải phá sản khi Nghị viện tiếp tục phủ quyết các loại thuế mới. Thành phố London, chìm ngập trong những ý kiến bất bình, và không ai chấp nhận cho nhà vua vay tiền, và cũng tương tự như vậy, ông cũng không thể vay tiền từ nước ngoài. Trong tháng 7, Charles lấy tổng cộng £130,000, và trong tháng 8 ông tiếp tục chiếm hết các cổ phiếu trong công ty Đông Ấn và bán nó với giá rẻ mạt.

Xung đột tôn giáo

thumb|left|[[Charles I với M. de St Antoine tranh của Anthony van Dyck, 1633]] Trong suốt triều đại Charles I, vấn đề tôn giáo luôn đứng vị trí hàng đầu trong những cuộc tranh luật chính trị. Thần học Arminian nhấn mạnh quyền của các giáo sĩ có thể từ chối hoặc chấp nhận sự cứu vớt, và vì thế bị coi là dị giáo và một thứ có thể dẫn đến sự trở lại của Giáo hội Công giáo Roma trên đất Anh, vì nó đối lập với Thần học Calvin. Charles đồng tình với lời giáo huấn từ những người Arminia, và đặc biệt ông muốn đưa Giáo hội Anh (đang có khuynh hướng dựa vào Thần học Calvin) chuyển sang một mô hình khác truyền thống hơn và bí bích, và những người Thanh giáo coi hành động như vậy là không coi trọng đức tin. Ngoài ra, những người Tin Lành dõi theo tình hình chiến tranh ở châu Âu rất thường xuyên và sự thất vọng tăng cao đối với các chính ngoại giao của Charles đối với Tây Ban Nha và thất bại của ông trong việc ủng hộ phe Tin Lành ở lục địa.

Năm 1633, Charles bổ nhiệm William Laud làm Tổng Giám mục Canterbury. Cùng với đó, họ bắt đầu một loạt cải cách chống lại Calvinist nhằm cố gắng đảm bảo tính thống nhất tôn giáo bằng cách hạn chế những thuyết giả không theo Anh giáo, nhấn mạnh rằng các nghi thức tế lễ được tổ chức theo hướng dẫn của Kinh Cầu nguyện chung, thiết lập trong nội bộ các công trình nhà thờ ở Anh để nhấn mạnh bí tích, và tái tuyên bố Tuyên bố giải trí, theo đó cho phép các ngoại động truyền thống trong ngày sabbath. Những người được cấp đất từ nhà thờ, một tổ chức mua tài sản và quyền tiến cử làm mục sư mà đứng đằng sau có thể là người Thanh giáo, bị giải tán. Để truy tố những người phản đối cải cách của mình, Laud đã dùng hai toà án quyền lực nhất, Tòa án High Commission và Tòa án Star Chamber. Các tòa án trở nên lo sợ vì quan điểm tôn giáo đối lập của họ, và những hình phạt được tiến hành gắt gao ngay cả đối với giới quý tộc, khiến quần chúng không bằng lòng. Ví dụ năm 1637 William Prynne, Henry Burton và John Bastwick bị đóng gông, đánh roi và cạo lông và bị giam cầm không thời hạn vì xuất bản các truyền đơn chống các giám mục. thumb|[[Charles I nhìn từ ba phía tranh của Anthony van Dyck, 1635–36]] Khi Charles cố gắng áp đặt chính sách tôn giáo của ông đối với người Scotland, ông đối mặt với nhiều khó khăn. Mặc dù chào đời ở Scotland, Charles lại trở nên xa lạ với vương quốc ở phía bắc này; chuyến đi đầu tiên của ông tới Scotland sau thời thơ ấu là lần đăng quang ngôi vua Scotland năm 1633. Trước sự kinh ngạc của người Scots, những người đã loại bỏ nhiều nghi thức truyền thống khi tiến hành nghi thức tế lễ, Charles nhấn mạnh rằng lễ đăng quang của ông được tiến hành theo nghi thức Anh giáo. Năm 1637, nhà vua ra lệnh sử dụng một quyển kinh cầu nguyện mới ở Scotland có nội dung gần giống như Kinh cầu nguyện ở Anh, mà không thông báo với Nghị viện Scotland và nhà thờ. Mặc dù sắc lệnh được viết bằng giấy mực hẳn hoi dưới sử chỉ đạo của Charles, bởi các giám mục Scotland, nhiều người Scot chống lại nó, cho rằng cuốn Kinh cầu nguyện là thứ đưa Anh giáo đến đất nước Scotland. Ngày 23 tháng 7, cuộc nổi loạn nổ ra ở Edinburgh vào ngay ngày chủ nhật đầu tiên mà kinh cầu nguyện được sử dụng, và tình trạng bất ổn lan rộng ra khắp nơi. Công chúng bắt đầu tập hợp lại và cùng nhau tái khẳng định Công ước Quốc gia, theo đó cam kết sẽ duy trì các cải cách tôn giáo ở Scotland và từ chối bất kì sự đổi mới nào mà không có sự đồng ý của Nghị viện và Nhà thờ. Khi Đại hội Giáo hội Scotland họp tháng 11 năm 1638, họ lên án kinh cầu nguyện mới, bãi bỏ chính quyền nhà thờ giám mục của các giám mục, và chấp nhận Chính phủ trưởng lão được lãnh đạo bởi các trưởng lão và người trợ tế.

Chiến tranh các giám mục

Charles nhìn nhận tình trạng bất ổn ở Scotland là một cuộc nổi loạn chống lại triều đình của ông, và bắt đầu Chiến tranh các giám mục lần thứ nhất năm 1639. Charles không tìm kiếm sự ủng hộ từ Nghị viện Anh để tiến hành chiến tranh, thay vào đó ông cử một đạo quân lên phía bắc mà không cần được Quốc hội viện trợ giúp và đội quân này đóng Berwick-upon-Tweed, nơi ở gần biên giới Scotland. Nhà vua lo sợ cho quân đội của ông, vốn chẳng thấm tháp vào đâu so với lực lượng Scotland. Trong hiệp ước Berwick, Charles giành lại được quyền quản lý pháo đài Scotland và bảo đảm việc giải thể chính phủ lâm thời trưởng lão, dù vậy sự nhượng bộ dành cho cả Nghị viện Scotland và Nhà thờ cũng không ít.

Thất bại của Charles trong Chiến tranh giám mục lần thứ nhất gây ra một cuộc khủng hoảng về cả tài chính và ngoại giao đối với Charles, và sự túng quẫn đó càng tăng thêm khi ông cố gắng mượn tiền của người Tây Ban Nha, trong khi vẫn ủng hộ người anh rể ở Palatine, dẫn đến việc bị bẻ mặt trong Trận Downs, nơi người Hà Lan đã đánh tan hạm đội của Tây Ban Nha ở vùng bờ biển Kent trước sự bất lực của Hải quân Anh.

Charles tiếp tục đàm phán nghị hòa với người Scot nhằm kéo dài thời gian để chuẩn bị cho một chiến dịch quân sự mới. Bởi vì tình hình tài chính khó khăn, ông buộc phải triệu tập Nghị viện để mong có thêm tiền trang trải chiến phí. Cả nghị viện Anh và Nghị viện Ireland đều được triệu tập vào mùa xuân năm 1640. Tháng 3 năm 1640, Nghị viện Ireland bỏ phiếu hỗ trợ cho nhà vua £180,000 để nuôi quân đội và hứa gửi 9,000 quân tinh nhuệ vào cuối tháng 5. Tuy nhiên trong cuộc biểu quyết Quốc hội Anh vào tháng 3, các thành viên Nghị viện lại đưa ra quyết định trái ngược với phía Ireland, vì thế quan hệ giữa nhà vua với Nghị viện trở nên tồi tệ vào tháng 4. Bá tước Northumberland và Strafford có ý làm trung gian cho cuộc thương lượng giữa hai bên, theo đó nhà vua phải đồng ý bỏ thuế tàu thủy để đổi lại £650,000 (mặc dù chi phí cho chiến tranh ước tính lên tới £1 triệu). Tuy nhiên, chỉ điều kiện này thôi khi không đủ làm vừa lòng Hạ viện. Các thành viên Hạ viện "kêu gọi về sự đổi mới", nhưng Charles để ngoài tai, ông vẫn còn nhận được sự ủng hộ của Thượng viện. Bất chấp sự phản đối của Northumberland, Nghị viện ngắn hạn (tên gọi thường được dùng vì thời gian tồn tại ngắn ngủi) bị giải tán vào tháng 5 năm 1640, một tháng sau khi được triệu tập.

Đến giai đoạn này thì Strafford, Phó vương Ireland từ năm 1632, đã trở thành cánh tay đắc lực của nhà vua cùng với Laud, theo đuổi một chính sách "triệt để" với mục đích làm cho vương quyền lớn mạnh hơn và đàn áp các thế lực địa phương và thế lực chống chính phủ. Mặc dù ban đầu phê phán nhiều chính sách của nhà vua, Strafford lại đứng về phía hoàng gia từ năm 1628 (theo lời khuyên của Buckingham), và cùng với Laud, trở thành các bộ trưởng có ảnh hưởng lớn đổi với Charles.

Bị ảnh hưởng bởi thất bại của Nghị viện ngắn hạn ở Anh, Nghị viện Scotland tuyên bố rằng mình có thể tự cai trị mà không cần sự đồng ý của nhà vua, vào tháng 8 năm 1640, quân Covenanter tiến đến đất Northumberland thuộc nước Anh. Charles và Strafford trực tiếp lên phía bắc để chỉ huy quân đội Anh, Vì bá tước Northumberland, người của nhà vua đứng đầu vùng đất này, đang bị hành hạ bởi bệnh gút và bệnh lị. Những người lính Scotland, phần nhiều đã từng chiến đấu trong Chiến tranh Ba mươi năm, có tinh thần chiến đấu và sự thành thục chiến trận cao hơn quân đội Anh, và dễ dàng tiến sâu đến Newcastle upon Tyne mà không vấp phải sự kháng cự nào. Ở nơi đây diễn ra Trận Newburn, và người Scot đánh bại người Anh và chiếm đóng thành phố cũng như vùng đất lân cận là Durham.

Khi nhu cầu triệu tập Nghị viện ngày càng trở nên cấp thiết, Charles đã có quyết bất thường khi triệu tập Đại hội đồng khanh tướng. Vào lúc cuộc họp diễn ra, ngày 24 tháng 9 tại York, Charles đã làm theo lời khuyên của hầu hết mọi người và triệu tập Nghị viện. Sau khi thông báo đến các quý tộc rằng một cuộc họp Quốc hội sẽ diễn ra vào tháng 11, ông yêu cầu họ tìm cách nào đó để ông có thể có kinh phí duy trì quân đội để chiến đấu với người Scot. Họ khuyên ông nên thương lượng với phía Scotland. Một hiệp định hòa bình, dù cho đó không phải là hiệp định vĩnh viễn, đã được ký vào tháng 10 năm 1640, với thất bại nhục nhã của nhà vua Hiệp ước Ripon. Theo nội dung Hiệp ước, người Scots sẽ tiếp tục chiếm đóng Northumberland và Durham, và được trả £850 mỗi ngày cho đến khi hòa bình lập lại và Nghị viện Anh được tái triệu tập, mà khi có Nghị viện mới có đủ vốn chi trả cho quân Scotland. Do đó Charles lại triệu tập Quốc hội, Quốc hội này được biết đến với tên gọi là Quốc hội dài hạn. Một lần nữa, sự ủng hộ dành Charles khá thấp trong nội bộ Quốc hội. Trong số 493 thành viên của Hạ viện được phục chức vào tháng 11, có hơn 350 người chống đối nhà vua.

Nghị viện dài hạn

Sức ép chiến tranh

Nghị viện dài hạn đã chứng minh rằng họ còn khó đối phó gấp nhiều lần so với Nghị viện ngắn hạn. Nghị viện được tập hợp ngày 3 tháng 11 năm 1640 và nhanh chóng khởi động quá trình luận tội phản quốc đối với các cố vấn hàng đầu của nhà vua. Strafford bị bắt giam vào ngày 10 tháng 11; Laud bị luận tội vào ngày 18 tháng 12; Lord Keeper Finch bị luận tội vào ngày hôm sau, và ông ta đã đào thoát đến the Hague với sự cho phép của Charles ngày 21 tháng 12. Để ngăn chặn nhà vua giải tán Nghị viện theo ý muốn, Nghị viện đã thông qua Đạo luật ba năm một lần, yêu cầu Nghị viện phải được triệu tập ít nhất mỗi ba năm, và cho phép Lord Keeper of the Great Seal và 12 khanh tướng có thể tự triệu tập Nghị viện nếu nhà vua không làm điều đó. Đạo luật này ra đời cùng lúc với dự luật trợ cấp, và do đó Charles phải miễn cưỡng ban chỉ dụ bày tỏ sự đồng tình của hoàng gia vào tháng 2 năm 1641..

Strafford trở thành mục tiêu công kích của các nghị sĩ, đặc biệt là John Pym, và ông bị xét xử vì tội phản quốc ngày 22 tháng 3 năm 1641. Tuy nhiên, cáo buộc của Sir Henry Vane rằng Strafford đã đe dọa sẽ dùng tới quân đội Ireland để chinh phục Anh quốc đã không được chứng minh và ngày 10 tháng 4, vụ kiện của Pym đã không thành công. Pym và các đồng minh bèn đưa ra một dự luật trái với pháp luật, theo đó chỉ tuyên bố Strafford có tội và tuyên án tử hình ông ta.

Charles trấn an Strafford rằng "Bằng lời nói của một vị vua, ái khanh sẽ không bị mất đi mạng sống, danh sự và tài sản", và cái thủ tục pháp lý kia sẽ không được thực hiện nếu Charles không đồng ý. Hơn thế nữa, nhiều thành viên Nghị viện và hầu hết các khanh tướng phản đối dự luật, họ không mong muốn, "giết người bằng lưỡi gươm công lý". Tuy nhiên, căng thẳng leo thang khi xuất hiện một cuộc đảo chính bất thành do những người bảo hoàng tổ chức để cứu Stafford, có cả sự tham gia Charles. Hạ viện thông qua dự luật ngày 20 tháng 4 với số phiếu chênh lệch (204 phiếu thuận, 59 phiếu chống, và 230 phiếu trắng), và các lãnh chúa cũng ưng thuận việc này (tỉ lệ 26/19, 79 người không có ý kiến) vào tháng 5. Charles, lo sợ cho sự an toàn của gia đình ông khi đang phải đối mặt với tình trạng bất ổn, phải miễn cưỡng thông qua dự luật ngày 9 tháng 5 sau khi bàn bạc với các thẩm phán và giám mục. Strafford bị chém đầu ba ngày sau đó.

Ngày 3 tháng 5, những người bất mãn trong Nghị viện lên án những "âm mưu xấu xa" của Charles là "cai trị tùy tiện và độc tài"; trong khi một số người khác ký tiến thỉnh nguyện sẽ bảo vệ cho "thân thể, danh dự và đẳng cấp " của nhà vua, họ cũng đã thề bảo vệ "những cải cách tôn giáo thực sự", Nghị viện, và "quyền lợi và sự tự do của thần dân". Chưa đầy một tuần sau, Charles phê chuẩn một Đạo luật chưa từng có, theo đó cấm việc giải tán Nghị Viện mà không có sự đồng ý của Nghị viện. Tháng sau, thuế tàu thủy, tiền phạt vụ phong tước hiệp sĩ và khoản tiêu đặc biệt không cần Quốc hội đồng ý đã được tuyên bố là không hợp pháp, các Tòa án Star Chamber và High Commission bị giải tán. Tất cả những loại thuế còn lại được công nhận và được quy định trong Luật Trọng tải và Hoa hồng. Hạ viện cũng tìm cách kết tội các giám mục, nhưng không được sự phê chuẩn từ các Lãnh chúa.

Charles đã nhượng bộ đối với phía Anh, và tạm thời cải thiện được địa vị ở Scotland bằng cách đến thăm vương quốc này trong khoảng tháng 8 đến tháng 11 năm 1641, tại đây ông thừa nhận sự thành lập và tồn tại của Giáo hội Trưởng lão. Tuy nhiên, sau một cuộc đảo chính của những người bảo hoàng ở Scotland, gọi là "The Incident", uy tín của Charles lại một lần nữa bị suy giảm.

Đối phó với cuộc nổi dậy ở Ireland

Ở Ireland, người dân chia làm 3 nhóm chính trị chủ yếu: người Gaelic Irish, theo Công giáo, người Cựu Anh, là con cháu của người Norman thời trung cổ và cũng theo Công giáo; và Tân Anh, những người vừa di dân từ Anh và Scotland đến Ireland theo Kháng Cách, họ ủng hộ Nghị viện Anh và Covenanters. Thời gian Strafford làm phó vương của Ireland, nền kinh tế phát triển và mức thuế đóng góp cho hoàng gia tăng lên, nhưng những điều đó có được bởi sự áp đặt của chính phủ. Nhà vua đã dựng lên một đội quân Công giáo lớn nhằm tạo thêm thế lực cho mình và làm suy yếu quyền lực của Nghị viện Ireland, trong khi vẫn tiếp tục đoạt đất của người Công giáo cho người Kháng Cách, cùng lúc lại tìm cách Anh giáo vào Ireland, với những tư tưởng chống Giáo hội Trưởng lão. Kết quả là, cả ba nhóm chính trị đều bất mãn. Việc Strafford bị luận tội, đã đem đến một giai đoạn mới đối với nền chính trị Ireland, và tất cả các bên đều đưa ra bằng chứng chống lại ông ta. Tương tự như Nghị viện Anh, nhóm Cựu Anh trong nghị viện Ireland chống đối Strafford và tuyên bố vẫn trung thành với Charles. Họ lập luận rằng nhà vua đã bị mê hoặc bởi tên sủng thần độc ác, và hơn thế nữa, một vị phó vương như Strafford có thể đủ sức hành động như một người cai trị chuyên chế chứ chưa hẳn nhà vua đã có thể trực tiếp cai trị hòn đảo. Thất bại Strafford cũng làm suy yếu sức ảnh hưởng của Charles lên vương quốc Ireland. Yêu cầu giải thể quân đội Ireland của Hạ viện Anh đã bất thành tới ba lần trong lúc Strafford bị giam trong tù, cho đến khi Charles cuối cùng do thiếu tiền đã phải giải tán quân đội và cuối cùng đưa Strafford ra xét xử. Cách tranh chấp liên quan đến việc chuyển quyền sử dụng đất từ những người Công giáo sang cho những người Tin Lành đến định cư, đặc biệt liên quan đến vấn đề plantation of Ulster, cùng lúc với quyết định đặt Nghị viện Scotland dưới Nghị viện Anh, đã gieo mầm cho cuộc nổi loạn. Khi xung đột vũ trang phát sinh giữa người Gaelic và Tân Anh, vào cuối tháng 10 năm 1641, người Cựu Anh đứng về phía người Gaelic và đồng thời vẫn tuyên bố trung thành với nhà vua.

Tháng 11 năm 1641, Hạ viện thông qua Đại Kháng nghị, một danh sách dài những khiếu nại đối với các hành động của bộ trưởng của Charles từ đầu triều đại của ông (được khẳng định là một phần của âm mưu lớn của những người Công giáo mà nhà vua bị lợi dụng và lôi kéo tham gia), nhưng có vẻ như là Pym đã bước đi quá xa bởi chỉ có 11 phiếu thuận - 159 phiếu chống, khoảng cách lên đến 148. Hơn thế nữa, Đại Kháng nghị cũng không được nhiều sự ủng hộ từ Thượng viện, nơi có nhiều thành viên bị Đại Kháng nghị nhắm vào. Căng thẳng leo thang khi những tin tức về cuộc nổi loạn ở Irelang truyền đến, cùng với những tin đồn sai sự thực là Charles có đồng lõa trong vụ này. Suốt tháng 11, một loạt các truyền đơn xuất hiện gây ra hoang mang trong quần chúng khi kể về cuộc nổi dậy tàn khốc ở Ireland, trong đó có những cuộc tàn sát vô tội vạ nhằm vào người Tân Anh bởi phe những người Ireland bản xứ mà người Cựu Anh không thể kiểm soát được. Tin đồn về "người theo Giáo hội" đang có âm mưu nào đó lan truyền khắp vương quốc Anh, và thái độ chống Công giáo của người Anh càng thêm vững chắc, làm tổn hại đến danh tiếng và quyền hạn của Charles. thumb|upright|Henrietta Maria, tranh của Sir Anthony van Dyck, 1632 Nghị viện Anh không tin tưởng vào những động cơ của Charles khi ông muốn có thêm tiền để trang trải việc dẹp loạn của Ireland; nhiều thành viên Hạ viện nghi ngờ rằng nguồn nhân lực và tài lực họ cung cấp có thể sẽ bị Charles dùng để chống lại chính Quốc hội. Pym đề ra Dự luật dân quân với dự định giành quyền kiểm soát quân đội của nhà vua, song các khanh tướng không chịu, để lại một mình Charles. Thay vào đó, Hạ viện thông qua dự luật giống như một pháp lệnh, họ tuyên bố rằng không cần sự đồng ý của hoàng gia. Pháp lệnh dân quân được đưa ra dường như đã xúi giục các lãnh chúa đưa quân hỗ trợ nhà vua. Trong một nỗ lực nhằm củng cố địa vị của mình, Charles lại gây ra sự bất bình lớn hơn từ người London, và nơi đây nhanh chóng chìm trong hỗn loạn, khi ông đặt Tháp London nằm dưới sự chỉ huy của Đại tá Thomas Lunsford, một người không nổi tiếng, mặc dù có năng lực. Khi tin đồn truyền tới tai Charles là Nghị viện có ý buộc tội hoàng hậu thông đồng với phiến quân Ireland, ông quyết định hành động quyết liệt.

Năm thành viên

Charles nghi ngờ rằng, có thể ông đã đúng, rằng một số thành viên trong Nghị viện Anh đã thông đồng với người Scot xâm lược nước Anh. Ngày 3 tháng 1, Charles buộc Nghị viện cách chức năm thành viên của họ – Pym, John Hampden, Denzil Holles, William Strode và Sir Arthur Haselrig – cùng một người khác – Lord Mandeville – vì lý do là họ bị nghi phạm tội phản quốc. Khi Nghị viện kháng chỉ, có thể Henrietta Maria đã khuyên Charles bắt giữ năm thành viên kia, và Charles đã quyết định làm theo. Tuy nhiên, tin tức về việc bắt giữ truyền đến Nghị viện, và năm người kia lên thuyền bỏ trốn không lâu trước kia Charles xông vào Hạ viện với quân đội của ông, ngày 4 tháng 1 năm 1642. Sau khi đuổi chủ tịch Hạ viện, William Lenthall, khỏi cái ghế của ông ta, nhà vua yêu cầu ông ta nói nơi các nghị sĩ đã bỏ trốn. Lenthall, đã quỳ xuống, và đáp lại nhà vua bằng một câu nói nổi tiếng, "Có thể để làm vui lòng Thánh Thượng, Hạ thần sẽ không còn cặp mắt nào để nhìn và không có cái lưỡi nào để nói ở nơi này nhưng đây là nơi Hạ thần lãnh đạo, và tôi tớ thần đang ở đây." Charles ngậm ngùi tuyên bố "tất cả lũ chim đã trốn thoát", và buộc phải ra về mà không thu được gì cả.

Nỗ lực bắt giữ bất thành nhanh chóng trở thành tai họa cho Charles. Tiền lệ chưa có vị vua Anh nào bước chân vào Hạ viện, và hành động vô tiền khoáng hậu của ông khi dẫn quân vào nơi đó để bắt giữ 5 thành viên đã xâm phạm nghiêm trọng quyền lực của Quốc hội. Trong một cơn thịnh nộ, Charles phá tan hết những sự ủng hộ dành cho ông như người bảo vệ chống lại sự đổi mới và mất trật tự.

Nghị viện nhanh chóng kiểm soát London, và Charles rời thủ đô đến Lâu đài Bá tước Hampton ngày 10 tháng 1 năm 1642, hai ngày sau ông đến Lâu đài Windsor. Sau khi gửi hoàng hậu và công chúa hoàng gia đến một nơi an toàn ở nước khác trong tháng 2, ông đi về phía bắc, hi vọng sẽ kiểm soát được kho vũ ký quân sự ở Hull. Nhưng mọi việc không như là mơ, ông bị đẩy lui bởi Thống đốc nghị viện tại thị trấn, Sir John Hotham, người từ chối cho ông vào địa phận vào tháng 4, và Charles buộc phải rút lui.

Nội chiến Anh

thumb|Một bức tranh vào thế kỉ XIX miêu tả Charles (ở giữa khung kính màu xanh) trước [[trận Edgehill, 1642]]

Giữa năm 1642, hai phe bắt đầu cuộc chiến. Quân của Charles là những kị sĩ phong kiến có kinh nghiệm trong chiến trận với cách dàn quân theo kiểu Trung cổ, và Nghị viện kêu gọi những người tình nguyện tham gia vào lực lượng dân quân. Sau những cuộc đàm phán không thu được kết quả gì, Charles ký quyết định tuyên chiến ở Nottingham ngày 22 tháng 8 năm 1642. Vào những tháng đầu của Cuộc nội chiến lần thứ nhất, quân của Charles kiểm soát các xứ Midlands, Wales, miền tây và miền bắc nước Anh. Ông thiết triều ở Oxford. Nghị viện kiểm soát London, miền đông nam và miền đông nước Anh, và kiểm soát lực lượng hải quân.

Sau một vài cuộc đụng độ nhỏ, hai bên gặp nhau tại Edgehill, ngày 23 tháng 10 năm 1642. Cháu trai của Charles Hoàng thân Rupert xứ the Rhine không đồng ý với kế hoạch tác chiến của người chỉ huy phe bảo hoàng, Lãnh chúa Lindsey, và Charles đồng tình với Rupert. Lindsey từ chức, sau đó Charles đưa Lãnh chúa Forth lên thay thế. Kị binh của Rupert đã phá vây thành công trước quân của Nghị viện, nhưng thay vì trở lại đánh tiếp, ông ta lại đi đường tắt để đánh vào đội hậu quân. Lindsey, đã bị thương và chảy máu đến chết mà không có người trợ giúp băng vết thương. Trận chiến kết thúc bất phân thắng lại khi trời đã sập tối.

Theo hồi trưởng của Charles, kinh nghiệm học được từ cuộc chiến khiến nhà vua "buồn vô hạn và sâu sắc". Ông điểm quân tại Oxford, từ chối đề nghị Rupert là nhanh chóng tiến quân đánh London. Sau một tuần, ông mới cho quân đánh thủ đô ngày 3 tháng 11, chiếm Brentford, vùng mà quân đội của ông đi qua trên đường hành quân; tiếp đó ông vẫn duy trì đàm phán với Nghị viện. Tại Turnham Green thuộc ngoại ô London, quân đội hoàng gia gặp phải sự kháng cự từ lực lượng quân dân thủ đô, với lực lượng đông đảo hơn, nên Charles ra lệnh thoái quân. Ông ở qua mùa đông tại Oxford, tăng cường hệ thống phòng thủ trong thành phố và chuẩn bị cho chiến dịch vào mùa xuân năm sau. Thỏa thuận hòa bình giữa hai bên kết thúc vào tháng 4. thumb|left|Charles được mô tả đang ngồi trên lưng ngựa chỉ huy quân của ông, họa phẩm của [[Wenceslaus Hollar, 1644]] Chiến tranh tiếp tục mà vẫn chưa bên nào giành được lợi thế trong vài năm tiếp đó, và Henrietta Maria trở về Anh trong 17 tháng từ tháng 2 năm 1643. Sau khi Rupert chiếm được Bristol tháng 7 năm 1643, Charles đến thăm thành phố cảng này và bao vây Gloucester, áp sát sông Severn. Kế hoạch của ông nhằm công phá các bức tường thành đã thất bại vì trời mưa to, và viện quân của Quốc hội đang đến gần, Charles gỡ bỏ vòng vây và rút lui về Lâu đài Sudeley. Quân đội của Quốc hội lại tiến về London, truy đuổi quân của Charles. Hai bên lại giáp chiến Newbury, Berkshire, ngày 20 tháng 9. Giống như trận Edgehill,trận chiến rơi vào bế tắc khi màn đêm buông xuống, và hai bên tự thối lui. Tháng 1 năm 1644, Charles triệu tập một Quốc hội ở Oxford, gồm 40 khanh tướng và 118 thành viên Hạ viện, Quốc hội này được biết với tên gọi Nghị viện Oxford, cho đến tháng 3 năm 1645, nó đã nhận được sự ủng hộ của phần lớn các quý tộc và một phần ba thành viên Hạ viện. Charles cảm thấy thất vọng vì sự vô hiệu quả của cái hội nghị này, ông gọi nó là "vật lai", trong một bức thư gửi cho hoàng hậu.

Năm 1644, Charles vẫn ở miền nam nước Anh trong khi Rupert hành quân lên phía bắc để giải vây Newark và York, vốn đang bị quân đội Scotland đe dọa nghiêm trọng. Charles giành chiến thắng trong trận cầu Cropredy vào cuối tháng 6, nhưng đội quân ở miền bắc lại bị đánh bại tại trận Marston Moor chỉ sau đó vài ngày. Nhà vua tiếp tục tổ chức chiến dịch ở phía nam, bao vây và giải giáp lực lượng quân của Nghị viện dưới sự chỉ huy của Bá tước Essex. Quay trở lại căn cứ tại Oxford, ông tham gia trận Newbury lần thứ hai trước khi mùa đông đến; trận chiến kết thúc bất phân thắng bại. Những nỗ lực đàm phán được tiến hành vào mùa đông, khi hai bên tái vũ trang và tổ chức lại lực lượng, cũng không thu được kết quả.

Tại trận Naseby ngày 14 tháng 6 năm 1645, kị binh của Hoàng thân Rupert tấn công mãnh liệt, bẻ gãy cánh trái và truy kích những đại đội kị binh của Quân đội kiểu mới của Nghị viện đang bỏ chạy, nhưng lực lượng của Charles bị quân phản nghịch truy đuổi gắt gao. Charles, cố gắng động viên quân đội, thúc ngựa ra phía trước đội quân như ông từng làm vài lần trước kia, nhưng Lãnh chúa Carnwath ngăn lại và kéo ông về, vì lo sợ cho sự an toàn của nhà vua. Hành động của Carnwath bị quân bảo hoàng hiểu lầm là lệnh rút quân, dẫn đến việc hàng ngũ bị rối loạn. Cán cân lúc này nghiêng hẳn về phía Nghị viện. Hoàng thân Rupert chỉ kịp bảo vệ nhà vua chạy thoát khỏi trận địa. Từ đây quân hoàng gia gặp hàng loạt thất bại liên tiếp, và sau Chiến dịch Oxforl, Charles cải trang thành một người đầy tớ rồi bỏ trốn vào tháng 4 năm 1646. Ông tự nộp mình cho quân đội trưởng lão đang bao vây Newark, và bị dẫn lên phía bắc đến Newcastle upon Tyne. Sau chín tháng đàm phán, người Scot đã đi đến một thỏa thuận với người Anh, theo đó đổi lấy £100,000 và sẽ còn nhiều hơn trong tương lai, phía Scotland sẽ rút khỏi Newcastle và giao nộp Charles cho Nghị viện vào tháng 1 năm 1647.

Bị câu thúc

Nghị viện đã quản thúc Charles tại Holdenby House thuộc Northamptonshire cho đến khi viên sĩ quan George Joyce dùng vũ lực buộc ông rời Holdenby ngày 3 tháng 6 dưới danh nghĩa quân đội kiểu mới. Vào thời điểm đó, sự nghi vực phát sinh và gia tăng trong nội bộ giữa một bên là Nghị viện, ủng hộ giải tán quân đội và Giáo hội trưởng lão, với bên kia là Quân đội kiểu mới, những người chủ trương Độc lập không theo tôn giáo, muốn có được vai trò chính trị lớn hơn hiện tại. Charles háo hứng lợi dụng sự chia rẽ này, ông xem hành động của Joyce là một cơ hội cho mình chứ không phải là mối đe dọa. Đầu tiên ông được đưa tới Newmarket, nơi mà ông muốn đến, và sau đó đến Oatlands rồi Hampton Court, trong khi nhiều cuộc đàm phán không có kết quả diễn ra. Tháng 11, ông nhận ra được cơ hội trốn thoát đã đến, và tìm kiếm một nơi ẩn náu – Pháp, miền nam nước Anh hay Berwick-upon-Tweed, gần biên giới Scotland. Ông trốn khỏi Hampton Court ngày 11 tháng 11, và từ bờ biển Southampton Water ông bắt liên lạc với Robert Hammond, Thống đốc Nghị viện Đảo Wight, Charles tin rằng ông ta còn trung thành với mình. Hammond, tuy nhiên, câu thúc Charles trong Lâu đài Carisbrooke và thông báo với Nghị viện rằng Charles đang ở chỗ mình.

Từ Carisbrooke, Charles tiếp tục cố gắng thương lượng với các bên chống đối. Mặc dù trước đây từng xung đột với Nhà thờ Scotland, ngày 26 tháng 12 năm 1647 ông ký một hiệp ước bí mật với người Scot. Theo cái thỏa thuận gọi là "Engagement", Scotland sẽ tiến hành xâm lược nước Anh dưới danh nghĩa của Charles và khôi phục ngai vàng cho ông với điều kiện Giáo hội Trưởng lão được thành lập ở Anh trong 3 năm.

Phe bảo hoàng lại nổi lên vào tháng 5 năm 1648, khởi đầu cuộc nội chiến lần 2, và như thỏa thuận với Charles, Scotland đưa quân đánh Anh. Các cuộc nổi dậy ở Kent, Essex, và Cumberland, và cả ở Nam Wales, bị quân đội kiểu mới đánh tan, và với thất bại của Scotland tại trận Preston vào tháng 8 năm 1648, hoàng gia không còn bất kì cơ hội chiến thắng nào.

Charles bây giờ chỉ còn trông mong vào cuộc đàm phán, được tổ chức ở Newport thuộc Đảo Wight. Ngày 5 tháng 12 năm 1648, Nghị viện quyết định tiếp tục đàm phán với nhà vua với tỉ lệ số phiếu là 129/83, nhưng Oliver Cromwell và quân đội phản đối bất kì cuộc đàm phán nào với một người là họ coi là bạo chúa khát máu và đã dùng hành động để thể hiện quyền lực của họ. Hammond bị cách chức Thống đốc đảo Wight ngày 27 tháng 11, và bị quân đội quản thúc từ ngày hôn sau. Tại sự kiện Pride's Purge diễn ra vào ngày 6 và 7 tháng 12, 143 thành viên nghị viện bị bắt giữ hoặc cách chức bởi Đại tá Thomas Pride, trong khi chỉ có 50 người ủng hộ quân đội được giữ lại. Các thành viên còn lại được gọi là Nghị viện Còn lại. Đó là kết cục của một cuộc đảo chính quân sự.

Xét xử

thumb|upright|left|Charles trước tòa, tranh của [[Edward Bower, 1649. Râu và tóc của ông đều mọc dài vì Nghị viện đã đuổi người thợ cắt tóc của ông, và ông từ chối cho bất cứ ai đến gần ông mà mang theo lưỡi dao cạo.]] thumb|upright|right|Charles (quay lưng lại với những người chứng kiến) trước tòa đại hình, [[1649]] Charles bị chuyển tới Lâu đài Hurst vào cuối năm 1648, và sau đó đến Lâu đài Windsor. Tháng 1 năm 1649, Hạ viện Còn lại truy tố ông vì tội phản quốc, tuy rằng cáo buộc bị Thượng viện bác bỏ. Ý tưởng xét xử nhà vua là một chuyện lạ thường. Chánh thẩm phán của ba phiên tòa là Henry Rolle, Oliver St John vàd John Wilde – tất cả đều phản đối bản cáo trạng dành cho nhà vua là trái pháp luật. Nghị viện Còn lại tự tuyên bố họ có thể tự nắm quyền lập pháp, thông qua một dự luật thiết lập một tòa án đắc biệt xét xử Charles, và tuyên bố dự luật trở thành đạo luật mà không cần sự đồng ý của hoàng gia. Tòa đại hình Justice được thành lập sau Đạo luật này gồm 135 ủy viên, nhưng phần nhiều trong số họ từ chối nhiệm vụ hoặc khôn

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**Charles II của Anh** (29 tháng 5 năm 1630 – 6 tháng 2 năm 1685) là vua của Anh, Scotland, và Ireland. Ông là vua Scotland từ 1649 đến khi bị lật đổ năm 1651, và
**Anne của Đại Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Anne, Queen of Great Britain_; 6 tháng 2, năm 1665 – 1 tháng 8, năm 1714), là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland,
**James VI và I** (19 tháng 6 năm 1566 – 27 tháng 3 năm 1625) là vua Scotland với vương hiệu là **James VI**, và là vua Anh và vua Ireland với vương hiệu là
**Edward I của Anh** (17/18 tháng 6 1239 – 7 tháng 7 1307), còn được gọi là **Edward Longshanks** và **Kẻ đánh bại người Scots** (Latin: _Malleus Scotorum_), là Vua của Anh từ 1272 đến
**Mary của I Scotland** (tiếng Anh: _Mary, Queen of the Scots_; tiếng Pháp: _Marie Ire d’Écosse_; 8 tháng 12, 1542 – 8 tháng 2, 1587), thường được gọi là **Nữ vương Mary**, **Nữ hoàng Mary**,
**Elizabeth I của Anh** (tiếng Anh: _Elizabeth I of England;_ tiếng Pháp: _Élisabeth Ire d'Angleterre;_ tiếng Tây Ban Nha: _Isabel I de Inglaterra;_ 7 tháng 9 năm 153324 tháng 3 năm 1603) là Nữ vương
**George I** (George Louis; ; 28 Tháng 5 năm 1660 – 11 tháng 6 năm 1727. Ông là con trai cả của Ernest Augustus, Công tước xứ Brunswick-Lüneburg, và vợ của ông, Sophia xứ Palatinate.
**James II và VII** (14 tháng 10 năm 1633 – 16 tháng 9 năm 1701) là vua của Anh và Ireland với vương hiệu **James II** và cũng là vua của Scotland với vương hiệu
**Henrietta Anne của Anh** (tiếng Pháp: _Henriette-Anne Stuart d'Angleterre_; 16 tháng 6 năm 1644 - 30 tháng 6 năm 1670), biệt danh **Minette**, là một Vương nữ Anh, con gái của Charles I của Anh
**Elizabeth Stuart** (28 tháng 12 năm 1635 – 8 tháng 9 năm 1650) là con gái thứ hai của Charles I của Anh và Henriette Marie của Pháp. Từ khi sáu tuổi cho đến khi
**Anne của Anh, hay Anne Stuart** (17 tháng 3 năm 16375 tháng 11 năm 1640) là con gái của Charles I của Anh và Henriette Marie của Pháp. Anne là một trong ba đứa con
**Charles I** (đầu 1226/1227 – 7 tháng 1 năm 1285), thường được gọi là **Charles xứ Anjou** hoặc **Charles d'Anjou**, là thành viên của Vương triều Capet và là người sáng lập Nhà Anjou thứ
**Edward II của Anh** (25 tháng 4, 1284 – 21 tháng 9, 1327), còn gọi là **Edward xứ Caernarfon**, là Vua của Anh từ 1307 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 1 năm
**George II của Vương quốc Liên hiệp Anh** (George Augustus, tiếng Đức: _Georg II. August_, 30 tháng 10 hoặc 9 tháng 11 năm 1683 – 25 tháng 10 năm 1760) là Quốc vương Liên hiệp
**Isabel I của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: Isabel I de Castilla; tiếng Bồ Đào Nha: _Isabel I de Castela_; tiếng Anh: _Isabella of Castile_; tiếng Đức: _Isabella I. von Kastilien_; tiếng Pháp: _Isabelle Ire
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**Mary II của Anh** (30 tháng 4 năm 1662 – 28 tháng 12 năm 1694) là đồng quân vương của Vương quốc Anh, Scotland, và Ireland cùng với chồng và cũng là anh họ, Willem
**Edward VI của Anh** (tiếng Anh: _Edward VI of England_; tiếng Pháp: _Édouar VI d'Angleterre_; tiếng Tây Ban Nha: _Eduardo VI de Inglaterra_; 12 tháng 10 năm 1537 – 6 tháng 7 năm 1553) là
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Richard II** (6 tháng 1, 1367 – c. 14 tháng 2, 1400), còn được gọi là **Richard xứ Bordeaux**, là Vua của Anh từ 1377 đến khi bị lật đổ ngày 30 tháng 9 năm
**Eleanor của Anh** (tiếng Anh: _Eleanor of England_; 18 tháng 6 năm 1269 – 29 tháng 8 năm 1298) là con gái lớn nhất sống qua tuổi ấu thơ của Edward I của Anh và
**Henriette Marie của Pháp** (tiếng Pháp: _Henriette Marie de France_; 25 tháng 11, năm 1609 – 10 tháng 9, năm 1669) là Vương hậu của Vương quốc Anh, Ireland và Scotland với tư cách là
**Nội chiến Anh** (_English Civil War_, 1642–1651), sử liệu Mác-xít còn gọi là **Cách mạng tư sản Anh**, là một loạt các xung đột giữa phe Nghị hội ("Viên Đầu đảng") và phe Bảo hoàng
**William III** hoặc **Willem III xứ Oranje** (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là _Stadtholder_ các tỉnh Holland, Zeeland, Utrecht, Guelders,
**Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha** (1625–1630) là một cuộc chiến do Tây Ban Nha phát động nhằm chống lại Vương quốc Anh và Các tỉnh Liên hiệp. Cuộc xung đột này thuộc một phần của
**Barbara Villiers, Công tước thứ 1 xứ Cleveland, Bá tước phu nhân xứ Castlemaine** ( – 9 tháng 10 năm 1709), là tình nhân của Charles II của Anh. Barbara Villiers là chủ đề của
**Edward III của Anh** (13 tháng 11, 1312 – 21 tháng 6, 1377) là Vua của Anh và Lãnh chúa Ireland từ tháng 1 1327 đến khi qua đời; cuộc đời hiển hách của ông
**Edward VII của Anh** (Albert Edward; 9 tháng 11 năm 1841 – 6 tháng 5 năm 1910) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn
**Charles Cornwallis, Hầu tước Cornwallis thứ nhất** (31/12/1738 - 05/10/1805), là một tướng lĩnh và quan chức của Quân đội Anh. Từ năm 1753 đến 1762, ông được phong Tử tước xứ Brome và từ
**William IV của Liên hiệp Anh** (William Henry; 21 tháng 8 năm 1765 – 20 tháng 6 năm 1837) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ 26 tháng 6 năm 1830 cho
**George IV** hay **George Đệ Tứ** (tên tiếng Anh: George Augustus Frederick; 12 tháng 8 năm 1762 – 26 tháng 6 năm 1830) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ sau
**Edward VIII của Anh** (Edward Albert Christian George Andrew Patrick David; 23 tháng 6 năm 1894 – 28 tháng 5 năm 1972) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**Elizabeth của Anh** có thể đề cập đến những người sau: * Elizabeth I của Anh (1533–1603) là Nữ vương nước Anh từ năm 1558 cho đến khi qua đời. * Elizabeth II (1926–2022), Nữ
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
**Carlo Emanuele III của Sardegna** (tiếng Ý: _Carlo Emanuele III_; tiếng La Tinh: _Carolus Emmanuel III_; 27 tháng 4 năm 1701 – 20 tháng 2 năm 1773) là Công tước xứ Savoia, Vua của Sardinia
Chế độ quân chủ tại Vương quốc Anh bắt đầu từ Alfred Vĩ đại với danh hiệu _Vua của Anglo-Saxons_ và kết thúc bởi Nữ vương Anne, người đã trở thành Nữ vương Vương quốc
nhỏ|Lajos I khi vừa mới chào đời, theo cuốn _[[Illuminated Chronicle_.]] **Quốc vương Lajos I của Hungary** (; 5/3/1326 – 10/9/1382), còn gọi là **Lajos Vĩ đại**, **Lajos Đại đế** (; ; ) hay **Lajos
**Charles VIII I'Affable** (1470 – 1498) là vua Pháp từ năm 1483 đến khi mất. Ông là con của Louis XI và là một thành viên nhà Valois. Chị của Charles, Anne cùng chồng là
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
phải|nhỏ|Hình ảnh mô tả cảnh Charles bị giam cầm trong Tháp Luân Đôn từ một bản thảo được phát hiện về các bài thơ của ông **Charles I xứ Orléans** (24 tháng 11 năm 1394
**Charles VI của Pháp** (3 tháng 12 năm 1368 – 21 tháng 10 năm 1422 còn được gọi là **Charles le Bienaimé** hay **Charles le Fol** hoặc **le Fou**) là vị vua Pháp từ 1380
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
**François I** (tiếng Pháp: François Ier; tiếng Pháp Trung cổ: Francoys; 12 tháng 9 năm 1494 – 31 tháng 3 năm 1547) là Quốc vương Pháp từ năm 1515 cho đến khi qua đời vào
**Chiến tranh Anh-Hà Lan** (tiếng Anh: _the Anglo-Dutch Wars_, tiếng Hà Lan: _Engels–Nederlandse Oorlogen_ hoặc _Engelse Zeeoorlogen_) là một loạt các cuộc chiến giữa Anh và Các tỉnh thống nhất diễn ra trong hai thế
**Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là cơ quan lập pháp tối cao của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và các lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh. Quốc
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Louise Renée de Penancoët de Kérouaille, Công tước xứ Portsmouth** (tiếng Pháp: _Louise Renée de Penancoët de Keroual_; 6 tháng 9, năm 1649 - 14 tháng 11, năm 1734), là một quý tộc người Pháp,