Chiến tranh Anh-Hà Lan (tiếng Anh: the Anglo-Dutch Wars, tiếng Hà Lan: Engels–Nederlandse Oorlogen hoặc Engelse Zeeoorlogen) là một loạt các cuộc chiến giữa Anh và Các tỉnh thống nhất diễn ra trong hai thế kỷ 17 và 18 tranh giành quyền kiểm soát các con đường thương mại và hàng hải.
Bối cảnh
Trong thời Trung cổ và thời Phục Hưng, cả Anh lẫn các tỉnh ở Vùng Đất Thấp (Flanders và Hà Lan) đều không phải là những cường quốc hàng hải so với Bồ Đào Nha, Castile, Aragon hay Venice. Trong Chiến tranh tôn giáo Pháp ở thế kỷ 16 giữa triều đại Habsburg Thiên Chúa giáo và những quốc gia Tin lành mới nổi lên, nước Anh, dưới sự lãnh đạo của nữ hoàng Elizabeth I, đã xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh. Lực lượng này tiến hành các chiến dịch tấn công và cướp bóc chống lại Đế quốc Tây Ban Nha. Những cuộc tấn công này, được hoàng gia Anh tài trợ, lúc đầu mang lại rất nhiều chiến lợi phẩm, nhưng sau đó thất bại nặng nề khi vấp phải sự chống cự quyết liệt của hệ thống hải quân và tình báo quân sự Tây Ban Nha. Trong bối cảnh căng thẳng với Tây Ban Nha, Elizabeth I đã hỗ trợ cuộc Cách mạng Hà Lan bằng Hiệp ước Nonsuch 1585 với Các tỉnh liên kết. Hà Lan khi đó đấu tranh giành độc lập từ Tây Ban Nha và chiến đấu chống lại nhà Habsburg, một đồng minh thân cận của Tây Ban Nha.
Tuy nhiên, vào giai đoạn cuối thế kỷ 16, quan hệ Anh-Tây Ban Nha bắt đầu được cải thiện. Hòa bình tái lập năm 1605, kết thúc các hoạt động cướp bóc lẫn nhau trên biển (cuộc chiến năm 1625 chỉ là thay đổi ngắn trong chính sách). Hệ quả là hải quân Anh không còn được đầu tư nhiều như trước kia. Trong khi đó phía Hà Lan, vẫn tiếp tục cuộc chiến với nhà Habsburg và vẫn đầu tư cho hải quân để tiến hành các chiến dịch dài ngày trên biển. Năm 1628, đô đốc hải quân Hà Lan Piet Heyn tấn công và bắt được một đoàn tàu trở châu báu lớn của Tây Ban Nha, sự kiện đánh dấu giai đoạn hải quân Hà Lan qua mặt Bồ Đào Nha trở thành những thương gia trên biển số một của châu Âu, nối với châu Á và vùng Viễn Đông. Việc chiếm được các thương cảng của Bồ Đào Nha ở Đông Ấn giúp người Hà Lan kiểm soát tuyến đường hàng hải buôn gia vị đầy lợi lộc. Nhờ đó, các đội thương thuyền Hà Lan phát triển ngày càng mạnh mẽ, với quy mô đủ lớn để có thể đóng hàng loạt nhiều tàu với giá rẻ. Điều đó tất yếu dẫn đến đụng độ giữa các đội hàng hải Hà Lan với những thế lực cũ trên biển của châu Âu, cho nhiều vị trí chiến lược, đặc biệt là đường thương mại qua biển Baltic.
Từ tháng 1 năm 1631, Charles I của Anh xúc tiến một loạt thỏa thuận bí mật với Tây Ban Nha nhắm kiềm chế sức mạnh trên biển của Hà Lan. Ông cũng thực hiện một chương trình cải cách hải quân quy mô lớn với việc xây các chiến thuyền khổng lồ như HMS Sovereign of the Seas. Tuy nhiên, chính sách của Charles I không thật sự thành công. Do lo sợ làm tổn hại quan hệ tốt đẹp với vị thống đốc đầy quyền lực ở Hà Lan, Frederick Henry, Công vương của Orange, những hỗ trợ của Charles I với Tây Ban Nha chỉ giới hạn ở việc cho phép quân Habsburg sử dụng các tàu trung lập của Anh trên đường tới Dunkirk. Năm 1636 và 1637, Charles I thực thi những biện pháp không chính thức nhằm thu tiền đánh cá ở biển bắc với các tàu cá Hà Lan, nhưng sự can thiệp của hải quân Hà Lan sau đó đã khiến Anh phải chấm dứt kế hoạch này. Năm 1639, khi một hải đội vận tải lớn của Tây Ban Nha xin tị nạn ở các cảng vùng phía nam nước Anh, Charles I không dám bảo vệ đội thuyền khi quân Hà Lan tấn công. Trận Downs đã làm suy giảm nghiêm trọng sức mạnh hàng hải của Tây Ban Nha cũng như uy tín cá nhân của Charles I.
Cuộc nội chiến ở Anh, diễn ra sau đó không lâu, càng khiến hải quân Anh thêm suy yếu. Lực lượng hải quân bị chia rẽ giống như các thế lực chính trị trong nước. Quân Hà Lan, chiếm ưu thế cả trên biển và đất liền, giành quyền kiểm soát thậm chí cả các đường thương mại hàng hải giữa Anh với những thuộc địa Bắc Mỹ của Anh. Tuy nhiên, từ năm 1648 đến 1651, tình hình hoàn toàn đảo ngược. Năm 1648, Các tỉnh liên kết ký Hòa ước Münster với Tây Ban Nha. Hòa ước này gây ra mâu thuẫn giữa các thành bang lớn của Hà Lan cũng như vị thống đốc mới William II, Vương công của Orange, đẩy nước cộng hòa non trẻ đến bờ vực một cuộc nội chiến. Cái chết bất ngờ của William II vào năm 1650 khiến các căng thẳng chính trị càng gia tăng. Trong khi đó ở Anh, Oliver Cromwell đã thống nhất được đất nước và trong vài năm xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh, tăng nhanh số tàu và cải thiện tổ chức cũng như kỷ luật. Lúc này, Anh đã sẵn sàng để thách thức quyền lực thương mại trên biển của Hà Lan.
Quan điểm chính trị ở Anh với Hà Lan cũng trở nên hung hăng hơn. Nhiều người Anh coi Hà Lan là kẻ vong ân bội nghĩa khi đổi lại những hỗ trợ trong cuộc chiến với người Tây Ban Nha, Hà Lan lại vươn lên trở thành một quốc gia hùng mạnh hơn đồng minh bảo hộ Anh. Họ chiếm quyền đánh bắt cá trích ngay sát bờ biển tây nam Anh, đẩy người Anh ra khỏi con đường hàng hải qua Đông Ấn, đánh thuế với các tàu Anh khi họ trên đường qua thuộc địa của chính mình. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân trực tiếp khác: sự suy yếu của Tây Ban Nha sau cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm kết thúc năm 1648, tranh giành thuộc địa, quyền thương mại với bán đảo Iberia và sự ủng hộ của nhà Orange với những đối thủ chính trị lưu vong của Cromwell. Các thống đốc ở Hà Lan luôn ủng hộ phái hoàng gia Anh trong cuộc chiến với Cromwell và lên án gay gắt vụ hành quyết Charles I.
Đầu năm 1651, Cromwell tìm cách giảm bớt căng thẳng khi ông cử một phái đoàn đến The Hague, đề nghị Hà Lan gia nhập Khối Thịnh vượng chung và hỗ trợ Anh chinh phục các thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ. Tuy nhiên, cuộc thương thảo đã kết thúc trong thất vọng khi phía Hà Lan từ chối yêu cầu hoàn toàn vô lý đó. Đi xa hơn, thống đốc Hà Lan, có tư tưởng thân gia đình hoàng tộc Anh Stuart, còn ra lệnh tấn công và cướp bóc đoàn đại biểu của Cromwell. Sau khi nhận được báo cáo của đoàn sứ thần quay về, Nghị viện Anh, rất tức giận trước thái độ của người Hà Lan, quyết định theo đuổi chính sách đối đầu.
Cuộc chiến thứ nhất (1652-1654)
Để bảo vệ vị trí của mình ở Bắc Mỹ, tháng 10 năm 1651, Nghị viện Anh thông qua đạo luật hàng hải quy định tất cả hàng hóa nhập khẩu vào Anh phải do tàu Anh hoặc tàu từ nước xuất khẩu chuyên chở. Đạo luật này đã loại trừ các tàu buôn trung gian, hầu hết là của Hà Lan, ra khỏi các hoạt động thương mại hàng hải với Anh. Một cách trực tiếp, đạo luật này không ảnh hưởng mấy đến quyền lợi của hàng hải Hà Lan. Tuy nhiên, một cách gián tiếp, giờ đây các tàu cướp biển hoạt động ở những vùng biển Anh có thể tấn công cướp bóc bất cứ tàu Hà Lan nào họ gặp mà không sợ làm phật lòng Anh. Hà Lan đối phó bằng cách vũ trang mạnh cho các tàu buôn. Căng thẳng gia tăng khi phía Anh, muốn khôi phục vị trí bá chủ trên biển trước kia, yêu cầu các tàu nước ngoài phải hạ thấp cờ để chào tàu của họ, ngay cả ở những cảng không phải ở Anh. Ngày 29 tháng 5 năm 1652, Chuẩn đô đốc Maarten Tromp của Hà Lan từ chối thực hiện nghi thức đó khi gặp một hải đội Anh. Va chạm vũ trang liền xảy ra giữa hai phía, trận Goodwin Sands. Sau sự kiện đó, Anh tuyên chiến với Hà Lan ngày 10 tháng 7 năm 1652.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Anh-Hà Lan** (tiếng Anh: _the Anglo-Dutch Wars_, tiếng Hà Lan: _Engels–Nederlandse Oorlogen_ hoặc _Engelse Zeeoorlogen_) là một loạt các cuộc chiến giữa Anh và Các tỉnh thống nhất diễn ra trong hai thế
**Chiến tranh Pháp – Hà Lan**, gọi tắt là **Chiến tranh Pháp – Hà** (tiếng Pháp: _La Guerre de Hollande_) (1672–78) là một cuộc chiến tranh diễn ra giữa Pháp, Thụy Điển, Giám mục hoàng
**Hà Lan** ( ) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire,
**Đế quốc Hà Lan** () bao gồm các vùng lãnh thổ ở nước ngoài thuộc tầm kiểm soát của Hà Lan từ thế kỷ 17 đến những năm 1950. Người Hà Lan đã theo sau
**Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha** (1625–1630) là một cuộc chiến do Tây Ban Nha phát động nhằm chống lại Vương quốc Anh và Các tỉnh Liên hiệp. Cuộc xung đột này thuộc một phần của
**Các tỉnh Thống nhất Hà Lan**, hoặc **Các tỉnh thống nhất**, **Các tỉnh liên hiệp** (tiếng Hà Lan: _Republiek der Zeven Verenigde Nederlanden_) hay **Cộng hoà Hà Lan Thống nhất**, **Cộng hoà Bảy Tỉnh Thống
**Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai**, **Chiến tranh Anh-Trung**, **Chiến tranh Trung Hoa lần thứ hai**, **Chiến tranh Mũi tên**, hoặc **Anh-Pháp viễn chinh Trung Quốc**, là một cuộc chiến tranh giữa Đế quốc
**Phòng tuyến nước của Hà Lan** ( là một loạt các hệ thống phòng thủ nước được Maurits van Oranje hình thành vào đầu thế kỷ 17 và được người anh em cùng cha khác
**Tân Hà Lan** (; hay ) là một thuộc địa của Cộng hòa Hà Lan vào thế kỷ 17 nằm trên bờ biển phía đông của Bắc Mỹ. Lãnh thổ được tuyên bố kéo dài
**Chiến tranh thương mại** là hiện tượng trong đó hai hay nhiều nước tăng hoặc tạo ra thuế hoặc các loại rào cản thương mại (gồm: giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu,
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối
**Các cuộc chiến tranh của Napoléon**, hay thường được gọi tắt là **Chiến tranh Napoléon** là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các
**Chiến tranh Bảy Năm** (1756–1763) là cuộc chiến xảy ra giữa hai liên quân gồm có Vương quốc Anh/Vương quốc Hannover (liên minh cá nhân), Vương quốc Phổ ở một phía và Pháp, Áo, Nga,
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**William III** hoặc **Willem III xứ Oranje** (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là _Stadtholder_ các tỉnh Holland, Zeeland, Utrecht, Guelders,
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Chiến tranh Kế vị Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Wojna o sukcesję polską_; tiếng Anh: _War of the Polish Succession_; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội
**Chiến dịch Đông Ấn Hà Lan** là một chuỗi các hoạt động quân sự của Đế quốc Nhật Bản từ tháng 12 năm 1941 đến tháng 3 năm 1942 nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà
**Chiến tranh Trăm Năm** là cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp kéo dài từ năm 1337 đến năm 1453 nhằm giành giật lãnh thổ và ngôi vua Pháp. Hai phe chính tham gia vào
**Chiến tranh Tôn giáo Pháp** là một chuỗi gồm tám cuộc tranh chấp giữa phe Công giáo và phe Huguenot (Kháng Cách Pháp) từ giữa thế kỷ 16 kéo dài đến năm 1598. Ngoài những
**Chiến tranh 335 năm** (1651–1986) là một chiến tranh giữa Cộng hòa Hà Lan và quần đảo Scilly (nằm cách bờ biển tây nam của xứ Cornwall, Anh). Vì chiến tranh này kéo dài 335
nhỏ| Áp phích phim cho _[[Hawai Mare oki kaisen|Hawai Mare oki kaisen của_ Kajiro Yamamoto, (ハ ワ イ ・ マ レ ー 沖 海 戦, _The War at Sea from Hawaii to Malaya_ ), Toho
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Đông Ấn Hà Lan** (; ) từng là một thuộc địa của Hà Lan với lãnh thổ chủ yếu bao gồm lãnh thổ của nhà nước hiện đại Indonesia. Đông Ấn Hà Lan được thành
**Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất** (tiếng Trung: 第一次鸦片战争; bính âm: _Dìyīcì Yāpiàn Zhànzhēng_; tiếng Anh: _First Opium War_), còn được gọi là **Chiến tranh thuốc phiện lần 1** hay **Chiến tranh Anh-Thanh**,
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
**Brasil thuộc Hà Lan**, hay còn gọi là **Tân Hà Lan**, là phần phía bắc của thuộc địa Bồ Đào Nha ở Brasil, cai quản bởi Cộng hòa Hà Lan trong quá trình Hà Lan
**Xung đột Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Trong** là cuộc xung đột giữa xứ Đàng Trong do các chúa Nguyễn cai trị thời chúa Nguyễn Phúc Lan với Công ty Đông Ấn
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Liên minh thứ năm** chỉ gồm có Vương quốc Anh và Áo, chống lại Đế quốc Pháp cùng các đồng minh là Vương quốc Ý, Bayern, Sachsen, Hà Lan, Napoli, Liên bang sông Rhine, Công
**_Nỗi buồn chiến tranh_**, có giai đoạn mang tên **_Thân phận của tình yêu**,_ là một tiểu thuyết của nhà văn Bảo Ninh. _Nỗi buồn chiến tranh_ ra đời năm 1987, xuất bản lần đầu
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1939. ## Tháng 9 năm 1939 thumb|Các quốc gia Đồng Minh và phe Trục
**_Chiến tranh Trăm Năm thứ hai_** (khoảng 1689 - 1815) là sự phân kỳ lịch sử hoặc thuật ngữ thời đại lịch sử được một số nhà sử học dùng để mô tả một loạt
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại hậu quả kéo dài trong khoảng thời gian từ năm 1945 - 1957. Thế giới từ chỗ đa cực đã chuyển thành lưỡng cực với sự
**Người Canada gốc Hà Lan** là người Canada có tổ tiên toàn bộ hoặc một phần từ người Hà Lan. Theo Điều tra dân số năm 2016, có 1.035.965 người Canada gốc Hà Lan, bao
**Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh** (War Remnants Museum) là một bảo tàng vì hòa bình ở số 28 đường Võ Văn Tần, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
**Chiến dịch bình định Đài Loan của Hà Lan** là một chuỗi các hành động quân sự và ngoại giao do chính quyền thuộc địa Hà Lan tiến hành vào các năm 1635 và 1636
**Chiến tranh đảo Crete** (, ), còn được gọi là **Chiến tranh Candia** () hay **Chiến tranh Ottoman–Venezia lần thứ năm**, là một cuộc xung đột kéo dài từ năm 1645 đến năm 1669 giữa
Một hố chôn tập thể tại cánh rừng Katyn nơi hàng nghìn sĩ quan, học giả và tù binh chiến tranh bị giết trong vụ [[Thảm sát Katyn (1940)]] **Tội ác chiến tranh gây ra
Xiêm La và Miến Điện là hai nước láng giềng nằm ở phía tây của bán đảo Đông Nam Á, vốn có những mối quan hệ phức tạp về nhiều mặt. Từ thế kỷ XVI
**Đế quốc Anh** () bao gồm các vùng tự trị, thuộc địa được bảo hộ, ủy thác và những lãnh thổ khác do Khối liên hiệp Anh và các quốc gia tiền thân của nó
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ