✨Cộng hòa Hà Lan

Cộng hòa Hà Lan

Các tỉnh Thống nhất Hà Lan, hoặc Các tỉnh thống nhất, Các tỉnh liên hiệp (tiếng Hà Lan: Republiek der Zeven Verenigde Nederlanden) hay Cộng hoà Hà Lan Thống nhất, Cộng hoà Bảy Tỉnh Thống nhất (tiếng Hà Lan: Republiek der Zeven Provinciën Verenigde), thường được giới sử học gọi ngắn gọn là Cộng hoà Hà Lan, là một nước cộng hoà liên bang tồn tại từ năm 1588, sau Cách mạng Hà Lan đến năm 1795 sau Cách mạng Batavia. Đây là nhà nước tiền thân của Vương quốc Hà Lan hiện tại và là nhà nước Hà Lan độc lập và thống nhất đầu tiên.

Nước cộng hoà được thành lập sau khi một tỉnh của Hà Lan nổi dậy chống lại sự cai trị của Đế quốc Tây Ban Nha tại thuộc địa Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Các tỉnh đồng lòng đứng cạnh nhau để lập ra một liên minh chống lại Tây Ban Nha vào năm 1579 (Liên minh Utrecht) và tuyên bố độc lập vào năm 1581 qua Đạo luật Abjuration. Lãnh thổ của nhà nước này bao gồm Groningen, Frisia, Overijssel, Gelderland, Utrecht, Holland và Zeeland.

Mặc dù nhà nước liên bang này có diện tích khiêm tốn và dân số chỉ khoảng 1,5 triệu người, nhưng nó lại kiểm soát một mạng lưới các tuyến đường biển thương mại trên toàn thế giới. Thông qua các công ty thương mại của mình, Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) và Công ty Tây Ấn Hà Lan (GWC), đã tiến hành thành lập một Đế chế thuộc địa của Hà Lan. Thu nhập vô cùng lớn từ thương mại đã giúp Cộng hoà Hà Lan có thể cạnh tranh quân sự được với các nước hùng mạnh ở Châu Âu. Nó có một hạm đội khổng lồ gồm 2.000 tàu, lớn hơn cả các hạm đội của Vương quốc Anh và Vương quốc Pháp cộng lại. Các cuộc xung đột lớn đã xảy ra trong cuộc Chiến tranh Tám Mươi Năm chống lại Đế quốc Tây Ban Nha (từ khi thành lập Cộng hoà Hà Lan cho đến năm 1648), Chiến tranh Hà Lan-Bồ Đào Nha (1602 - 1663), bốn cuộc Chiến tranh Anh-Hà Lan chống lại Vương quốc Anh (1652 - 1654, 1665 - 1667, 1672 - 1674 và 1780 - 1784), Chiến tranh Pháp-Hà Lan (1672 - 1678) và Chiến tranh Chín Năm (1688 - 1697) chống lại Vương quốc Pháp.

Nếu so với các quốc gia đương thời, Cộng hoà Hà Lan khoan dung hơn với các tôn giáo và tư tưởng, cho phép cư dân tự do tư tưởng. Các loại hình nghệ thuật phát triển mạnh mẽ dưới chế độ này, điển hình như các hoạ sĩ Rembrandt, Johannes Vermeer và nhiều nhân vật khác. Cộng hoà Hà Lan cũng là miền đất tốt ươm mầm nên các nhà khoa học như Hugo Grotius, Christiaan Huygens và Antonie van Leeuwenhoek. Bởi vì thương mại, khoa học, quân sự và nghệ thuật của Hà Lan đi đầu và phát triển rực rỡ bậc nhất thế giới trong phần lớn thế kỷ XVII, thời kỳ này được Lịch sử Hà Lan gọi là Thời kỳ hoàng kim Hà Lan.

Nước cộng hoà được tạo ra từ một liên minh của các tỉnh, vì thế mỗi tỉnh có mức độ độc lập cao với Hội đồng liên bang, được gọi là States General. Trong Hòa ước Westphalia (1648), nước cộng hoà đã giành được thêm 20% lãnh thổ, nằm bên ngoài Hà Lan, được cai trị trực tiếp bởi chính phủ trung ướng gọi là Vùng đất Chung. Mỗi tỉnh được lãnh đạo bởi một quan chức được gọi là Stadtholder (tiếng Hà Lan có nghĩa là người quản lý); Vị trí này dành cho bất kỳ ai, nhưng hầu hết ở các tỉnh đều bổ nhiệm người của Nhà Orange. Vị trí này dần trở thành cha truyền con nối, với việc Hoàng thân Orange đồng thời nắm giữ hầu hết hoặc tất cả các chức tước cấp cao nhất, khiến người Nhà Orange trở thành Nguyên thủ quốc gia. Điều này đã tạo ra sự căng thẳng giữa các phe phái chính trị, gây ra bất ổn quốc gia và chấm dứt địa vị Cường quốc của Hà Lan.

Lịch sử

Cho đến thế kỷ XVI, Các quốc gia vùng đất thấp—tương ứng với Hà Lan, Bỉ và Luxembourg ngày nay—bao gồm một số công quốc, bá quốc và giáo phận vương quyền, hầu hết tất cả đều nằm dưới quyền tối cao của Đế chế La Mã thần thánh, ngoại trừ Bá quốc Flanders, phần lớn thuộc Vương quốc Pháp.

Hầu hết Vùng đất thấp nằm dưới sự cai trị của Nhà Burgundy và sau đó là thuộc Nhà Habsburg. Năm 1549, Hoàng đế La Mã Thần thánh Karl V ban hành Lệnh trừng phạt thực dụng, tiếp tục thống nhất Mười bảy tỉnh dưới sự cai trị của ông. Karl được kế vị bởi con trai ông, Philip II của Tây Ban Nha. Năm 1568, các tỉnh Hà Lan, do William I xứ Orange lãnh đạo, cùng với Philip de Montmorency, Bá tước xứ Hoorn, và Lamoral, Bá tước xứ Egmont nổi dậy chống lại Philip II vì thuế cao, chính phủ đàn áp người Tin lành và nỗ lực hiện đại hóa của Philip và tập trung hóa các cấu trúc chính quyền trung cổ được phân cấp của các tỉnh. Đây là sự khởi đầu của Chiến tranh Tám mươi năm. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, cuộc nổi dậy phần lớn không thành công. Tây Ban Nha giành lại quyền kiểm soát hầu hết các tỉnh nổi dậy. Giai đoạn này được gọi là "Cơn thịnh nộ của người Tây Ban Nha" do số lượng lớn các vụ thảm sát, các trường hợp cướp bóc hàng loạt và sự phá hủy hoàn toàn nhiều thành phố, đặc biệt là Antwerp trong khoảng thời gian từ 1572 đến 1579.

Năm 1579, một số tỉnh phía Bắc của Vùng đất thấp đã ký kết Liên minh Utrecht, trong đó họ cam kết sẽ hỗ trợ lẫn nhau trong việc phòng thủ chống lại Quân đội Flanders. Tiếp theo là Đạo luật Abjuration vào năm 1581, tuyên bố độc lập của các tỉnh khỏi sự cai trị của Philip II. Chủ nghĩa thực dân Hà Lan bắt đầu vào thời điểm này, vì Hà Lan đã có thể đánh chiếm một số thuộc địa của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, đặc biệt là ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Sau vụ ám sát William xứ Orange vào ngày 10 tháng 7 năm 1584, cả Henri III của Pháp và Elizabeth I của Anh đều từ chối các đề nghị về chủ quyền. Tuy nhiên, sau này đã đồng ý biến Các tỉnh thống nhất thành một lãnh thổ bảo hộ của Anh (Hiệp ước Nonsuch, 1585), và cử Bá tước xứ Leicester làm thống đốc. Điều này đã không thành công và vào năm 1588, các tỉnh đã trở thành một liên minh. Liên minh Utrecht được coi là nền tảng của Cộng hòa Bảy tỉnh Thống nhất, không được Tây Ban Nha công nhận cho đến Hòa ước Westphalia năm 1648.

Chính trị

thumb|Các tỉnh Thống nhất, với [[Drenthe và Các vùng đất chung]]

Nước cộng hoà Hà Lan là một liên minh của 7 tỉnh, mỗi tỉnh đều có chính phủ riêng và rất độc lập. Ngoài ra nước cộng hoà còn được quản lý một số lãnh thổ nằm ngoài gọi là Vùng đất chung/Generality Lands, được quản lý trực tiếp bởi chính phủ trung ương của Hà Lan. Cơ quan cao nhất của nhà nước là States General, nơi tập trung các đại diện từ 7 tỉnh, trụ sở được đặt tại The Hague. Các tỉnh của nước cộng hoà, theo thứ tự phong kiến chính thức:

Công quốc Guelders

Bá quốc Holland

Bá quốc Zeeland

Lãnh địa Utrecht

Lãnh địa Overijssel

Lãnh địa Frisia

Lãnh địa Groningen

Trên thực tế Công hoà Hà Lan có tỉnh thứ tám, đó là Bá quốc Drenthe, nhưng lãnh thổ này vô cùng nghèo, đến mức nó được miễn nộp thuế liên bang, do đó tỉnh này không có người đại diện trong States General. Mỗi tỉnh được quản lý bởi chính quyền tỉnh, đứng đầu bởi một quan chức hành pháp, chức danh này được gọi là raadspensionaris. Trong thời chiến, stadtholder có nhiều quyền lực hơn những raadspensionaris.

Về lý thuyết, các stadtholder được bầu chọn một cách độc lập bởi các tỉnh, tuy nhiên, thực tế thì các Thân vương xứ Orange thuộc Nhà Orange-Nassau, bắt đầu từ thời William the Silent, luôn được chọn vào ghế Stadtholder của hầu hết các tỉnh. Zeeland và Utrecht thường có cùng stadtholder với Holland. Có một cuộc tranh giành quyền lực liên tục giữa phe Orangists, những người ủng hộ các thế hệ của Thân vươn xứ Orange và phe Cộng hòa, những người ủng hộ Tướng quốc (States General), với hy vọng thay đổi bản chất chính thể "cha truyền con nối" sang cơ cấu cộng hoà thực sự.

Sau Hòa ước Westfalen, một số lãnh thổ ở biên giới Hà Lan-Đức đã được giao lại cho Cộng hoà Hà Lan. Những lãnh thổ này được quản lý bởi Generality Lands (Các vùng đất chung). Đó là Staats-Brabant, Staats-Vlaanderen, Staats-Overmaas, và (sau Hiệp ước Utrecht) Staats-Opper-Gelre. Tướng quốc (States General) của Cộng hoà Hà Lan thuộc quyền kiểm soát của Công ty Đông Ấn Hà Lan và Công ty Tây Ấn Hà Lan, nhưng một số cuộc thám hiểm vận tải biển đã được khởi xướng bởi một số tỉnh, chủ yếu là Holland và Zeeland.

Những nhà lập quốc Hoa Kỳ đã ảnh hưởng từ Hiến pháp của Cộng hòa Hà Lan, điều này thế hiện trong Hiến pháp Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ảnh hưởng như vậy có vẻ mang tính chất tiêu cực, như James Madison mô tả Liên minh Hà Lan thể hiện "Sự yếu kém trong chính phủ; sự bất hòa giữa các tỉnh; ảnh hưởng của nước ngoài và sự thù địch; tồn tại bấp bênh trong hòa bình và những tai họa đặc biệt từ chiến tranh". Ngoài điều này ra, Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ tương tự như Đạo luật Hủy bỏ, về cơ bản là tuyên bố độc lập của Các Tỉnh Thống nhất, nhưng bằng chứng cụ thể cho thấy cái sau ảnh hưởng trực tiếp đến cái trước là không có.

Kinh tế

thumb|[[Euronext Amsterdam|Sân giao dịch chứng khoán Amsterdam, 1653]] Trong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan vào thế kỷ XVI và XVII, Cộng hoà Hà Lan thống trị nền thương mại toàn cầu, chinh phục các vùng đất ngoài châu Âu để tạo lập nên một thuộc địa rộng lớn cũng như vận hành đội tàu buôn lớn nhất thế giới. Lãnh thổ của 7 tỉnh Hà Lan được xem là khu vực giàu có nhất và đô thị hoá nhanh nhất thế giới thời bấy giờ. Năm 1650, dân số thành thị của Cộng hoà Hà Lan tính theo phần trăm tổng dân số là 31,7%, trong khi đó của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha là 20,8%, của Bồ Đào Nha là 16,6% và của Ý là 14%.

Tinh thần thương mại tự do vào thời điểm đó được tăng cường nhờ sự phát triển của thị trường chứng khoán hiện đại. Hà Lan có sàn giao dịch chứng khoán lâu đời nhất trên thế giới, được thành lập vào năm 1602 bởi Công ty Đông Ấn Hà Lan, trong khi Rotterdam có sàn giao dịch lâu đời nhất Hà Lan.

Hà Lan được ví như Florence trong thế kỷ XIV về những hoạt động tài chính và ngân hàng. Khi Nam Âu đang trải qua mùa màng thất bát, lượng ngũ cốc dư thừa của Ba Lan đã được thương nhân Hà Lan mua lại và bán đi với giá cao ngất trời.

Tiền tệ

Sau khi nền cộng hòa liên hiệp được thành lập, năm 1659 các tỉnh của Hà Lan bắt đầu cho đúc tiền để thay cho đồng tiền của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, những xu bạc này gọi là ducaton, vấn đề đúc tiền được tự chủ và độc lập bởi các tỉnh. Tuy mẫu tiền ducaton giống nhau với mặt trước của xu là "Hiệp sĩ cưỡi ngựa" và mặt sau là quốc huy của Công hòa Hà Lan nhưng phía dưới hình tượng Hiệp sĩ cưỡi ngựa sẽ có "huy hiệu" của tỉnh đúc xu.

Ducaton bạc Hà Lan được xem là loại tiền tệ dùng để thanh toán trong thương mại quốc tế thời bấy giờ, cạnh tranh với xu bạc Đô la Tây Ban Nha và Thaler Maria Theresa của Đế quốc La Mã Thần thánh. Nhưng ducaton có phần lợi thế hơn vì tỷ lệ bạc trong xu lên đến 94,1% và trọng lượng xu lên đến 32,779 gam. Xu bạc ducaton Hà Lan được đúc cho đến năm 1798. Trong giai đoạn 1726 - 1751, những xu bạc ducaton mặt sau đều đúc biểu tượng của Công ty Đông Ấn Hà Lan.

Danh sách các mẫu xu bạc 1 ducaton được đúc tại các tỉnh

Tập tin:1 ducaton Overijssel, Dutch Republic, 1734.png|1 ducaton Cộng hòa Hà Lan, được đúc tại tỉnh Overijssel - 1734 Tập tin:1 ducaton Utrecht, 1772.jpg|1 ducaton Cộng hòa Hà Lan, được đúc tại tỉnh Utrecht - 1772 Tập tin:1 ducaton Holland - 1780.png|1 ducaton Cộng hoà Hà Lan, được đúc tại tỉnh Holland - 1780 Tập tin:1 ducaton Frisland 1784.png|1 ducaton Cộng hòa Hà Lan, được đúc tại tỉnh Friesland - 1784 Tập tin:1 ducaton Gelderland 1792.png| 1 ducaton Cộng hòa Hà Lan, được đúc bởi tỉnh Gelderland - 1792

Suy yếu và sụp đổ

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Các tỉnh Thống nhất Hà Lan**, hoặc **Các tỉnh thống nhất**, **Các tỉnh liên hiệp** (tiếng Hà Lan: _Republiek der Zeven Verenigde Nederlanden_) hay **Cộng hoà Hà Lan Thống nhất**, **Cộng hoà Bảy Tỉnh Thống
**Đế quốc Hà Lan** () bao gồm các vùng lãnh thổ ở nước ngoài thuộc tầm kiểm soát của Hà Lan từ thế kỷ 17 đến những năm 1950. Người Hà Lan đã theo sau
Hà Lan, bất chấp diện tích và dân số thực sự khiêm tốn, có một phần đóng góp đáng kể trong quá trình hình thành nên xã hội hiện đại ngày nay. Đất nước Hà
**Thời kỳ hoàng kim Hà Lan** là một thời kỳ phát triển rực rỡ trong lịch sử Hà Lan. Thời kỳ này trải dài trong thế kỷ 17. Hà Lan trong thời kỳ này nằm
**Chiến tranh Pháp – Hà Lan**, gọi tắt là **Chiến tranh Pháp – Hà** (tiếng Pháp: _La Guerre de Hollande_) (1672–78) là một cuộc chiến tranh diễn ra giữa Pháp, Thụy Điển, Giám mục hoàng
**Hà Lan** ( ) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire,
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
**Wilhelmina** (; _Wilhelmina Helena Pauline Maria_; 31 tháng 8 năm 1880 – 28 tháng 11 năm 1962) là Nữ vương của Hà Lan từ năm 1890 cho đến khi thoái vị vào năm 1948. Bà
**Brasil thuộc Hà Lan**, hay còn gọi là **Tân Hà Lan**, là phần phía bắc của thuộc địa Bồ Đào Nha ở Brasil, cai quản bởi Cộng hòa Hà Lan trong quá trình Hà Lan
right|thumb|Xưởng đóng tàu của công ty Đông Ấn tại [[Amsterdam, Hà Lan.]] Cổ phiếu ngày 26/9/1606 của công ty Đông Ấn Hà Lan **Công ty Đông Ấn Hà Lan** ( hay **VOC**, có nghĩa là:
nhỏ|phải|Một bông hoa tulip, còn gọi là "Phó Vương", trong một mục lục tại Hà Lan năm 1637. Củ của nó có giá từ 3000 tới 4200 [[guider Hà Lan|florin tùy vào kích cỡ. Một
**Người Hà Lan** (tiếng Hà Lan: _Nederlanders_) là dân tộc chủ yếu ở Hà Lan . Họ chia sẻ một nền văn hóa chung và nói tiếng Hà Lan. Người Hà Lan, hoặc con cháu
thumb|_Lời thề tuyên thệ phê chuẩn hiệp ước Münster năm 1648_ vẽ bởi [[Gerard ter Borch]] thumb|Châu Âu sau Hòa ước Westphalia năm 1648 thumb|_Lễ Hòa bình Münster_ (1648) vẽ bởi [[Bartholomeus van der Helst]]
**Hòa ước Westfalen** (, ) là tên gọi chung của 2 hiệp ước hòa bình được ký kết vào tháng 10 năm 1648 tại các thành phố Osnabrück và Münster của Westfalen. Hòa ước đã
phải|_Một cái nhìn của Chinsura khu định cư Hà Lan tại Bengal_ (1787). **Ấn Độ Hà Lan** bao gồm các khu định cư và trụ sở giao dịch của Công ty Đông Ấn Hà Lan
**Willem I** (tiếng Hà Lan: _Willem Frederik_; 24 tháng 8 năm 1772 – 12 tháng 12 năm 1843) là vua của Hà Lan, kiêm Đại công tước của Luxembourg từ năm 1815 cho đến khi
**Tân Hà Lan** (; hay ) là một thuộc địa của Cộng hòa Hà Lan vào thế kỷ 17 nằm trên bờ biển phía đông của Bắc Mỹ. Lãnh thổ được tuyên bố kéo dài
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Anh: _Wihelmine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Luise Wilhelmine_; 18 tháng 11 năm 1774 – 12 tháng 10 năm 1837) là Vương hậu đầu tiên
**Quốc hội Hà Lan** ( ) là cơ quan lập pháp lưỡng viện của Hà Lan, gồm Thượng viện và Hạ viện. Cả hai viện này họp tại Binnenhof ở Den Haag. Quốc hội Hà
**Cộng hòa Batavia** (; ) là nước thừa kế của Cộng hòa Bảy Hợp Chúng quốc Hà lan. Quốc gia thành lập vào ngày 19 tháng 1 năm 1795 và diệt vong vào ngày 05
**Danh sách các nước cộng hòa** là danh sách liệt kê các quốc gia có chính phủ theo thể chế cộng hòa. ## Các quốc gia cộng hòa theo từng thời kỳ ### Cổ đại
**Nữ vương Juliana** (_Juliana Louise Emma Marie Wilhelmina_; 30 tháng 4 năm 1909 – 20 tháng 3 năm 2004) là Nữ vương Hà Lan từ năm 1948 cho đến khi bà thoái vị năm 1980.
**Formosa thuộc Hà Lan** đề cập đến thời kỳ chính quyền thuộc địa Hà Lan tồn tại ở Formosa (nay gọi là Đài Loan) từ năm 1624 đến 1662. Trong bối cảnh thời đại khám
thumb|Chợ pho mát ở [[Gouda]] thumb|[[Rijsttafel nhỏ tại một bữa tiệc ở Hà Lan]] **Ẩm thực Hà Lan** () hình thành từ truyền thống nấu ăn của người Hà Lan. Ẩm thực của quốc gia
**Hội nghị bàn tròn Hà Lan–Indonesia** được tổ chức tại Den Haag từ ngày 23 tháng 8 – 2 tháng 11 năm 1949, giữa các đại biểu của Hà Lan, nước Cộng hòa Indonesia và
**Phòng tuyến nước của Hà Lan** ( là một loạt các hệ thống phòng thủ nước được Maurits van Oranje hình thành vào đầu thế kỷ 17 và được người anh em cùng cha khác
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
**Nhà nước Hà Lan tranh kiện pháp lý với Tổ chức Urgenda** (; ) là một vụ kiện pháp lý tại Tòa án tối cao Hà Lan năm 2019 liên quan đến những nỗ lực
**Tên người Hà Lan** bao gồm một hoặc nhiều tên được đặt và tên họ. Tên được đặt trong tiếng Anh và thường có giới tính cụ thể. ## Tên được đặt Tên gọi được
**Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là một đơn vị cấp sư đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là một trong 2 đơn vị chủ lực thuộc Quân
**Cộng hòa** (chữ Hán: 共和) dựa trên cụm từ tiếng Latinh _res publica_ ('công vụ'), là một quốc gia mà quyền lực chính trị nằm trong tay của nhân dân thông qua những người đại
nhỏ| Như các logo trên cửa sổ hiển thị, RKD chia sẻ cùng tòa nhà (nằm gần [[Den Haag trung tâm|Den Haag Centraal) với (LM), Huygens ING, Viện âm nhạc Hà Lan (NMI) và Koninklijke
**Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Byelorussia** (phiên âm tiếng Việt: "Bê-lô-rút-xi-a", , , viết tắt _БССР_, _Bielorusskaja Sovietskaja Socialistitchieskaja Riespublika_, BSSR hoặc đôi khi Byelorussia còn gọi là **Belorussia**) là một trong
**Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (_Viết tắt_: **QLVNCH**; , _viết tắt_ **RVNAF**) là lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, thành lập vào năm 1955 và giải thể vào năm 1975 cùng
**Nam Phi** (), quốc hiệu là **Cộng hòa Nam Phi** (Republic of South Africa) là một quốc gia nằm ở mũi phía nam châu Phi, giáp Namibia, Botswana, Zimbabwe, Mozambique, Eswatini, và bao quanh toàn
**Xung đột Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Trong** là cuộc xung đột giữa xứ Đàng Trong do các chúa Nguyễn cai trị thời chúa Nguyễn Phúc Lan với Công ty Đông Ấn
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối
**Đông Ấn Hà Lan** (; ) từng là một thuộc địa của Hà Lan với lãnh thổ chủ yếu bao gồm lãnh thổ của nhà nước hiện đại Indonesia. Đông Ấn Hà Lan được thành
**Chiến dịch bình định Đài Loan của Hà Lan** là một chuỗi các hành động quân sự và ngoại giao do chính quyền thuộc địa Hà Lan tiến hành vào các năm 1635 và 1636
**Đông Ấn Hà Lan thuộc Nhật Bản** bắt đầu vào năm 1942 và kết thúc vào ngày 17 tháng 8 năm 1945 cùng với tuyên ngôn độc lập Indonesia của Sukarno và M. Hatta thay
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
phải|Trái phiếu Cải cách Điền địa cấp năm 1970 **Cải cách điền địa** là tên gọi chung cho 2 đợt phân phối lại ruộng đất trong khuôn khổ chương trình **Cải cách nông nghiệp** và
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Chiến tranh Anh-Hà Lan** (tiếng Anh: _the Anglo-Dutch Wars_, tiếng Hà Lan: _Engels–Nederlandse Oorlogen_ hoặc _Engelse Zeeoorlogen_) là một loạt các cuộc chiến giữa Anh và Các tỉnh thống nhất diễn ra trong hai thế
**Tiếng Hà Lan** hay **tiếng Hòa Lan** () là một ngôn ngữ thuộc nhánh phía Tây của Nhóm ngôn ngữ German, được nói hàng ngày như tiếng mẹ đẻ bởi khoảng 23 triệu người tại
**Đấu giá Hà Lan** hay **đấu giá giảm dần** là một hình thức đấu giá mà trong cuộc đấu giá này, một món hàng được chào bán với một mức giá rất cao. Giá ban
**Cộng hòa Đại thống chế Lan Phương** (phồn thể: 蘭芳大統制共和國; Hán Việt: _Lan Phương Đại thống chế Cộng hòa quốc_) là một chính thể nhà nước của người Hoa ở Tây Kalimantan ở Indonesia, do
Trong tháng 3 năm 2017, **Hà Lan và Thổ Nhĩ Kỳ dính líu tới một sự cố ngoại giao**, bị kích hoạt bởi các lệnh giới hạn đi lại của chính quyền Hà Lan đối
Tại Hà Lan, hôn nhân cùng giới (tiếng Hà Lan: Huwelijk tussen personen van gelijk geslacht hoặc thường là homohuwelijk) đã được hợp pháp kể từ ngày 1 tháng 4 năm 2001. Hà Lan là
**Lịch sử của Hà Lan** là một lịch sử của những người đi biển phát triển mạnh trên một đồng bằng châu thổ thấp trên Biển Bắc ở Tây Bắc Châu Âu. Các ghi chép