✨Đông Ấn Hà Lan

Đông Ấn Hà Lan

Đông Ấn Hà Lan (; ) từng là một thuộc địa của Hà Lan với lãnh thổ chủ yếu bao gồm lãnh thổ của nhà nước hiện đại Indonesia. Đông Ấn Hà Lan được thành lập từ việc quốc hữu hóa các thuộc địa của Công ty Đông Ấn Hà Lan, công ty nằm dưới sự quản lý của chính quyền Hà Lan từ năm 1800. Trong Hiệp ước Anh-Hà Lan năm 1824, người Hà Lan đã nhượng lại tỉnh Malacca thuộc Hà Lan cho Anh, dẫn đến việc sáp nhập thành phố này vào Melaka (bang) của Malaysia hiện đại.

Trong thế kỷ 19, sự chiếm hữu và quyền bá chủ của Hà Lan được mở rộng, đạt được kích thước lãnh thổ lớn nhất mà họ từng có vào đầu thế kỷ 20. Đông Ấn Hà Lan là một trong số các thuộc địa có giá trị lớn nhất của người châu Âu, và đã đóng góp cho sự nổi bật trên quy mô toàn cầu của người Hà Lan trong lĩnh vực giao thương gia vị và hoa lợi trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Thứ hạng trong xã hội thuộc địa dựa trên các cấu trúc cứng nhắc về chủng tộc với một tầng lớp thượng lưu người Hà Lan sống riêng biệt nhưng vẫn có mối liên hệ với người dân của họ.

Cuộc xâm lược trong Chiến tranh thế giới thứ hai của Nhật Bản đã phá hủy phần lớn chính quyền và nền kinh tế thuộc địa của người Hà Lan tại thuộc địa. Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, những người quốc gia chủ nghĩa Indonesia đã tuyên bố độc lập và sau đó họ đã phải chiến đấu để bảo vệ nền độc lập này trong Cách mạng Quốc gia Indonesia. Người Hà Lan chính thức công nhận chủ quyền của Indonesia trong Hội nghị bàn tròn Hà Lan–Indonesia năm 1949 với ngoại lệ là New Guinea thuộc Hà Lan (Tây New Guinea), vùng này được nhượng lại cho Indonesia vào năm 1963 theo các điều khoản của Thỏa thuận New York.

Bối cảnh

Từ nhiều thế kỷ trước khi người châu Âu tới, trên quần đảo Indonesia tồn tại nhiều quốc gia khác nhau và trong đó có các quốc gia thương mại ven biển và các quốc gia nông nghiệp nội địa. Những người đầu tiên đến vùng thuộc Indonesia ngày nay là người Bồ Đào Nha vào cuối thế kỷ thứ 15 và sau đó là người Hà Lan nhằm mục tiêu đưa các gia vị đến châu Âu, Chuyến thám hiểm đầu tiên của người Hà Lan đến Đông Ấn diễn ra vào năm 1595 nhằm vận chuyển gia vị trực tiếp từ châu Á. Khi đoàn này đạt được lợi nhuận 400% khi trở về, các cuộc thám hiểm khác đã diễn ra ngay sau đó. Nhận thức được tiềm năng thương mại của Đông Ấn, chính quyền Hà Lan đã hợp nhất các công ty cạnh tranh với nhau thành Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC). Ban dầu, công ty này độc quyền về nhục đậu khấu, đinh hương, và vỏ quế, công ty và sau này là chính quyền thực dân đã đem đến các loài cây công nghiệp như cà phê, trà, ca cao, thuốc lá, cao su, mía và thuốc phiện, và bảo vệ lợi ích thương mại của họ bằng cách chiếm lãnh thổ xung quanh.

Các cuộc chinh phục của người Hà Lan

Kể từ khi chiếc tàu Hà Lan đầu tiên tiến đến vào cuối thế kỷ thứ 16, cho đến năm 1945, quyền kiểm soát của người Hà Lan đối với quần đảo Indonesia luôn rất mong manh. Có rất nhiều cuộc chiến tranh và xáo trộn đã diễn ra khắp quần đảo khi các dân tộc bản địa khác nhau chống lại nỗ lực thiết lập quyền bá chủ của người Hà Lan, quyền kiểm soát của Hà Lan bị suy yếu và họ buộc phải cho quân đội án binh bất động. Hải tặc Indonesia vẫn còn là một vấn đề đối với người Hà Lan cho đến giữa thế kỷ 19. Năm 1811, quân Anh chiếm một vài cảng của Đông Ấn Hà Lan bao gồm cả các cảng tại đảo Java và Thomas Stamford Raffles trở thành Phó tổng đốc. Quyền kiểm soát của người Hà Lan được phục hồi vào năm 1816. Theo Hiệp ước Anh-Hà Lan vào năm 1824, người Hà Lan có được các khu định cư của Anh tại Indonesia, như Bengkulu tại Sumatra, đổi lại việc nhượng quyền kiểm soát của họ tại bán đảo Mã Lai và Ấn Độ thuộc Hà Lan. Biên giới giữa các vùng đất của Anh và Hà Lan trở thành biên giới hiện nay giữa Malaysia và Indonesia.

Kể từ khi thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan vào thế kỷ 17, việc mở rộng lãnh thổ của người Hà Lan dựa trên cơ sở thương mại. Chiến lược của Toàn quyền Graaf van den Bosch (1830–1835) đã khẳng định lợi nhuận là nền tảng của chính quyền và chính sách chính thức là chỉ hạn chế sự chú ý tại Java, Sumatra và Bangka. Ngoài ra, mục đích của hành động này còn là để bảo vệ các khu vực đã chiếm hữu; tham vọng về danh tiếng và thăng tiến của các quan chức Hà Lan; và việc thiết lập tuyên bố chủ quyền của Hà Lan đối với toàn bộ quần đảo sẽ ngăn chặn sự can thiệp của các cường quốc phương Tây khác. Khi việc khai thác tài nguyên được mở rộng ra ngoài đảo Java, hầu hết các đảo xa đã nằm dưới quyền kiểm soát trực tiếp hay trong tầm ảnh hưởng của chính quyền Hà Lan.

nhỏ|trái|Quân Hà Lan tiến quân tại Bali năm 1846.

Người Hà Lan đã chinh phục người Minangkabau trên đảo Sumatra trong Chiến tranh Padri (1821–38) và Chiến tranh Java (1825–30) đã chấm dứt sự kháng cự đáng kể của người Java. Sau cuộc chinh phục thất bại tại Bali vào năm 1846 và 1848, một cuộc can thiệp vào năm 1849 đã đưa miền bắc Bali vào sự kiểm soát của người Hà Lan. Cuộc chinh phục kéo dài nhất là Chiến tranh Aceh, một cuộc xâm lược của người Hà Lan vào năm 1873 đã vấp phải sự kháng cự của du kích bản địa và cuộc chinh phục chỉ kết thúc khi người Aceh đầu hàng vào năm 1912. Rối loạn tiếp tục nổ ra trên cả hai đảo chính Java và Sumatra trong suốt giai đoạn còn lại của thế kỷ 19, và sự kháng cự của người Batak ở miền Bắc Sumatra đã bị dập tắt vào năm 1895.

Mặc dù vẫn nổ ra các cuộc nổi loạn khác của người Indonesia, người Hà Lan đã mở rộng quyền cai trị thuộc địa trực tiếp trên khắp phần còn lại quần đảo từ năm 1901 đến 1910, đối với những vùng còn lại, người Hà Lan nắm quyền cai trị gián tiếp thông qua những người cai trị bản địa. Tây nam Sulawesi bị chiếm đóng vào 1905–06, hòn đảo Bali bị đã phải chịu khuất phục với các cuộc chinh phục vào năm 1906 và 1908, các vương quốc độc lập khác trên đảo Maluku, Sumatra, Kalimantan, và Nusa Tenggara cũng chịu chung số phận.

Mặc dù số tiền thu vào gia tăng nhờ hệ thống thuế đất, tình hình tài chính của thực dân Hà Lan đã bị ảnh hưởng do phải chi phí lớn cho các cuộc chiến tranh Java và Padri, và việc người Hà Lan để mất Bỉ vào năm 1830 đã khiến họ đến bên bờ vực phá sản. Năm 1830, một Toàn quyền mới, Johannes van den Bosch, đã được bổ nhiệm để khai thác tài nguyên của Đông Ấn bù đắp lại khó khăn tài chính. Người Hà Lan đã lần đầu tiên có được quyền thống trị về chính trị khắp đảo Java vào năm 1830, và do đó họ đã có thể đưa vào các chính sách nông nghiệp mà trong đó việc trồng trọt là do chính quyền kiểm soát. Được gọi là cultuurstelsel (hệ thống trồng trọt) trong tiếng Hà Lan và tanam paksa (cây trồng cưỡng ép) trong tiếng Indonesia, các nông dân được yêu cầu phải giao lại (như một hình thức thuế) một lượng cố định các nông sản đã định sẵn, như mía đường hay cà phê. Phần lớn Java trở thành đồn điền của Hà Lan và doanh thu của chính quyền thực dân tăng liên tục trong thế kỷ 19, số tiền này được tái đầu tư vào Hà Lan để cứu đất nước này thoát khởi nguy cơ phá sản. Tuy nhiên, hệ thống trồng trọt đã gây nên nhiều khó khăn kinh tế cho các nông dân Java, họ đã phải trải qua nạn đói và các dịch bệnh trong thập niên 1840. Giá cả hàng hóa đã phục hồi sau cuộc suy thoái, dẫn đến gia tăng đầu tư tại thuộc địa. Buôn bán đường, thiếc, cùi dừa khô và cà phê đã trở nên phát đạt, và cao su, thuốc lá, trà và dầu cũng trở thành các mặt hàng xuất khẩu chính. Cải cách chính trị đã gia tăng quyền tự chủ cho các chính quyền thuộc địa địa phương, thoát ra xa khỏi quyền kiểm soát trung ương từ Hà Lan, trong khi đó, quyền lực cũng được phân chia giữa chính quyền tại Batavia và các đơn vị.

Nâng cấp cơ sở hạ tầng các cảng và đường bộ là ưu tiên ở mức cao của người Hà Lan, với mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại, và gia tăng tốc độ của các hoạt động quân sự. Năm 1850, các kỹ sư Hà Lan đã chủ trì xây dựng và nâng cấp một mạng lưới đường bộ với 12.000 km bề mặt được trải nhựa đường, 41.000 km đường được rải đá và 16.000 km đường có bề mặt được rải sỏi. Ngoài ra, người Hà Lan đã sử dụng các nhân công Đông Ấn để xây dựng nên đường sắt, các cây cầu, các hệ thống thủy lợi bao phủ 1,4 triệu ha ruộng lúa, một số cảng, và 140 hệ thống nước uống công cộng. Wim Ravesteijn đã nói rằng, "Với những công trình công cộng này, các kỹ sư người Hà Lan đã xây dựng cơ sở vật chất cho nhà nước Indonesia thuộc địa và hậu thuộc địa."

Dân cư

nhỏ|upright|Các thành viên [[Volksraad (Đông Ấn Hà Lan)|Volksraad vào năm 1918: D. Birnie (người Hà Lan), Kan Hok Hoei (người Hoa), R. Sastro Widjono và M.N. Dwidjo Sewojo (người Java).]] nhỏ|Bữa tiệc '[[Slametan|Selamatan' tại Buitenzorg, một bữa tiệc thông thường trong cộng đồng người Hồi giáo.]]

Năm 1898, dân số Java là khoảng 28 triệu người, các đảo bên ngoài khác của Đông Ấn có tổng cộng khoảng 7 triệu dân. Nửa đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến hoạt động nhập cư quy mô lớn của người Hà Lan và những người châu Âu khác đến thuộc địa, họ làm việc cho chính quyền hoặc khu vực tư nhân. Năm 1930, có trên 240.000 người có thân phận pháp lý là người Âu tại thuộc địa, chiếm ít hơn 0,5% tổng dân số. Gần 75% số "người Âu" này trên thực tế là người lai Âu-Á.

Khi người Hà Lan cai quản, họ đã loại bỏ chế độ nô lệ cùng các tập tục như thiêu quả phụ, săn đầu người, ăn thịt người, hải tặc, và các cuộc chiến tranh giết hại lẫn nhau.

Thực dân Hà Lan đã lập ra một tầng lớp trên có đặc quyền đặc lợi bao gồm các binh lính, nhà quản lý, giáo viên và người thám hiểm. Họ sống cùng với "người bản địa", song ở phía trên cùng của một hệ thống xã hội và chủng tộc cứng nhắc. Đông Ấn Hà Lan có hai tầng lớp công dân hợp pháp; người Âu và dân bản địa. Một tầng lớp thứ ba, những người nước ngoài phương Đông, được bổ sung từ năm 1920.

Năm 1901, chính quyền Hà Lan đã thông qua điều mà họ gọi là Chính sách Đạo đức, theo đó chính quyền thực dân có một bổn phận để tiếp tục chăm lo sức khỏe và giáo dục cho người dân Indonesia. Các biện pháp khác theo chính sách mới này bao gồm các chương trình thủy lợi, di cư, thông tin liên lạc, giảm thiểu lũ lụt, công nghiệp hóa, và bảo vệ ngành công nghiệp bản địa. Các trường học và chương trình hướng nghiệp đã được chính quyền Đông Ấn lập ra để đào tạo người dân bản địa vào những vị trí cụ thể của nền kinh tế thuộc địa. Người Hoa và người Ả Rập, chính thức được gọi là "người nước ngoài phương Đông", và họ không thể ghi danh vào các trường hướng nghiệp và trường tiểu học.

Những người đã tốt nghiệp tại các trường của Hà Lan đã mở trường học của mình và phỏng theo mô hình của hệ thống trường học Hà Lan, cũng như những hội truyền giáo Ki-tô, hiệp hội Thần trí học, và các hiệp hội văn hóa Đông Ấn. Sự gia tăng số trường học này tiếp tục được nâng lên với các trường Hồi giáo theo khuôn mẫu phương Tây cũng đã xuất hiện các vấn đề thế tục. Hơn nữa, hai trường đại học có thứ hạng quốc tế cao nhất của Indonesia, Trường Đại học Indonesia thành lập năm 1898 và Học viện Công nghệ Bandung thành lập năm 1920, đều được hình thành từ thời thuộc địa.

Các cải cách giáo dục, và cải cách chính trị khiêm tốn, đã khiến một bộ phận nhỏ những người Indonesia bản địa ưu tú có học vấn cao đã thúc đẩy ý tưởng độc lập và thống nhất "Indonesia" cùng với các dân tộc bản địa khác nhau tại Đông Ấn Hà Lan. Một giai đoạn gọi là Phục hưng Quốc gia Indonesia, nửa đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến phong trào quốc gia phát triển mạnh mẽ, nhưng cũng phải đối mặt với sự đàn áp của Hà Lan.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Xung đột Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Trong** là cuộc xung đột giữa xứ Đàng Trong do các chúa Nguyễn cai trị thời chúa Nguyễn Phúc Lan với Công ty Đông Ấn
**Đông Ấn Hà Lan** (; ) từng là một thuộc địa của Hà Lan với lãnh thổ chủ yếu bao gồm lãnh thổ của nhà nước hiện đại Indonesia. Đông Ấn Hà Lan được thành
right|thumb|Xưởng đóng tàu của công ty Đông Ấn tại [[Amsterdam, Hà Lan.]] Cổ phiếu ngày 26/9/1606 của công ty Đông Ấn Hà Lan **Công ty Đông Ấn Hà Lan** ( hay **VOC**, có nghĩa là:
**Đông Ấn Hà Lan thuộc Nhật Bản** bắt đầu vào năm 1942 và kết thúc vào ngày 17 tháng 8 năm 1945 cùng với tuyên ngôn độc lập Indonesia của Sukarno và M. Hatta thay
thumb|upright=1.8|alt=Cảnh nhìn từ trên cao của thành phố và bến cảng|Batavia khoảng năm 1780 **Batavia**, cũng gọi là **Batauia** trong tiếng Mã Lai Betawi, đã là thủ đô của Đông Ấn Hà Lan. Khu vực
Thuộc địa của Hà Lan (màu xanh lá) và các trạm mậu dịch (màu cam) Danh sách dưới đây liệt kê các trạm mậu dịch quốc tế do Công ty Đông Ấn Hà Lan sở
**Formosa thuộc Hà Lan** đề cập đến thời kỳ chính quyền thuộc địa Hà Lan tồn tại ở Formosa (nay gọi là Đài Loan) từ năm 1624 đến 1662. Trong bối cảnh thời đại khám
phải|_Một cái nhìn của Chinsura khu định cư Hà Lan tại Bengal_ (1787). **Ấn Độ Hà Lan** bao gồm các khu định cư và trụ sở giao dịch của Công ty Đông Ấn Hà Lan
**Brasil thuộc Hà Lan**, hay còn gọi là **Tân Hà Lan**, là phần phía bắc của thuộc địa Bồ Đào Nha ở Brasil, cai quản bởi Cộng hòa Hà Lan trong quá trình Hà Lan
**Đế quốc Hà Lan** () bao gồm các vùng lãnh thổ ở nước ngoài thuộc tầm kiểm soát của Hà Lan từ thế kỷ 17 đến những năm 1950. Người Hà Lan đã theo sau
**Hà Lan** ( ) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire,
Hà Lan, bất chấp diện tích và dân số thực sự khiêm tốn, có một phần đóng góp đáng kể trong quá trình hình thành nên xã hội hiện đại ngày nay. Đất nước Hà
thumb|Chợ pho mát ở [[Gouda]] thumb|[[Rijsttafel nhỏ tại một bữa tiệc ở Hà Lan]] **Ẩm thực Hà Lan** () hình thành từ truyền thống nấu ăn của người Hà Lan. Ẩm thực của quốc gia
**Chiến dịch bình định Đài Loan của Hà Lan** là một chuỗi các hành động quân sự và ngoại giao do chính quyền thuộc địa Hà Lan tiến hành vào các năm 1635 và 1636
**Wilhelmina** (; _Wilhelmina Helena Pauline Maria_; 31 tháng 8 năm 1880 – 28 tháng 11 năm 1962) là Nữ vương của Hà Lan từ năm 1890 cho đến khi thoái vị vào năm 1948. Bà
**Các tỉnh Thống nhất Hà Lan**, hoặc **Các tỉnh thống nhất**, **Các tỉnh liên hiệp** (tiếng Hà Lan: _Republiek der Zeven Verenigde Nederlanden_) hay **Cộng hoà Hà Lan Thống nhất**, **Cộng hoà Bảy Tỉnh Thống
**Hội nghị bàn tròn Hà Lan–Indonesia** được tổ chức tại Den Haag từ ngày 23 tháng 8 – 2 tháng 11 năm 1949, giữa các đại biểu của Hà Lan, nước Cộng hòa Indonesia và
**Người Hà Lan** (tiếng Hà Lan: _Nederlanders_) là dân tộc chủ yếu ở Hà Lan . Họ chia sẻ một nền văn hóa chung và nói tiếng Hà Lan. Người Hà Lan, hoặc con cháu
**Nữ vương Juliana** (_Juliana Louise Emma Marie Wilhelmina_; 30 tháng 4 năm 1909 – 20 tháng 3 năm 2004) là Nữ vương Hà Lan từ năm 1948 cho đến khi bà thoái vị năm 1980.
**Lịch sử của Hà Lan** là một lịch sử của những người đi biển phát triển mạnh trên một đồng bằng châu thổ thấp trên Biển Bắc ở Tây Bắc Châu Âu. Các ghi chép
**Tân Hà Lan** (; hay ) là một thuộc địa của Cộng hòa Hà Lan vào thế kỷ 17 nằm trên bờ biển phía đông của Bắc Mỹ. Lãnh thổ được tuyên bố kéo dài
**New Guinea thuộc Hà Lan** () dùng để chỉ vùng Papua của Indonesia trong khi đó là lãnh thổ hải ngoại của Vương quốc Hà Lan từ năm 1949 đến 1962. Cho đến năm 1949,
**Công ty Đông Ấn** () hay còn được gọi bằng những cái tên khác như **Công ty thương mại Đông Ấn** (), **Công ty Đông Ấn Anh** () và, sau Đạo luật Liên minh nó
**Công ty Đông Ấn Pháp** là một công ty cổ phần thương mại hoàng gia thành lập ngày 1 tháng 9 năm 1664 dưới thời vua Louis XIV, cạnh tranh với các công ty Đông
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
**Tiếng Hà Lan** hay **tiếng Hòa Lan** () là một ngôn ngữ thuộc nhánh phía Tây của Nhóm ngôn ngữ German, được nói hàng ngày như tiếng mẹ đẻ bởi khoảng 23 triệu người tại
Tại Hà Lan, hôn nhân cùng giới (tiếng Hà Lan: Huwelijk tussen personen van gelijk geslacht hoặc thường là homohuwelijk) đã được hợp pháp kể từ ngày 1 tháng 4 năm 2001. Hà Lan là
**Antille thuộc Hà Lan** (tiếng Hà Lan: ; tiếng Papiamento: _Antia Hulandes_) từng là một quốc gia tự trị ở vùng Caribe hình thành một quốc gia cấu thành của Vương quốc Hà Lan, bao
[[Tập tin:Indies.PNG|phải| ]] **Đông Ấn** (tiếng Anh: _Indies_ hay _East Indies_ hoặc _East India_) là một thuật ngữ dùng để chỉ các đảo của Đông Nam Á, đặc biệt là Quần đảo Mã Lai. Về
**Thảm sát Batavia năm 1740** (tiếng Hà Lan: _Chinezenmoord_, tạm dịch "Thảm sát người Hoa"; tiếng Indonesia: _Geger Pacinan_, có nghĩa là "Bạo loạn tại phố người Hoa") là cuộc tàn sát nhằm vào cộng
**Chiến dịch Đông Ấn Hà Lan** là một chuỗi các hoạt động quân sự của Đế quốc Nhật Bản từ tháng 12 năm 1941 đến tháng 3 năm 1942 nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà
**Jakarta** (phiên âm tiếng Việt: **Gia-các-ta**, ), tên đầy đủ là **Tỉnh Đặc khu Thủ đô Jakarta** (tiếng Indonesia: _Propinsi Daerah Khusus Ibukota Jakarta_, viết tắt là _Propinsi DKI Jakarta_ hoặc _DKI Jakarta_), là thủ
thumb|right|Dejima và Vịnh Nagasaki, khoảng năm 1820. Hai tàu của Hà Lan và rất nhiều thuyền của Trung Quốc được miêu tả. thumb|right|Quang cảnh đảo Dejima nhìn từ Vịnh Nagasaki (Kawahara Keiga, 1836) thumb|Philipp Franz
**Cách mạng Dân tộc Indonesia** hoặc **Chiến tranh Độc lập Indonesia** là một xung đột vũ trang và đấu tranh ngoại giao giữa Indonesia và Đế quốc Hà Lan, và một cách mạng xã hội
nhỏ|Kính hiển vi được người Nhật mô tả trong quyển sách "Những câu chuyện về người Hà Lan" (xuất bản năm 1787). **Rangaku** (trong tiếng Nhật có nghĩa là **Hà Lan học**, hay gọi tắt
**Pháo đài Provintia** hay **Providentia** là một tiền đồn của người Hà Lan trên đảo Đài Loan, hiện nay tọa lạc ở Quận Trung Tây của thành phố Đài Nam thuộc Trung Hoa Dân Quốc.
**Vụ kiện đảo Palmas** (tiếng Anh: _Island of Palmas Case_) là một vụ kiện liên quan đến tranh chấp lãnh thổ, cụ thể là Đảo Palmas giữa Hà Lan và Hoa Kỳ được giải quyết
**Trận Kendari** diễn ra vào ngày 24 tháng 1 năm 1942 như là một phần của cuộc tấn công của người Nhật tại Đông Ấn Hà Lan. Sân bay Kendari II tại Kendari trở thành
**Trận Ambon** (30 tháng 1-3 tháng 2 năm 1942) diễn ra tại đảo Ambon ở Đông Ấn Hà Lan (mà ngày nay là Indonesia), là một phần của các cuộc tiến công của Nhật Bản
**Chiến tranh Anh-Hà Lan** (tiếng Anh: _the Anglo-Dutch Wars_, tiếng Hà Lan: _Engels–Nederlandse Oorlogen_ hoặc _Engelse Zeeoorlogen_) là một loạt các cuộc chiến giữa Anh và Các tỉnh thống nhất diễn ra trong hai thế
**Trận Balikpapan lần thứ nhất** diễn ra vào ngày 23-25 tháng 1 năm 1942, ngoài khơi thị trấn sản xuất dầu lớn và cảng Balikpapan, trên đảo Borneo, thuộc Đông Ấn Hà Lan. Sau khi
**Trận Borneo** là một chiến dịch thành công của các Lực lượng Đế quốc Nhật Bản nhằm kiểm soát hòn đảo Borneo và tập trung chủ yếu vào việc chinh phục Raj Sarawak, Brunei, Bắc
**Trận Manado** là một phần của các cuộc tiến công của Nhật Bản nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà Lan. Trận đánh diễn ra tại Manado (cũng được đánh vần Menado) trên bán đảo Minahasa
thumb|Bản đồ chuyến hải trình của [[Willem Janszoon|Janszoon vào năm 1605–06]] Willem Janszoon từng thực hiện cuộc đổ bộ đầu tiên của người châu Âu được ghi nhận đến lục địa Úc vào năm 1606,
**Nhà nước Hà Lan tranh kiện pháp lý với Tổ chức Urgenda** (; ) là một vụ kiện pháp lý tại Tòa án tối cao Hà Lan năm 2019 liên quan đến những nỗ lực
**Trận cảng Eo 1643** là trận chiến diễn ra ngày 7 tháng 7 năm 1643 giữa đội thuyền của Công ty Đông Ấn Hà Lan (_Vereenigde Oost-Indische Compagnie_) với Hải quân chúa Nguyễn trong cuộc
phải|Tổng quan pháo đài Zeelandia ở Đài Nam tại cục lưu trữ của Hà Lan **Pháo đài An Bình** (, Hán Việt: _An Bình cổ bảo_) là một công trình do người Hà Lan xây
Trong tháng 3 năm 2017, **Hà Lan và Thổ Nhĩ Kỳ dính líu tới một sự cố ngoại giao**, bị kích hoạt bởi các lệnh giới hạn đi lại của chính quyền Hà Lan đối
**Trận Banjarmasin** (31 tháng 1 – 10 tháng 2 năm 1942) diễn ra như là một phần của cuộc tấn công của Nhật Bản nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà Lan. Người Nhật đã tiến
**Thảm sát đảo Lạp Mỹ** là một vụ giết hại hàng loạt người bản địa sống trên đảo Lạp Mỹ (nay gọi là đảo Lưu Cầu hay Tiểu Lưu Cầu), phía tây nam đảo Đài