✨Cách mạng Dân tộc Indonesia

Cách mạng Dân tộc Indonesia

Cách mạng Dân tộc Indonesia hoặc Chiến tranh Độc lập Indonesia là một xung đột vũ trang và đấu tranh ngoại giao giữa Indonesia và Đế quốc Hà Lan, và một cách mạng xã hội nội bộ. Cách mạng được cho là bắt đầu từ Tuyên ngôn độc lập Indonesia năm 1945 và kéo dài cho đến khi Hà Lan công nhận độc lập của Indonesia vào cuối năm 1949.

Đấu tranh kéo dài trên bốn năm và kéo theo các xung đột vũ trang rải rác song đổ máu, những biến động chính trị và công cộng bên trong Indonesia, và hai can thiệp ngoại giao quốc tế lớn. Mặc dù lực lượng Hà Lan có thể kiểm soát các thành thị tại khu trung tâm của lực lượng cộng hòa trên các đảo Java và Sumatra, song họ không thể kiểm soát các làng quê. Do đó, nước Cộng hòa Indonesia cuối cùng chiếm ưu thế trong ngoại giao quốc tế và xung đột vũ trang tại Java và các đảo khác.

Cách mạng lật đổ chính quyền thực dân Đông Ấn Hà Lan. Nó cũng biến đổi đáng kể các đẳng cấp chủng tộc, cũng như làm giảm quyền lực của nhiều quân chủ địa phương. Cách mạng không tạo ra cải thiện đáng kể về đời sống kinh tế hoặc chính trị của đa số dân cư.

Bối cảnh

Chủ nghĩa dân tộc Indonesia và những phong trào ủng hộ độc lập từ thực dân Hà Lan, như Budi Utomo, Đảng Dân tộc Indonesia (PNI), Sarekat Islam, và Đảng Cộng sản Indonesia (PKI), phát triển nhanh trong nửa đầu thế kỷ 20. Budi Utomo, Sarekat Islam và các tổ chức khác theo đuổi các chiến lược hợp tác bằng việc gia nhập Volksraad ("Hội đồng nhân dân") do Hà Lan đề xướng nhằm hy vọng Indonesia có thể giành được quyền tự trị. Những tổ chức khác lựa chọn chiến lược bất hợp tác, yêu cầu quyền tự do về tự trị khỏi thuộc địa Đông Ấn Hà Lan.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản chiếm đóng Indonesia trong ba năm rưỡi và đây là một yếu tố quyết định trong cuộc cách mạng sau đó. Người Hà Lan thiếu năng lực bảo vệ thuộc địa của mình trước Quân đội Nhật Bản, và Nhật Bản chiếm được Đông Ấn Hà Lan chỉ trong ba tháng. Tại Java, và ở mức độ thấp hơn là tại Sumatra, người Nhật truyền bá và khuyến khích tình cảm dân tộc chủ nghĩa. Mặc dù hành động này giúp ích về chính trị cho Nhật Bản hơn là ủng hộ vô tư cho độc lập của Indonesia, song nó giúp thiết lập các tổ chức mới của người Indonesia và cổ vũ các lãnh đạo chính trị như Sukarno. Người Nhật cũng phá hủy và thay thế cơ sở kinh tế, hành chính, và chính trị do người Hà Lan thiết lập.

Đến khi Nhật Bản có nguy cơ thất bại trong chiến tranh, Hà Lan tìm cách tái thiết lập quyền uy của họ tại Indonesia và yêu cầu Quân đội Nhật Bản "duy trì pháp luật và trật tự" tại Indonesia. Với những người ủng hộ Sukarno, lời tuyên bố này được nhìn nhận là chứng minh cho sự cộng tác của ông với người Nhật.

Diễn biến

Tuyên bố độc lập

Dưới áp lực từ các tổ chức cấp tiến và pemuda ('thanh niên') chính trị hóa, Sukarno và Mohammad Hatta tuyên bố Indonesia độc lập vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, hai ngày sau khi Thiên hoàng Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh. Ngày tiếp theo, Ủy ban Quốc gia Trung ương Indonesia (KNIP) bầu Sukarno làm tổng thống, và bầu Mohammad Hatta làm phó tổng thống.

Tin tức về tuyên ngôn độc lập sau đó được truyền bá đến các đảo khác, và nhiều người Indonesia ở xa Jakarta không tin vào điều này. Do tin tức được truyền đi, hầu hết người Indonesia nhận là ủng hộ chế độ Cộng hòa, và tình cảm cách mạng trải khắp toàn quốc. Thế lực bên ngoài nay đã thay đổi; mất nhiều tuần trước khi lực lượng Đồng Minh tiến vào Indonesia, còn Hà Lan quá yếu do đại chiến. Nhật Bản bị yêu cầu hạ vũ khí và duy trì trật tự; mâu thuẫn này được giải quyết phần nào bằng cách trao vũ khí cho những người Indonesia được Nhật đào tạo.

Kết quả là khoảng trống quyền lực trong những tuần sau khi Nhật Bản đầu hàng, tạo ra một tình hình bất ổn, song cũng là một cơ hội cho những người Cộng hòa. Nhiều pemuda gia nhập các tổ chức đấu tranh thân Cộng hòa (badan perjuangan). Những người có kỉ luật nhất là những quân nhân từ những tổ chức Giyugun và Heiho do Nhật Bản thành lập song đã bãi bỏ. Nhiều tổ chức vô kỷ luật, nguyên nhân là hoàn cảnh hình thành của họ và điều mà họ hiểu là tinh thần cách mạng. Trong những tuần đầu, binh sĩ Nhật Bản thường triệt thoái từ các khu vực đô thị để tránh đối đầu.

Trong tháng 9 năm 1945, pemuda Cộng hòa đoạt quyền kiểm soát những cơ sở hạ tầng chính, kể cả các ga đường sắt và đường xe điện trong những thành thị lớn nhất của Java, họ ít gặp kháng cự từ người Nhật. Báo chí của phe Cộng hòa trở nên phổ biến tại Jakarta, Yogyakarta, và Surakarta, bồi dưỡng một thế hệ tác giả được gọi là angkatan 45 ('thế hệ 45'), nhiều người trong số này tin rằng công việc của họ có thể là bộ phận của cách mạng. Khi mức độ bạo lực gia tăng trên toàn quốc, chính phủ Cộng hòa do Sukarno và Hatta lãnh đạo tại Jakarta kêu gọi bình tĩnh. Tuy nhiên, pemuda vốn ủng hộ đấu tranh vũ trang cho rằng tập thể lãnh đạo cũ là dao động và phản bội cách mạng, thường dẫn đến xung đột giữa những người Indonesia.

Vấn đề lòng trung thành ngay lập tức nổi lên trong số những quân chủ bản địa, chẳng hạn như những quân vương tại Trung Java lập tức tuyên bố bản thân trung thành với Cộng hòa, trong khi nhiều raja ở các đảo xa thì ít nhiệt tình hơn. Sự miễn cường của nhiều đảo xa càng sâu sắc thêm do tính chất cấp tiến, phi quy tộc, và đôi khi là Hồi giáo của tập thể lãnh đạo cộng hòa tập trung tại Java. Tuy nhiên, Cộng hòa nhận được sự ủng hộ từ Nam Sulawesi (bao gồm quốc vương của Bone, nước vẫn chống Hà Lan từ đầu thế kỷ), và từ raja Makassar và Bugis do họ ủng hộ Thống đốc Jakarta của Cộng hòa- một người Menado theo Cơ Đốc giáo. Nhiều raja Bali chấp thuận quyền uy của Cộng hòa.

Lo sợ người Hà Lan sẽ cố gắng tái lập quyền lực của họ tại Indonesia, chính phủ Cộng hòa mới và các lãnh đạo của nó nhanh chóng củng cố chính quyền non trẻ. Bên trong Indonesia, chính phủ mới dù nhiệt tình song mong manh và tập trung tại Java. Chính phủ hiếm khi và lỏng lẻo trong việc tiếp xúc với các đảo xa, vốn có nhiều binh sĩ Nhật Bản hơn, ít chỉ huy Nhật đồng cảm hơn, và ít các lãnh đạo và nhà hoạt động Cộng hòa. Trong tháng 11 năm 1945, một chính phủ nghị viện được thiết lập và Sjahrir được bổ nhiệm làm thủ tướng.

Đồng Minh chống cách mạng

Người Hà Lan cáo buộc Sukarno và Hatta cộng tác với người Nhật, và tố cáo nước Cộng hòa là một sản phẩm của phát xít Nhật.

Tuy nhiên, Hà Lan vốn đã suy yếu trầm trọng do thế chiến và không thể phục hồi thành một lực lượng quân sự đáng kể cho đến đầu năm 1946. Nhật Bản và các thành viên của Đồng Minh miễn cưỡng chấp thuận hành động trong vai trò quản lý. Do không có kháng cự mạnh, hai sư đoàn Lục quân Úc tiếp tục chiếm đóng miền đông Indonesia.

Anh Quốc chịu trách nhiệm khôi phục trật tự và chính phủ dân sự tại Java. Người Hà Lan cho rằng điều này có nghĩa là chính phủ thực dân tiền chiến và tuyên bố chủ quyền đối với Indonesia.

Người Anh sau đó quyết định sơ tán 10.000 tù nhân lai Âu-Á và gốc Âu tại vùng nội lục Trung Java biến động. Các phân đội Anh được phái đến các thị trấn Ambarawa và Magelang đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của lực lượng Cộng hòa và sử dụng không kích để chống lại quân Indonesia. Sukarno dàn xếp một lệnh ngừng bắn vào ngày 2 tháng 11, song đến cuối tháng 11 thì giao tranh lại bắt đầu và người Anh triệt thoái đến vùng duyên hải. Các cuộc tiến công của lực lượng Cộng hòa chống lại Đồng Minh và những thường dân bị gán là thân Hà Lan đạt đến một đỉnh cao vào tháng 11 và tháng 12, với 1.200 người bị sát hại tại Bandung khi pemuda quay lại tiến công. Trong tháng 3 năm 1946, phe Cộng hòa phản ứng trước một tối hậu thư của Anh để họ rời khỏi Bandung bằng cách phóng hỏa phần lớn nửa phía nam của thành phố, sự kiện nổi tiếng tại Indonedia với tên gọi "Biển lửa Bandung". Binh sĩ Anh Quốc cuối cùng rời khỏi Indonesia trong tháng 11 năm 1946, song lúc này 55.000 quân Hà Lan đã đổ bộ lên Java.

Với sự trợ giúp của Anh, người Hà Lan cho quân đổ bộ lên Jakarta và các trung tâm trọng yếu khác. Các nguồn của lực lượng Cộng hòa nói rằng họ mất 8.000 người cho đến tháng 1 năm 1946 khi phòng thủ Jakarta, song không thể giữ được thành phố. Tập thể lãnh đạo của lực lượng Cộng hòa do dó thiết lập căn cứ tại thành phố Yogyakarta với sự ủng hộ cốt yếu của tân vương Hamengkubuwono IX. Yogyakarta đóng một vai trò lãnh đạo trong cách mạng, nhờ vậy mà thành phố được trao tình trạng Lãnh thổ đặc biệt.

Trên đảo Java và Sumatra, người Hà Lan có những thành công quân sự tại các thành phố và thị trấn lớn, song không thể khuất phục vùng thôn quê. Tại các đảo xa (kể cả Bali), tình cảm Cộng hòa không mạnh, ít nhất là trong tầng lớp tinh hoa. Sau đó, họ bị người Hà Lan chiếm đóng một cách tương đối dễ dàng, và các nhà nước tự trị được người Hà Lan thiết lập, lớn nhất trong số đó là Nhà nước Đông Indonesia với thủ đô tại Makassar.

Tấn công ngoại giao và quân sự

Hiệp định Linggadjati do người Anh làm trung gian và được ký kết vào tháng 11 năm 1946, theo đó Hà Lan công nhận nước Cộng hòa là thế lực nắm quyền trên thực tế tại Java, Madura, và Sumatra. Hai bên chấp thuận thành lập Hợp chúng quốc Indonesia vào ngày 1 tháng 1 năm 1949, một nhà nước liên bang bán tự trị với quân chủ Hà Lan là nguyên thủ quốc gia. Java và Sumatra do lực lượng Cộng hòa kiểm soát là một trong các bang, cùng với các khu vực khác đại thể nằm dưới ảnh hưởng mạnh hơn của Hà Lan, bao gồm Nam Borneo, Sulawesi, Maluku, quần đảo Sunda Nhỏ, và Tây New Guinea. Ủy ban Quốc gia Trung ương Indonesia (KNIP) không phê chuẩn thỏa thuận cho đến tháng 2 năm 1947, cả Cộng hòa và Hà Lan đều không thỏa mãn với thỏa thuận. Ngày 25 tháng 3 năm 1947, Hạ nghị viện Hà Lan phê chuẩn một phiên bản rút gọn của hiệp định, điều này không được Cộng hòa Indonesia chấp thuận. Hai bên nhanh chóng cáo buộc nhau vi phạm thỏa thuận.

Vào nửa đêm ngày 20 tháng 7 năm 1947, người Hà Lan phát động một cuộc tấn công quân sự lớn mang tên Chiến dịch sản phẩm, với mục đích là chinh phục nước Cộng hòa. Người Hà Lan mô tả chiến dịch là politionele acties ("hành động cảnh sát") nhằm khôi phục pháp luật và trật tự. Điều này là nhiệm vụ của Quân đội Hoàng gia Đông Ấn Hà Lan, tuy nhiên, đương thời đa số binh sĩ Hà Lan tại Indonesia thuộc Quân đội Hoàng gia Hà Lan. Trong cuộc tấn công, lực lượng Hà Lan đẩy binh sĩ Cộng hòa ra khỏi nhiều nơi tại Sumatra, Đông và Tây Java. Lực lượng Cộng hòa bị hạn chế trong khu vực Yogyakarta tại Java. Để duy trì lực lượng tại Java, nay lên đến 100.000 binh sĩ, người Hà Lan giành quyền kiểm soát các đồn điền sinh lợi tại Sumatra, các cơ sở dầu và than, và kiểm soát toàn bộ các cảng nước sâu tại Java.

Phản ứng quốc tế đối với các hành động của Hà Lan là tiêu cực. Úc và Ấn Độ đặc biệt tích cực trong việc ủng hộ sự nghiệp của Cộng hòa Indonesia tại Liên Hợp Quốc, cũng như Liên Xô, và quan trọng nhất là Hoa Kỳ. Các tàu của Hà Lan tiếp tục bị công nhân Úc tẩy chay bốc xếp từ tháng 9 năm 1945. Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc trực tiếp tham dự vào xung đột, thiết lập một ủy ban nhằm đảm bảo tiếp tục đàm phán, khiến vị thế ngoại giao của Hà Lan đặc biệt khó khăn. Một lệnh ngừng bắn theo kêu gọi của Liên Hợp Quốc được Hà Lan và Sukarno thu xếp vào ngày 4 tháng 8 năm 1947.]]

Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc môi giới Hiệp định Renville nhằm khắc phục Hiệp định Linggarjati đã sụp đổ. Hiệp định được phê chuẩn vào tháng 1 năm 1948 và công nhận một lệnh ngừng bắn theo "đường Van Mook "- kết nối các điểm người Hà Lan tiến xa nhất. Tuy nhiên, nhiều vị trí của lực lượng Cộng hòa vẫn được giữ sau đường ranh giới. Hiệp định cũng yêu cầu tổ chức trưng cầu dân ý về tương lai chính trị tại các khu vực do Hà Lan nắm giữ. Lực lượng Cộng hòa giành được nhiều thiện ý của người Mỹ.

Nỗ lực ngoại giao giữa Hà Lan và Cộng hòa Indonesia tiếp tục trong suốt năm 1948 và 1949. Áp lực chính trị cả ở quốc nội và quốc tế đã cản trở nỗ lực của Hà Lan. Tương tự, các lãnh đạo Cộng hòa phải đối diện với khó khăn lớn trong việc thuyết phục nhân dân chấp thuận nhượng bộ về ngoại giao. Đến tháng 7 năm 1948, các cuộc đàm phán bị bế tắc và người Hà Lan đơn phương thúc đẩy khái niệm Indonesia liên bang của Van Mook. Liên bang Nam Sumatra và Đông Java mới được thiết lập, mặc dù không có cơ sở ủng hộ khả thi. Hà Lan thiết lập Hội đồng tư vấn liên bang, một cơ cấu gồm các lãnh đạo của liên bang, và được giao nhiệm vụ hình thành một Hợp chúng quốc Indonesia và một chính phủ lâm thời vào cuối năm 1948. Tuy nhiên, các kế hoạch của Hà Lan không có chỗ cho nước Cộng hòa trừ khi lực lượng này chấp thuận một vai trò nhỏ đã được xác định cho nó. Các kế hoạch sau bao gồm Java và Sumatra song loại bỏ mọi đề cập đến nước Cộng hòa.. Điểm vướng mắc chính trong đàm phán là cân bằng quyền lực giữa Cao ủy Hà Lan và lực lượng Cộng hòa.

Thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa Hà Lan và Cộng hòa Indonesia cản trở các cuộc đàm phán. Lực lượng cộng hòa lo sợ một chiến dịch lớn thứ nhì của Hà Lan, trong khi Hà Lan phản đối hoạt động tiếp diễn của lực lượng Cộng hòa tại phần phía Hà Lan của đường Renville. Trong tháng 2 năm 1948, sư đoàn Siliwangi của Quân đội Cộng hòa do Nasution chỉ huy đã hành quân từ Tây Java đến Trung Java; hành động này nhằm mục đích giảm bớt căng thẳng nội bộ của lực lượng cộng hòa liên quan đến Sư đoàn tại khu vực Surakarta. Tuy nhiên họ xung đột với binh sĩ Hà Lan khi vượt qua núi Slamet, và người Hà Lan cho rằng hành động này nhằm trong một cuộc chuyển quân có hệ thống qua đường Renville. Lo sợ những cuộc xâm nhập như vậy thực sự thành công, cùng với sự phá hoại rõ ràng của lực lượng cộng hòa với nhà nước Pasundan do Hà Lan thành lập và các báo cáo tiêu cực, lãnh đạo Hà Lan ngày càng thấy mình để mất kiểm soát.

Nản chí đàm phán với lực lượng Cộng hòa và tin rằng thế lực này bị suy yếu do các cuộc nổi loạn của Darul Islam và Madiun, Hà Lan phát động một cuộc tấn công quân sự vào ngày 19 tháng 12 năm 1948 mang tên 'Chiến dịch Gà gáy'. Đến ngày hôm sau, quân Hà Lan chiếm được thành phố Yogyakarta, nơi giữ vai trò là thủ đô lâm thời của Cộng hòa Indonesia. Đến cuối tháng 12, toàn bộ các thành phố chính của lực lượng Cộng hòa trên đảo Java và Sumatra đều rơi vào tay người Hà Lan. Tổng thống, phó tổng thống và nhiều bộ trưởng của Cộng hòa Indonesia bị quân Hà Lan bắt giữ và lưu đày đến đảo Bangka ở ngoài khơi Sumatra. Trong các khu vực quanh Yogyakarta và Surakarta, quân Cộng hòa từ chối đầu hàng và tiếp tục một cuộc chiến du kích dưới sự lãnh đạo của Tham mưu trưởng Sudirman. Chính phủ khẩn cấp nước Cộng hòa Indonesia được thành lập tại Tây Sumatra.

Mặc dù quân Hà Lan chiếm được các thành thị tại khu vực trung tâm của Cộng hòa trên đảo Java và Sumatra, song họ không thể kiểm soát vùng thôn quê. Những chiến sĩ Indonesia rút lui vào 12 giờ trưa và người Hà Lan lại tiến vào thành phố. Một cuộc tấn công tương tự chống quân Hà Lan tại Surakarta dưới quyền chỉ huy của Trung tá Slamet Riyadi diễn ra vào ngày 7 tháng 8 cùng năm. Chính phủ Hà Lan cũng dành một khoản tương đương một nửa kinh phí này cho các chiến dịch của họ tại Indonesia. Tình hình viện trợ của Hoa Kỳ có thể được sử dụng để tài trợ cho "một đế quốc lão hóa và bất lực" thúc đẩy nhiều tiếng nói quan trọng tại Mỹ – bao gồm trong Đảng Cộng hòa – và từ trong các giáo hội và tổ chức phi chính phủ Hoa Kỳ lên tiếng ủng hộ độc lập của Indonesia.

Rối loạn nội bộ

Điều gọi là 'cách mạng xã hội' sau tuyên ngôn độc lập là những thách thức đối với trật tự xã hội tại Indonesia do người Hà Lan thiết lập, và trên một mức độ nhất định là kết quả của sự phẫn uất chống lại các chính sách mà người Nhật áp đặt. Trên toàn quốc, nhân dân nổi dậy chống lại giai cấp quý tộc truyền thống và thôn trưởng, và cố gắng phát huy quyền sử hữu đại chúng đối với ruộng đất và các tài nguyên khác.

Một văn hóa bạo lực bắt nguồn từ những mẫu thuẫn sâu sắc vốn chia rẽ vùng nông thôn trong cuộc cách mạng, và sau đó liên tục bùng nổ trong suốt nửa cuối của thế kỷ 20.

Ngày 18 tháng 9 năm 1948, các thành viên của Đảng Cộng sản Indonesia (PKI) và Đảng Xã hội Indonesia (PSI) tuyên bố một 'Cộng hòa Xô viết Indonesia' tại Madiun ở phía đông của Yogyakarta. Họ đánh giá đây là thời điểm thích hợp cho một cuộc nổi dậy vô sản, họ dự tính biến nước Cộng hòa Xô viết thành một trung tâm tập hợp để khởi nghĩa chống "Sukarno-Hatta, bọn nô lệ của người Nhật và Mỹ".

Các thành viên của Quân đội Cộng hòa xuất thân từ tổ chức Hizbullah Indonesia cảm thấy bị chính phủ Indonesia phản bội. Trong tháng 5 năm 1948, họ tuyên bố một chính thể ly khai mang tên Negara Islam Indonesia (Quốc gia Hồi giáo Indonesia). Chính thể do một nhà thần bí Hồi giáo là Sekarmadji Maridjan Kartosuwirjo lãnh đạo, Darul Islam tìm cách kiến lập Indonesia theo chế độ thần quyền Hồi giáo. Đương thời, Chính phủ Cộng hòa không phản ứng do họ tập trung vào mối đe dọa từ người Hà Lan. Một số lãnh đạo của Đảng Masjumi đồng cảm với cuộc nổi loạn. Sau khi Cộng hòa Indonesia giành lại toàn bộ lãnh thổ trong năm 1950, chính phủ xác định Darul Islam là mối đe dọa nghiêm trọng, đặc biệt là sau khi một số tỉnh tuyên bố gia nhập Darul Islam. Cuộc nổi dậy này bị dập tắt vào năm 1962.

Chuyển giao chủ quyền

Sự kháng cự bền bỉ của Cộng hòa Indonesia và ngoại giao quốc tế tích cực khiến thế giới phản đối các nỗ lực của Hà Lan nhằm tái lập thuộc địa của họ.. Chủ quyền cuối cùng được chuyển giao vào ngày 27 tháng 12 năm 1949, và quốc gia mới ngay lập tức được Hoa Kỳ công nhận.

thumb|left|[[Hợp chúng quốc Indonesia, tháng 12 năm 1949 – nước Cộng hòa Indonesia được thể hiện bằng màu đỏ.]] Phần lãnh thổ trên đảo Java và Sumatra do lực lượng Cộng hòa kiểm soát hợp thành một bang duy nhất trong 16 bang của liên bang, song chiếm gần một nửa dân số toàn liên bang. 15 bang khác được người Hà Lan thiết lập từ năm 1945. Những bang này bị giải thể vào Cộng hòa Indonesia trong nửa đầu năm 1950. Một chính biến chống Cộng hòa tại Bandung và Jakarta do Quân đoàn Ratu Adil của Raymond Westerling tiến hành vào ngày 23 tháng 1 năm 1950 dẫn đến việc giải thể bang Pasundan đông dân cư tại Tây Java, do đó đẩy nhanh sự tan rã của kết cấu liên bang. Các binh sĩ thực dân có một phần lớn là người Ambon đã xung đột với binh sĩ Cộng hòa tại Makassar trong Nổi dậy Makassar vào tháng 4 năm 1950. Người Ambon chủ yếu theo Cơ Đốc giáo đến từ một trong vài khu vực có tình cảm ủng hộ Hà Lan và họ nghi ngờ về Cộng hòa do người Java Hồi giáo chi phối và xem những người Cộng hòa là cánh tả. Ngày 25 tháng 4 năm 1950, một Cộng hòa Nam Maluku (RMS) độc lập được tuyên bố tại Ambon song bị quân đội Cộng hòa đàn áp trong một chiến dịch từ tháng 7 đến tháng 11. Ngày 17 tháng 8 năm 1950, nhân kỉ niệm 5 năm ngày ông công bố tuyên ngôn độc lập của Indonesia, Sukarno tuyên bố nước Cộng hòa Indonesia là một quốc gia đơn nhất.

Tác động

thumb|Phó tổng thống Indonesia [[Mohammad Hatta|Hatta và Nữ hoàng Hà Lan Juliana tại lễ ký kết hiệp ước công nhận độc lập của Indonesia tại Hague.]] Theo ước tính, số người Indonesia thiệt mạng trong giao tranh dao động từ 45.000 đến 100.000 và số thường dân thiệt mạng vượt quá 25.000 và có thể cao đến 100.000.

Cách mạng có những ảnh hưởng trực tiếp đến điều kiện kinh tế; thiếu hụt hàng hóa là điều phổ biến, đặc biệt là thực phẩm, trang phục và nhiên liệu. Kinh tế của người Hà Lan và lực lượng Cộng hòa đều phải tái thiết sau Chiến tranh thế giới thứ hai và tồn tại qua những gián đoạn do cách mạng. Lực lượng Cộng hòa thiết lập toàn bộ nhu cầu cần thiết cho sinh hoạt, từ 'tem bưu chính, phù hiệu quân đội, và vé tàu hỏa' trong khi chịu phong tỏa thương mại của Hà Lan. Rối loạn và lạm phát bắt nguồn từ cạnh tranh tièn tệ; các loại tiền Nhật Bản, Hà Lan mới, và Cọng hòa đều được sử dụng, thường là đồng thời.

Độc lập của Indonesia được đảm bảo thông qua một quá trình kết hợp ngoại giao và vũ lực. Mặc dù tình trạng vô kỉ luật của họ làm gia tăng triển vọng vô chính phủ, song nếu không có đối dầu giữa pemuda với các thế lực thực dân bên ngoài và Indonesia, các nỗ lực ngoại giao của lực lượng Cộng hòa sẽ là vô ích. Cách mạng là bước ngoặt trong lịch sử hiện đại của Indonesia, quy định điểm tham chiếu và xác nhận cho xu hướng chính trị chính của quốc gia cho đến nay. Nó cũng xúc tiến chủ nghĩa cộng sản tại Indonesia, tiến đến dân tộc hóa chiến binh, dẫn đến 'dân chủ chỉ đạo' của Sukarno, đến Hồi giáo chính trị, nguồn gốc của quân đội Indonesia và vai trò của nó trong sức mạnh Indonesia, các dàn xếp hiến pháp của quốc gia, và tập trung hóa quyền lực tại Indonesia.

Cách mạng tiệt trừ một chính quyền thực dân, cùng với các raja- bị nhìn nhận là lỗi thời và bất lực. Ngoài ra, nó nới lỏng phân loại chủng tộc và xã hội cứng nhắc thời thuộc địa. Sinh lực và khát vọng được hình thành trong người Indonesia; một làn sóng sáng tạo mới được nhận thấy trong văn nghệ, cùng nhu cầu lớn về giáo dục và hiện đại hóa. Tuy nhiên, nó không cải thiện đáng kể đời sống kinh tế và chính trị của những nông dân nghèo chiếm phần lớn trong dân số, chỉ một số người Indonesia có thể đạt được vai trò lớn hơn trong thương nghiệp, và hy vọng về dân chủ tan vỡ trong vòng một thập niên. Năm 2016, Bộ trưởng Ngoại giao Hà Lan Bert Koenders đã xin lỗi về vụ thảm sát 400 dân làng Indonesia của quân đội Hà Lan vào năm 1947. Trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Indonesia vào tháng 3 năm 2020, Vua Willem-Alexander đã bất ngờ đưa ra lời xin lỗi về "bạo lực quá mức" của quân đội Hà Lan.` Cuộc đánh giá kết luận rằng Hà Lan đã sử dụng bạo lực quá mức và có hệ thống trong chiến tranh. Theo đánh giá, "Việc sử dụng bạo lực cực độ của các lực lượng vũ trang Hà Lan không chỉ phổ biến mà còn thường có chủ ý" và "được dung túng ở mọi cấp độ: chính trị, quân sự và pháp lý." Cùng ngày, Thủ tướng Hà Lan Mark Rutte đã xin lỗi về những hành động tàn bạo mà người Hà Lan đã gây ra trong chiến tranh và cũng vì sự thất bại của các chính phủ Hà Lan trước đây để thừa nhận nó.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cách mạng Dân tộc Indonesia** hoặc **Chiến tranh Độc lập Indonesia** là một xung đột vũ trang và đấu tranh ngoại giao giữa Indonesia và Đế quốc Hà Lan, và một cách mạng xã hội
phải|nhỏ|[[Sukarno, cùng với Mohammad Hatta (phải), đang đọc tuyên ngôn độc lập của Indonesia]] **Tuyên ngôn độc lập Indonesia** () đã được đọc vào lúc 10 giờ sáng thứ sáu ngày 17 tháng 8 năm
**Hợp chúng quốc Indonesia** (, RIS) là một nước cộng hòa liên bang, trong đó Hà Lan chính thức từ bỏ chủ quyền của Đông Ấn Hà Lan (trừ New Guinea thuộc Hà Lan) vào
**Thiếu tá Daniel Elias Mogot** (28 tháng 12 năm 1928 – 25 tháng 1 năm 1946) là một sĩ quan quân đội tham gia cuộc Cách mạng Dân tộc Indonesia. Mogot là một phần của
**Phong trào giải phóng dân tộc** là phong trào đấu tranh đòi quyền độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới trong thế kỷ
**Indonesia chiếm đóng Đông Timor** từ tháng 12 năm 1975 đến tháng 10 năm 1999. Sau thế kỷ cai trị của thực dân Bồ Đào Nha ở Đông Timor, một cuộc đảo chính năm 1974
nhỏ|Lược đồ khu vực [[Lưỡi liềm Màu mỡ khoảng năm 7500 trước Công nguyên với các di chỉ đồ đá mới Tiền đồ gốm được tô đỏ.]] **Cách mạng Đá mới** () hay **Cách mạng
**Đại học Indonesia** (tiếng Indonesia: _Universitas Indonesia_), viết tắt **UI** là trường đại học lâu đời nhất ở Indonesia, và có nhiều cơ sở ở Jakarta và Depok. ## Lịch sử Nguồn gốc của Đại
**Nhà nước Đông Indonesia** (**_Negara Indonesia Timur_** trong tiếng Indonesia) là một quốc gia được thành lập sau Thế chiến II trên phần lãnh thổ của cựu thuộc địa Đế quốc Hà Lan là Đông
**Đài tưởng niệm Quốc gia** (, viết tắt **Monas**) là một cột tháp cao 132 m (433 ft) ở trung tâm Quảng trường Merdeka, Trung Jakarta. Đây là di tích quốc gia của Indonesia, được xây dựng
**Xung đột Papua** là một cuộc xung đột đang diễn ra ở Tây New Guinea, giữa Indonesia và Phong trào Tự do Papua (, OPM). Sau khi chính quyền Hà Lan rút khỏi New Guinea
**Hội nghị bàn tròn Hà Lan–Indonesia** được tổ chức tại Den Haag từ ngày 23 tháng 8 – 2 tháng 11 năm 1949, giữa các đại biểu của Hà Lan, nước Cộng hòa Indonesia và
**Chính phủ Đoàn kết dân tộc Cộng hòa Liên bang Myanmar** (; viết tắt là **CPĐKDT**) là một chính phủ lưu vong do Ủy ban đại diện Quốc hội Liên bang thành lập, một tổ
**Sự kiện Lengkong** là một biến cố xảy ra vào ngày 25 tháng 1 năm 1946, khi các học viên của Học viện Quân sự Indonesia mới thành lập và binh lính Nhật Bản bất
**Jakarta** (phiên âm tiếng Việt: **Gia-các-ta**, ), tên đầy đủ là **Tỉnh Đặc khu Thủ đô Jakarta** (tiếng Indonesia: _Propinsi Daerah Khusus Ibukota Jakarta_, viết tắt là _Propinsi DKI Jakarta_ hoặc _DKI Jakarta_), là thủ
Thống tướng **Suharto** (8 tháng 6 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2008), chính tả cũ là **Soeharto**, là tổng thống thứ nhì của Indonesia, ông giữ chức vụ nguyên thủ quốc gia trong
Các cuộc thảm sát và bất ổn dân sự ở Indonesia từ năm 1965 đến 1966 nhằm vào các thành viên và những người ủng hộ Đảng Cộng sản Indonesia (PKI), cũng như các nhóm
**Đông Ấn Hà Lan thuộc Nhật Bản** bắt đầu vào năm 1942 và kết thúc vào ngày 17 tháng 8 năm 1945 cùng với tuyên ngôn độc lập Indonesia của Sukarno và M. Hatta thay
** Timor thuộc Bồ Đào Nha ** là tên của Đông Timor khi lãnh thổ này bị Bồ Đào Nha chiếm đóng. Trong hầu hết thời gian này, Bồ Đào Nha chia đôi đảo Timor
**Solihin Gautama Purwanegara** (21 tháng 7 năm 1926 – 5 tháng 3 năm 2024) là một cựu sĩ quan quân đội và chính trị gia người Indonesia, ông giữ chức thống đốc Tây Java từ
thumb|upright|Biểu ngữ kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng đất nước **Hòa giải và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam** là một khái niệm để chỉ sự hòa giải
**Yogyakarta** (; ; ) là thành phố thủ phủ của Vùng đặc biệt Yogyakarta ở Indonesia, phía nam Trung Java. Là thành phố hoàng gia duy nhất của Indonesia vẫn còn được cai trị bởi
Đại tướng **Soedirman** (24 tháng 1 năm 1916 - 29 tháng 1 năm 1950) là một vị tướng của Indonesia trong cuộc Cách mạng Dân tộc Indonesia. Tổng tư lệnh đầu tiên của Quân đội
**Muhammad Saleh Arifin** (23 tháng 11 năm 1926 –?) là một sĩ quan quân đội và chính trị gia người Indonesia, ông giữ chức thị trưởng Medan từ năm 1974 đến năm 1980 và là
**Surabaya** (nguyên là **Soerabaja**) là thành phố lớn thứ hai của Indonesia, tỉnh lỵ của tỉnh Đông Java. Thành phố này tọa lạc bên bờ biển đông của Java, tại cửa sông Mas và bên
**Moenadi** (EYD: **Munadi**; 26 tháng 12 năm 1923 – 12 tháng 1 năm 2013) là một sĩ quan quân đội và chính trị gia người Indonesia, ông giữ chức Thống đốc Trung Java từ năm
**Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (giản thể: 中国人民解放军, phồn thể: 中國人民解放軍, phiên âm Hán Việt: Trung Quốc Nhân dân Giải phóng Quân), gọi tắt là **Giải phóng quân**, cũng được gọi là **Quân
**Agus Salim Rangkuti** (10 tháng 8 năm 1928 – ?) là một sĩ quan quân đội và chính trị gia người Indonesia, ông từng là thị trưởng Medan, Bắc Sumatra từ năm 1980 đến năm
**Ali Audah** (14 tháng 7 năm 1924 – 20 tháng 6 năm 2017) là một nhà văn và dịch giả văn học người Indonesia. Ông được biết đến nhất với các bản dịch từ tác
**Oerip Soemohardjo** (22 tháng 2 năm 1893 - 17 Tháng 11 năm 1948) là một vị tướng người Indonesia và là tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Các lực lượng vũ trang Indonesia. Ông
**Sân bay Haluoleo** (tên cũ **Sân bay Wolter Monginsidi**) là một sân bay ở Kendari, Đông Nam Sulawesi, Indonesia . Tên cũ của sân bay được đặt theo Robert Wolter Monginsidi, một anh hùng Indonesia
**‎Mặt trận Giải phóng Dân tộc Moro‎**‎ (**MNLF EC-15**; ) là một tổ chức chính trị ở ‎‎Philippines‎‎ được thành lập vào năm 1972. ‎‎Tổ chức bắt đầu là một nhóm chia rẽ của ‎‎Phong
**Người Hoa Indonesia** () hoặc (tại Indonesia) chỉ gọi đơn thuần là **Trung Hoa** () là sắc tộc có nguồn gốc từ những người nhập cư trực tiếp từ Trung Quốc hoặc gián tiếp từ
**Indonesia**, tên gọi chính thức là **Cộng hòa Indonesia** (tiếng Indonesia: _Republik Indonesia_), thường được gọi ngắn là **Indo**, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương.
Cuộc **xâm lược của Indonesia vào Đông Timor**, ở Indonesia được gọi là **Chiến dịch Hoa Sen** (; tiếng Anh: _Operation Lotus_), bắt đầu vào ngày 7 tháng Mười Hai năm 1975 khi quân đội
**Trận Surabaya** diễn ra giữa các binh sĩ và dân quân Indonesia ủng hộ độc lập chống lại quân Anh và Ấn Độ thuộc Anh, nằm trong Cách mạng Dân tộc Indonesia. Đỉnh cao của
**Phân biệt chủng tộc ở châu Á** bắt nguồn từ những sự kiện đã xảy ra ở khắp nơi từ hàng ngàn năm trước cho đến nay. ## Bangladesh Vào năm 2015, Elias Mollah, thành
**Lịch sử Indonesia** là dải thời gian rất dài, bắt đầu từ thời Cổ đại khoảng 1.7 triệu năm trước dựa trên phát hiện về Homo erectus Java. Các giai đoạn lịch sử của Indonesia
**M3 Stuart,** tên chính thức là **Xe tăng hạng nhẹ, M3** (Light Tank, M3), là một loại xe tăng hạng nhẹ được sử dụng rộng rãi bởi quân Đồng Minh phuơng Tây trong Thế chiến
**Aang Kunaefi** (5 tháng 12 năm 1922 – 12 tháng 11 năm 1999) là một sĩ quan quân đội và nhà ngoại giao người Indonesia, ông từng giữ chức Thống đốc Tây Java từ năm
Ngày **10 tháng 11** là ngày thứ 314 (315 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 51 ngày trong năm. ## Sự kiện *621 – Tùy mạt Đường sơ: Lương Đế Tiêu Tiển hạ lệnh
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
phải|Bản đồ các [[quốc gia theo mật độ dân số, trên kilômét vuông. (Xem _Danh sách quốc gia theo mật độ dân số._)]] phải|Các vùng có mật độ dân số cao, tính toán năm 1994.
**Cơ quan thị trưởng Palembang**, còn được gọi là **Kantor Ledeng**, là một tòa nhà văn phòng ở Palembang, Nam Sumatra, Indonesia, được xây dựng với mục đích sử dụng làm trụ sở của chính
Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1898, trước khi nổ ra [[Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ và Chiến tranh Boer]] Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1800
right|thumb|Chân dung [[Julie Manet bởi Renoir, 1894]] **Tóc dài** là kiểu tóc mà tóc trên đầu được mọc tự nhiên đến một độ dài nhất định. Độ dài của tóc dài có thể thay đổi
**Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc** hay **Hải quân Trung Quốc** () là lực lượng hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Quy mô tổ chức của Hải quân
**Súng trường M1903 Springfield** là mẫu súng trường lên đạn bằng khóa nòng thủ công rất nổi tiếng, được trang bị cho quân đội Hoa Kỳ trong suốt nửa đầu của thế kỷ 20. Quân
**Gia tộc Nehru-Gandhi** (**नेहरू-गान्धी परिवार**), với ảnh hưởng thống trị trên Đảng Quốc Đại Ấn Độ trong hầu hết giai đoạn tiên khởi sau khi đất nước này giành độc lập, được nhiều người xem
[[Bầu cử là một phần quan trọng trong tiến trình dân chủ.]] **Dân chủ hóa** là một từ trong khoa học chính trị và xã hội học để chỉ những thay đổi về mọi mặt