✨Ana của Tây Ban Nha

Ana của Tây Ban Nha

Ana của Tây Ban Nha, hay Ana của Áo (tiếng Tây Ban Nha: Ana María Mauricia de Austria y Austria-Estiria hay Ana de España; tiếng Đức: Anna von Österreich; tiếng Bồ Đào Nha: Ana da Áustria hay Ana da Espanha tiếng Pháp: Ana d'Autriche; tiếng Anh: Ana of Austria; 22 tháng 9 năm 1601 - 20 tháng 1 năm 1666), là Vương hậu của Vương quốc Pháp và Navarra với tư cách là hôn phối của Quốc vương Louis XIII của Pháp. Bà là mẹ của Quốc vương kế vị, Louis XIV của Pháp nổi tiếng trong lịch sử và đã thực hiện nhiếp chính với tư cách Thái hậu khi vị Quốc vương này lên ngôi lúc mới 4 tuổi.

Trong giai đoạn bà nhiếp chính (1643 - 1651), Hồng y Mazarin phục vụ triều đình Pháp với tư cách Thủ tướng, và có ảnh hưởng rất lớn đến bà thông qua việc tham vấn. Những ghi chép của triều đình Pháp về hoạt động của Ana chủ yếu là quan hệ hôn nhân căng thẳng giữa bà và chồng, Louis XIII; sự thân thiết của bà với người con trai Louis XIV và sự phản đối việc cháu gái bà, María Teresa của Tây Ban Nha bị con trai bà thất sủng.

Thân thế

thumb|left|upright|Ana khi 6 tuổi, năm 1607. Ana, Vương hậu nước Pháp, có tên thánh là Ana María Mauricia, sinh vào ngày 22 tháng 9, năm 1601 tại Cung điện Benavente, thuộc Valladolid, Tây Ban Nha. Bà là con gái lớn của Quốc vương Felipe III của Tây Ban Nha và Vương hậu Margaret của Áo. Bà nhận danh hiệu "Vương nữ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha" (Infanta of Spain and Portugal) - vì cha bà là Quốc vương của Tây Ban Nha đồng thời lẫn Bồ Đào Nha. Ngoài ra, bà còn nhận danh hiệu "Nữ Đại vương công nước Áo" (Archduchess of Austria), vì cha bà thuộc dòng họ danh giá Nhà Habsburg. Dù sinh ra ở Tây Ban Nha, nhưng bà vẫn được biết đến với danh hiệu Ana của Áo vì khi đó nhà Habsburg của Áo đang cai trị Tây Ban Nha.

Thuở thiếu thời, bà lớn lên tại Royal Alcazar of Madrid. Khác với các công chúa tông thất, bà được gần gũi với cha mẹ suốt thời thơ ấu và được truyền sự mộ đạo từ họ. Trong suốt thời gian đó, bà thường được tháp tùng cùng cha mẹ mình đến khắp các Tu viện. Năm 1611, Vương hậu Margaret qua đời khi sinh nở. Nén đau buồn, bà chăm sóc những người em của mình chu đáo, và về sau có ảnh hưởng lớn đến họ như một người mẹ.

Cuộc sống ở Pháp

Kết hôn

Ana được hứa hôn năm 11 tuổi với Quốc vương Louis XIII của Pháp. Cha bà Philip III đã chuẩn bị của hồi môn cho bà trị giá tới 500,000 đồng crowns và nhiều đồ trang sức quý giá khác. Vì lường trước việc Louis XIII của Pháp có thể qua đời bất cứ lúc nào, triều đình Tây Ban Nha sẵn sàng đón Ana trở lại Tây Ban Nha với của hồi môn và trang sức sau khi Louis XIII qua đời. Trước lúc kết hôn, Ana từ bỏ hết các quyền thừa kế cá nhân và của những đứa con giữa bà và Louis, và điều khoản quy định phục hồi lại cho bà nếu bà trở thành góa phụ không con cái. Vào ngày 24 tháng 11 năm 1615, Ana và Louis đã kết hôn qua sự ủy thác tại Burgos, cùng lúc đó diễn ra lễ kết hôn tương tự tại Bordeaux của em gái Louis, Elizabeth của Pháp, cùng với em trai của Ana, Felipe IV của Tây Ban Nha. Ana và Elizabeth được trao qua hôn nhân tại đảo Pheasants, ở giữa Hendaye và Hondarribia. Bà nổi tiếng vì có nhan sắc, và cũng nổi bật về khả năng cưỡi ngựa của mình. Trong những người hâm mộ bà, có cả George Villiers, Công tước Buckingham thứ nhất.

Ana và Louis khi đó đều 14 tuổi, cùng chịu sức ép giao phòng để sinh ra người nối dõi, chặn đứt nguy cơ hủy hôn, thế nhưng Louis đã lờ bà mà không đoái hoài gì đến. Mẹ của Louis, Maria de' Medici, vẫn giữ vai trò tối cao của một Thái hậu và không hề tỏ ra tôn trọng vị thế Vương hậu của Ana. Vương hậu mới gần như bị cô lập về mọi mặt, cùng với những thị nữ đều xuất thân từ Tây Ban Nha, bà tiếp tục sống theo những nghi lễ của triều đình cũ mà không thể học hỏi, cải thiện tiếng Pháp cũng như lối sống mới tại đây.

Biến cố

Vương hậu Ana mặc trang phục đăng quang, vẽ bởi [[Peter Paul Rubens]]

Năm 1617, vị Quốc vương Louis âm mưu cùng người tâm phúc là Charles d'Albert, Công tước Luynes, để lật đổ sự chuyên quyền của Thái hậu Maria de' Medici và đã giết chết tâm phúc của bà là Concino Concini vào ngày 26 tháng 4 cùng năm. Được trọng dụng và tin tưởng, Công tước Luynes cố gắng hàn gắng khoảng cách giữa Louis và Vương hậu Ana. Công tước đã thay hết các thị nữ người Tây Ban Nha, và thay vào bằng những người Pháp, đặc biệt là Công nương Conti và vợ của Công tước, Marie de Rohan. Công tước cùng các tâm phúc phu nhân mới đã cố gắng dàn xếp Louis và Ana vào những sự kiện triều đình với một bầu không khí lãng mạn và thiện cảm. Vương hậu dần hành xử đúng mực theo cách người Pháp, và vào năm 1619 Công tước Luynes đã thành công trong việc ép Louis giao phòng với Ana. Cả hai dần có thiện cảm với nhau, bằng chứng trong việc Louis gần như phát điên khi lo lắng trong một dịp Ana trở bạo bệnh.

Thế nhưng, việc sẩy thai liên tiếp của bà khiến Vua Louis gần như chán nản và trở lại lạnh nhạt. Năm 1622, ngày 14 tháng 3, trong lúc chơi đùa với các bồi giá phu nhân thì Ana trượt ngã và sẩy thai lần thứ hai. Việc này khiến Louis trở nên tức giận với Ana, và đổ lỗi cho Công tước phu nhân Luynes vì đã không khuyên bảo Vương hậu. Từ đây, Quốc vương trở nên nghiêm khắc và dè chừng mà Công tước phu nhân Luynes tác động đến Ana, và việc trở nên nghiêm trọng khi Công tước Luynes qua đời vào tháng 12 năm 1621. Khi đó, Quốc vương đang đối đầu với những người Kháng Cách, còn Vương hậu thì ra sức bảo hộ Phu nhân Marie de Rohan-Montbazon, người là trung tâm của thị phi triều đình, trong việc muốn tái hôn với Claude, Công tước xứ Chevreuse.

left|thumb|[[Louis XIII của Pháp, Vương hậu Ana, và con trai của họ Louis XIV của Pháp. Đến bên cạnh là Hồng y Richelieu và Công tước phu nhân Chevreuse.]]

Năm 1624, Quốc vương Louis XIII chuyển qua dùng Hồng y Richelieu làm Thủ tướng, một nhà chính trị có chủ trương chống lại Nhà Habsburg đang giữ ngôi vị tại Áo và Tây Ban Nha, khiến Pháp rơi vào thế gọng kềm. Do đó, Richelieu có quan hệ căng thẳng với Vương hậu Ana, người sau nhiều năm vẫn không có con và càng bị mất tín nhiệm với Quốc vương Louis XIII, khi vị quân vương này ngày càng ủy quyền vào Richelieu cho đến khi ông ta qua đời vào năm 1642. Bởi sự ảnh hưởng của tâm phúc của mình, Phu nhân Marie de Rohan, Vương hậu Ana bị cuốn vào vòng xoáy chính trị và trở thành người đối chọi chính của Richelieu trong triều đình Pháp.

Năm 1635, Vương quốc Pháp khai chiến với Tây Ban Nha, đặt vị thế của Vương hậu Ana trong tình huống tiến thoái lưỡng nan. Và vào năm 1637, Ana bị Richelieu ép phải ký vào điều khoản thỏa thuận, bắt buộc phải bị thẩm tra thư từ qua lại giữa bà và Tây Ban Nha, đặc biệt sau tin đồn đãi bà có câu kết với người em trai, Quốc vương Felipe IV của Tây Ban Nha. Phu nhân Marie de Rohan bị xử tử, và Richelieu thay các thị nữ của Ana bằng người của mình để giám sát Vương hậu.

Dù ở hoàn cảnh bất lợi, Vương hậu Ana trong tình cảnh đó lại có thai, sau một đêm ở cùng Louis XIII vì ông phải hoãn chuyến đi đến Saint-Maur vì bão. Năm 1638, ngày 5 tháng 9, Vương hậu hạ sinh một Vương tử, tức Louis XIV của Pháp. Năm 1640, bà lại sinh hạ tiếp Philippe I xứ Orléans, người sau này xác lập nên Nhà Orléans. Vương hậu Ana khi đó đã rời khỏi Cung điện Louvre đến Palais-Royal cùng 2 Vương tử của bà và tự tay chăm sóc cho 2 người con. Dự cảm mình không thể sống lâu, Louis XIII trong thời gian này cố gắng cô lập Vương hậu, ngăn không cho bà có thể trở thành nhiếp chính sau khi ông qua đời.

Thái hậu của nước Pháp

Nhiếp chính cho con trai

Ana của Áo khi trở thành Thái hậu, vẽ bởi [[Charles de Steuben, Versailles.]]

Năm 1643, ngày 14 tháng 5, Quốc vương nước Pháp, Louis XIII, qua đời tại Paris sau 33 năm trị vì. Trữ quân Louis, con trai của Tiên vương Louis XIII và Vương hậu Ana trở thành Tân vương, với tước hiệu Louis XIV của Pháp. Trước khi qua đời, Tiên vương Louis đã lập một Hội đồng nhiếp chính và di chúc để đảm bảo ngăn chặn việc Vương hậu Ana nắm quyền nhiếp chính. Thế nhưng, qua sự giúp đỡ của Pierre Séguier, Vương hậu được Quốc hội Paris công nhận trở thành người đứng đầu Hội đồng nhiếp chính, trở thành Thái hậu.

Tuy nhiên, Thái hậu giao hết mọi quyết định trọng đại cho Hồng y Mazarin, một người học trò của Hồng y Richelieu, và trở thành một người có ảnh hưởng lớn trong hội đồng nhiếp chính. Sau khi lãnh thụ quyền hạn, Mazarin bỏ nơi ở của mình tại Paris để chuyển vào Cung điện Palais-Royal, nơi ở của Thái hậu. Tin đồn tiếp tục dấy lên việc giữa Mazarin và Thái hậu có mối quan hệ tình cảm, vốn đã có từ rất lâu trước khi Louis XIII qua đời.

Với sự trợ giúp của Mazarin, Thái hậu chiến thắng trước cuộc nổi loạn của giới quý tộc dẫn đầu bởi Louis, Vương công Condé, được biết đến với cái tên Fronde. Năm 1651, Louis XIV đến tuổi trưởng thành, Thái hậu trao lại quyền lực cho Tân vương trên mặt pháp lý. Thế nhưng ảnh hưởng của bà vẫn còn dai dẳng thông qua vị quốc vương trẻ, cho đến khi Mazarin qua đời vào năm 1661.

Cuối đời

thumbnail|left|upright|Thái hậu Ana của Pháp, Nữ Đại vương công Áo, vẽ bởi [[Charles Beaubrun]]

Năm 1659, cuộc chiến tranh giữa Pháp và Tây Ban Nha kết thúc với Hiệp ước Pyrenees. Và qua năm sau, nghị ước hòa bình được xác định thông qua cuộc hôn nhân giữa Quốc vương Louis XIV và cháu gái của Thái hậu, Vương nữ María Teresa của Tây Ban Nha.

Năm 1661, cùng năm Mazarin qua đời, một người con nối dõi được sinh ra, cháu đích tôn đầu tiên của Thái hậu Ana, Louis, Đại trữ quân của Pháp. Nhiều đứa trẻ khác cũng được sinh ra, thế nhưng đều qua đời rất sớm, trừ Louis. Nhiều năm trôi qua, Thái hậu Ana trở về Tu viện tại Val-de-Grâce, và cũng tại nơi đây bà qua đời sau một cơn ung thư vú. Thị nữ của Thái hậu, Phu nhân de Motteville đã viết lại cuộc đời của Thái hậu Ana trong cuốn sách có nhan đề Mémoires d'Ana d'Autriche. Nhiều nhìn nhận rằng bà là một người phụ nữ lỗi lạc và có tâm cơ, và về sau bà trở thành một trong những nhân vật trung tâm của tiểu thuyết Ba chàng lính ngự lâm của Alexandre Dumas.

Danh hiệu

  • 22 tháng 9 năm 1601 - 8 tháng 4 năm 1605: Her Highness The Princess of Portugal
  • 8 tháng 4 năm 1605 - 24 tháng 11 năm 1615: Her Highness Infanta Ana of Portugal and Spain
  • 24 tháng 11 năm 1615 - 14 tháng 5 năm 1643: Her Most Christian Majesty The Queen of France
  • 14 tháng 5 năm 1643 - 20 tháng 1 năm 1666: Her Most Christian Majesty The Dowager Queen of France

Gia phả

Phòng tranh

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**María Ana của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Ana de España_, tiếng Đức: _Maria Anna von Spanien_; tiếng Anh: _Maria Anna of Spain_; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5
**Ana của Tây Ban Nha, hay Ana của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Ana María Mauricia de Austria y Austria-Estiria_ hay _Ana de España_; tiếng Đức: _Anna von Österreich_; tiếng Bồ Đào Nha: _Ana da
**María Teresa của Tây Ban Nha**, **Maria Theresia của Áo** hay **María Teresa của Áo và Borbón** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Austria y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Thérèse d'Autriche_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**Margarita Francisca của Tây Ban Nha, hay Margarida của Bồ Đào Nha, Margarete của Áo, Margarita de Habsburgo** (25 tháng 5 năm 1610 - 11 tháng 3 năm 1617) là một Vương nữ Tây Ban
**Beatriz của Tây Ban Nha** hay **Beatriz de Borbón y Battenberg** (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: _Beatrice of Spain_; tiếng Scotland: _Beatrice o Spain_; tiếng Ý: _Beatrice di Borbone-Spagna_; tiếng Đức:
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
phải|nhỏ|299x299px| Vương huy của Vương tử Gabriel của Tây Ban Nha. **Gabriel của Tây Ban Nha** (tên đầy đủ: _Gabriel Antonio Francisco Javier Juan Nepomuceno José Serafín Pascual Salvador_; 12 tháng 5 năm 1752 –
**Amalia của Tây Ban Nha hay Amalia de Borbón y Borbón-Dos Sicilias** (tiếng Tây Ban Nha: _Amalia de España_; tiếng Đức: _Amalia von Spanien_; 12 tháng 10 năm 1834 – 27 tháng 8 năm 1905)
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
**Vương tộc Borbón**, hay **Borbón-Anjou**, là vương tộc hiện đang trị vì Tây Ban Nha, xuất phát từ Vương tộc Bourbon có nguồn gốc từ Pháp, khi Philippe của Pháp, Công tước xứ Anjou trở
**Letizia Ortiz Rocasolano** (; ngày 15 tháng 9 năm 1972) là Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Felipe VI của Tây Ban Nha. Cũng như hầu hết
**Margarete của Áo** (25 tháng 12 năm 1584 – 3 tháng 10 năm 1611) là Vương hậu Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thông qua cuộc hôn nhân của với Felipe III của Tây
Giới từ của tiếng Tây Ban Nha—như giới từ trong các ngôn ngữ khác—là bộ các từ nối (như là _con_, _de_ hoặc _para_) có mục dích chỉ mối quan hệ giữa một từ nội
**Các lâu đài ở Tây Ban Nha** được xây dựng với mục đích phòng thủ. Trong suốt thời kì Trung Cổ, các vương quốc Kitô phía bắc tranh chấp biên giới lãnh thổ với các
**Mariana Vitória của Bồ Đào Nha** (hoặc của Bragança; ; tên đầy đủ: _Mariana Vitória Josefa Francisca Xavier de Paula Antonieta Joana Domingas Gabriela de Bragança_ ; ; 15 tháng 12 năm 1768 – 2
Dom **Carlos I** (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [ˈkaɾluʃ]; tiếng Anh: _King Charles of Portugal_; 28 tháng 9 năm 1863 - 1 tháng 2 năm 1908), còn được gọi là **Nhà ngoại giao** (tiếng
**Élisabeth của Pháp** hay **Isabelle của Bourbon** (22 tháng 11 năm 1602 – 6 tháng 10 năm 1644) là con gái của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici cũng như là Vương hậu
**Marie Louise của Orléans** (tiếng Pháp: _Marie-Louise d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de Orleans_; 26 tháng 3 năm 1662 – 12 tháng 2 năm 1689) là một _petite-fille de France_ (_Cháu gái nước
**Ana de Jesus Maria của Bồ Đào Nha, hay Ana de Jesus Maria của Bragança** (_Ana de Jesus Maria Luísa Gonzaga Joaquina Micaela Rafaela Sérvula Antónia Francisca Xavier de Paula de Bragança e Bourbon_; Mafra,
**Maria Ana Francisca của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Maria Ana Francisca de Portugal_; tên đầy đủ: _Maria Ana Francisca Josefa Rita Joana_; 7 tháng 10 năm 1736 – 16 tháng 5 năm
**Anna của Áo** (, ; 2 tháng 11 năm 1549 – 26 tháng 10 năm 1580), là Nữ Đại vương công Áo, sau thành Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ
Dom **Pedro I** (tiếng Việt:Phêrô I; 12 tháng 10 năm 1798 – 24 tháng 9 năm 1834), biệt danh "Người Giải phóng", là người thành lập và nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc Brasil. Với
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha, María de las Mercedes của Orléans, María de las Mercedes de Orleans y Borbón hay Mercedes của Orléans** (tiếng Tây Ban Nha: _María de las Mercedes de
**Élisabeth của Pháp** hay còn biết đến với tên gọi là **Élisabeth của Valois** hay **Isabel của Hòa Bình** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_/_Isabel de Valois_/_Isabel de la Paz_; tiếng Pháp: _Élisabeth de
**Maria Benedita của Bồ Đào Nha** (Maria Francisca Benedita Ana Isabel Antónia Lourença Inácia Teresa Gertrudes Rita Rosa; 25 tháng 7 năm 1746 – 18 tháng 8 năm 1829) là một Infanta của Bồ Đào
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Sevilla** là thành phố nằm ở phía nam Tây Ban Nha, là thành phố lớn nhất và thủ phủ của vùng Andalucía và tỉnh Sevilla, nằm ở hạ lưu sông Guadalquivir, nơi có cảng cho
nhỏ|phải|Marcos Ana **Marcos Ana** (sinh 20 tháng 1 năm 1920 ở Alconada – mất 24 tháng 11 năm 2016 tại Madrid), tên thật là **Fernando Macarro Castillo**, là một nhà thơ Tây Ban Nha. ##
**Ana Isabel de Palacio y del Valle-Lersundi** (sinh ngày 22 tháng 7 năm 1948) tại Madrid, con gái của Luis María de Palacio y de Palacio, Marqués de Matonte, và vợ Luisa Mariana del Valle-Lersundi
**Ferdinand III** (13 tháng 7 năm 1608 – 2 tháng 4 năm 1657) là Hoàng đế La Mã Thần thánh (15 tháng 2 năm 1637 – 1657). ## Cuộc đời Là con trưởng của Hoàng
**Louis Philippe I, Công tước xứ Orléans** còn được gọi là **le Gros** (Béo) (12 tháng 5 năm 1725 - 18 tháng 11 năm 1785) là một thân vương người Pháp, công tước đời thứ
nhỏ|phải|Santa Ana năm 1887. nhỏ|phải|Sân vận động thành phố năm 2007. **Santa Ana** là thành phố đông dân nhất và là quận lỵ của Quận Cam, California. Thành phố nằm cách bờ biển Thái Bình
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán
**Ana của Navarra**, hay **Ana de Albret của Navarra** (tiếng Tây Ban Nha: _Ana de Navarra_; tiếng Basque: _Ana Nafarroakoa_; tiếng Occitan: _Ana de Navarra_; tiếng Pháp: _Anne de Navarre_; tiếng Anh: _Anne of Navarre_;
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**David Villa Sánchez** (; sinh ngày 3 tháng 12 năm 1981) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha từng thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm. Được đánh
**Cuộc cách mạng Philippines** (tiếng Filipino: Himagsikang Pilipino), hay còn được gọi là **Chiến tranh Tagalog** (tiếng Tây Ban Nha: _Guerra Tagalog_) bởi người Tây Ban Nha, là một cuộc cách mạng và các cuộc
**Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Maria hồn xác lên trời** () là trụ sở của Tổng giáo phận Công giáo México. Nhà thờ tọa lạc trên đỉnh khu vực linh thiêng của người Aztec
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**Rafael Nadal Parera** (, sinh ngày 3 tháng 6 năm 1986 tại Manacor, Mallorca), biệt danh **Rafa**, là một cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Tây Ban Nha. Nadal được đánh giá
**Louis XIII** (27 tháng 9 1601—14 tháng 5 1643) là một vị vua thuộc vương triều Bourbon với tước hiệu là Vua của Pháp từ 1610 đến 1643 và Vua của Navarra (với danh xưng
**Henriette Marie của Pháp** (tiếng Pháp: _Henriette Marie de France_; 25 tháng 11, năm 1609 – 10 tháng 9, năm 1669) là Vương hậu của Vương quốc Anh, Ireland và Scotland với tư cách là
**El Salvador** (tiếng Tây Ban Nha: _República de El Salvador_, IPA: , tiếng Việt: Cộng hòa En Xan-va-đo) là một quốc gia tại Trung Mỹ, giáp với Guatemala về phía tây bắc, Honduras về phía
**_Little Ashes_** là một bộ phim Tây Ban Nha-Anh năm 2008 lấy bối cảnh Tây Ban Nha trong những năm 1920 và 1930, khi ba trong số những tài năng trẻ sáng tạo nhất thời
thumb|Josep Piqué tại [[Horasis Hội nghị Doanh nghiệp Trung Quốc Toàn cầu 2008]] **Josep Piqué i Camps** (21 tháng 2 năm 1955 – 6 tháng 4 năm 2023) là một chính trị gia người Tây
**Câu lạc bộ bóng đá nữ Barcelona** là một câu lạc bộ bóng đá nữ có trụ sở tại Barcelona, ​​Tây Ban Nha. Câu lạc bộ bóng đá nữ Barcelona là câu lạc bộ nữ
**Franz Joseph I Karl của Áo** - tiếng Đức, **I. Ferenc Jozséf** theo tiếng Hungary, còn viết là **Franz Josef I** (18 tháng 8 năm 1830 - 21 tháng 11 năm 1916) của nhà Habsburg
**Maria Anna của Áo** (_Maria Anna von Österreich_) có thể chỉ đến những người sau: * Maria Anna của Áo (1606–1646), con gái của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, Hoàng