Công quốc Oldenburg (tiếng Đức: Herzogtum Oldenburg) là một nhà nước lịch sử toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức ngày nay. Tên của nó được đặt theo thị trấn Oldenburg, đồng thời cũng là thủ phủ của nhà nước này. Tiền thân của Công quốc Oldenburg là Bá quốc Oldenburg, ra đời từ năm 1091 và trở thành một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, đến năm 1774 thì nó đương nâng lên thành công quốc và tồn tại cho đến năm 1810 thì bị Đệ Nhất Đế chế Pháp của Hoàng đế Napoleon sáp nhập. Sau khi người Pháp thất bại trong Chiến tranh Napoleon, Đại hội Viên đã tái lập lại lãnh thổ Oldenburg, nhưng nâng nó lên vị thế Đại công quốc.
Anthony Günther, Bá tước xứ Oldenburg, dòng dõi chính của Nhà Oldenburg qua đời vào năm 1667, lãnh thổ của Bá quốc Oldenburg rơi vào tay Frederick III của Đan Mạch thuộc dòng dõi Công tước xứ Holstein-Gottorp, người đã kết hôn với Nữ đại công tước Anna Petrovna của Nga, con gái của Peter Đại đế. Một người khác, em họ đầu tiên của ông, Frederick August I, trở thành Công tước xứ Oldenburg vào năm 1774. Một trong những người anh em của ông, Adolf Frederick, trở thành Vua của Thụy Điển. Một người anh em khác, Thân vương Georg Ludwig xứ Holstein-Gottorp, là cha của Peter I, người đã trở thành Đại công tước xứ Oldenburg vào năm 1823. Những người cai trị Đại công quốc Oldenburg sau này đều là hậu duệ của ông.
Gia tộc cầm quyền của nó là Nhà Oldenburg, cũng lên nắm quyền ở Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Hy Lạp và Nga. Những người thừa kế của một dòng nhỏ của chi nhánh Hy Lạp, thông qua Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch, Công tước xứ Edinburgh, là những người trị vì ngai vàng của Vương quốc Anh và các vương quốc Khối thịnh vượng chung khác sau khi Nữ vương Elizabeth II qua đời.
Lịch sử
Vị bá tước đầu tiên được biết đến của Oldenburg là Elimar I (mất năm 1108). Hậu duệ của Elimar xuất hiện với tư cách là chư hầu, mặc dù đôi khi là những người nổi loạn, của các Công tước xứ Sachsen; nhưng họ đã đạt được phẩm giá của các Thân vương đế chế khi Hoàng đế Friedrich I chia cắt Công quốc Sachsen vào năm 1180. Vào thời điểm này, Bá quốc Delmenhorst là một phần lãnh thổ của các Bá tước Oldenburg, nhưng sau đó nó đã nhiều lần bị tách khỏi họ để trở thành một thái ấp cho các nhánh trẻ hơn của gia tộc. Điều này đã xảy ra trong khoảng thời gian từ năm 1262 đến năm 1447, từ năm 1463 đến năm 1547, và từ năm 1577 đến năm 1617.
Trong giai đoạn đầu thế kỷ XIII, các bá tước đã tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh với các Thân vương xứ Frisia độc lập, hoặc bán độc lập, ở phía bắc và phía tây của bá quốc, dẫn đến sự mở rộng dần dần lãnh thổ Oldenburg. Thành bang Bremen của Liên minh Hanse Tự do và Giáo phận vương quyền Münster cũng thường xuyên xảy ra chiến tranh với các bá tước Oldenburg.
Năm 1440, Christian kế vị cha mình là Dietrich, còn gọi là Fortunatus, làm Bá tước Oldenburg. Năm 1448, Christian được bầu làm vua Đan Mạch, tức Christian I, một phần dựa trên dòng dõi mẹ của ông từ các vị vua Đan Mạch trước đó. Mặc dù nằm rất xa biên giới Đan Mạch, Oldenburg giờ đây là một vùng đất tách rời của Đan Mạch. Quyền kiểm soát thành phố được giao cho các em trai của nhà vua, những người đã thiết lập một triều đại chuyên chế ngắn ngủi.
Năm 1450, Christian trở thành vua của Na Uy và năm 1457, trở thành vua của Thụy Điển. Năm 1460, ông thừa kế Công quốc Schleswig và Bá quốc Holstein, một sự kiện có tầm quan trọng lớn đối với lịch sử tương lai của Oldenburg. Năm 1454, ông trao Oldenburg cho em trai mình là Gerhard (khoảng 1430–99), một thân vương hung hăng và hiếu chiến, người luôn gây chiến với Giám mục vương quyền Bremen và các nước láng giềng khác. Năm 1483, Gerhard buộc phải thoái vị để nhường ngôi cho các con trai, và ông qua đời khi đang hành hương ở Tây Ban Nha.
Đầu thế kỷ XVI, Oldenburg một lần nữa được mở rộng nhờ sự chi phối của người Frisia. Giáo phái Luther được Anthony I (1505–73, trị vì từ năm 1529) du nhập vào đất nước, người cũng đã đàn áp các tu viện; tuy nhiên, ông vẫn trung thành với Karl V của Thánh chế La Mã trong Chiến tranh Schmalkaldic, và nhờ đó đã mở rộng được lãnh thổ của mình, giành được Delmenhorst vào năm 1547. Một trong những người anh em của Anthony là Christopher (khoảng 1506–60), đã nổi tiếng vì là một chiến binh anh dũng.
Cháu trai của Anthony, Anthony Günther (1583–1667), người kế vị vào năm 1603, tự coi mình là vị thân vương khôn ngoan nhất từng cai trị Oldenburg. Jever đã được mua lại trước khi ông trở thành bá tước, nhưng vào năm 1624, ông đã sáp nhập Wilhelmshaven và Varel vào lãnh thổ của mình, và đến năm 1647, Delmenhorst cuối cùng đã được sáp nhập. Nhờ thái độ trung lập trong Chiến tranh Ba Mươi Năm và bằng cách hiến tặng những con ngựa quý giá cho lãnh chúa là Bá tước xứ Tilly, Anthony Günther đã đảm bảo cho lãnh địa của mình được miễn trừ khỏi sự tàn phá khủng khiếp mà hầu hết các nhà nước khác của Thánh chế La Mã phải gánh chịu. Ông cũng được hoàng đế trao cho quyền thu thuế đối với các tàu thuyền đi qua sông Weser, một khoản trợ cấp béo bở, nhanh chóng trở thành một khoản bổ sung đáng kể cho nguồn lực của ông. Năm 1607, ông cho xây dựng một lâu đài theo phong cách kiến trúc Phục Hưng. Sau khi Anthony Günther qua đời mà không có người thừa từ, Oldenburg lại nằm dưới quyền cai trị của các vua Đan Mạch thuộc dòng chính của Vương tộc Oldenburg.
Theo Hiệp ước Tsarskoye Selo năm 1773, Quốc vương Christian VII của Đan Mạch đã nhượng lại bá quốc này cho Catherine Đại đế để đổi lấy phần thừa kế của con trai bà Đại công tước Pavel trong Công quốc Holstein và các yêu sách của ông đối Công quốc Schleswig; Oldenburg được trao cho Friedrich August, Quản trị viên của Giáo phận vương quyền Lübeck, đại diện của một nhánh trẻ hơn của gia tộc, và vào năm 1777, Bá quốc này được nâng lên thành một công quốc. Con trai của công tước là Wilheim, người kế vị vào năm 1785, bị bệnh tâm thần, và người em họ của ông là Peter, Quản trị viên của Giáo phận vương quyền Lübeck, giữ vai trò nhiếp chính và cuối cùng, vào năm 1823, đã kế thừa ngai vàng, nắm giữ Lübeck và cả Oldenburg trong liên minh cá nhân.
Sau Hòa giải Đức năm 1803, Oldenburg đã giành được Oldenburg Münsterland và Giáo phận vương quyền Lübeck. Từ năm 1810 đến năm 1814, Oldenburg bị Đệ Nhất Đế chế Pháp của Napoleon chiếm đóng. Việc sáp nhập vào Đế chế Pháp năm 1810 là một trong những nguyên nhân gây ra rạn nứt ngoại giao giữa các đồng minh cũ là Pháp và Nga, một cuộc tranh chấp dẫn đến chiến tranh năm 1812 và cuối cùng là sự sụp đổ của Napoleon.
Người Do Thái
Tài liệu cổ nhất về người Do Thái sinh sống tại Công quốc Oldenburg có niên đại từ thời Trung Cổ. Cộng đồng Do Thái lớn của Công quốc bao gồm các cộng đồng Delmenhorst, Jever, Varel, Vechta và Wildeshausen. Các tài liệu khác ghi lại việc người Do Thái bị trục xuất khỏi Wildeshausen vào khoảng năm 1348, trong thời kỳ Cái Chết Đen, mặc dù họ đã quay trở lại ngay sau đó, như đã đề cập trong các tài liệu khác Sự hiện diện của người Do Thái vẫn tiếp tục được ghi nhận, đặc biệt là ở thành phố chính Oldenburg mà còn ở các làng xung quanh, và tổng cộng đồng Do Thái trong khu vực công quốc vào năm 1900 đã tăng lên 1359 người, nhưng giảm xuống còn 1015 người vào năm 1925. Đến năm 1933, chỉ còn 279 người Do Thái ở lại khu vực, và hầu hết trong số họ đã bị tiêu diệt trong cuộc diệt chủng Holocaust, mặc dù một số người sống sót và trở về sau chiến tranh.
Giai đoạn sau cùng của chế độ quân chủ
Năm 1815, Công quốc này mua lại Thân vương quốc Birkenfeld và trở thành một đại công quốc. Năm 1871, Oldenburg gia nhập Đế quốc Đức, và năm 1918, trở thành một nhà nước tự do trong Cộng hòa Weimar.
Năm 1937 (với Đạo luật Đại Hamburg), Oldenburg mất các quận ngoại vi Eutin gần bờ biển Baltic và Birkenfeld ở tây nam nước Đức vào tay Phổ và giành được Thành phố Wilhelmshaven. Tuy nhiên, đây chỉ là thủ tục hình thức, vì chế độ Đức quốc Xã của Hitler đã thực tế bãi bỏ các nhà nước liên bang vào năm 1934. Đến đầu Thế chiến II năm 1939, do những thay đổi về lãnh thổ này, Oldenburg có diện tích 5.375 km2 (2.075 dặm vuông) và dân số 580.000 người.
Năm 1946, sau Thế chiến II, Oldenburg sáp nhập vào bang Hạ Sachsen mới thành lập và thành lập vùng hành chính (Verwaltungsbezirk) Oldenburg, về mặt lãnh thổ không thay đổi. Vùng và bang này đều trở thành một phần của Tây Đức vào năm 1949. Vùng hành chính này bị bãi bỏ vào năm 1978 và sáp nhập với các tỉnh lân cận (Regierungsbezirke) thành vùng mới Weser-Ems, vùng này đã bị giải thể vào năm 2004.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Công quốc Oldenburg** (tiếng Đức: _Herzogtum Oldenburg_) là một nhà nước lịch sử toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức ngày nay. Tên của nó được đặt theo thị trấn Oldenburg, đồng thời cũng là
**Đại Công quốc Oldenburg** (, còn được gọi là **Holstein-Oldenburg**) là một đại công quốc trong Liên minh Đức, Liên bang Bắc Đức và Đế quốc Đức bao gồm ba lãnh thổ tách biệt rộng
**Đại công quốc** (, ) là quốc gia do một đại công tước hoặc nữ đại công tước đứng đầu. Có một số đại công quốc tồn tại ở châu Âu trong khoảng thời gian
**Công quốc Sachsen-Lauenburg** (), được gọi là **Niedersachsen** (_Hạ Sachsen_) từ giữa thế kỷ XIV và XVII, là một Công quốc reichsfrei tồn tại 1296–1803 và 1814–1876 ở khu vực cực Đông Nam hiện nay
thumb|Chân dung Công tước và Công tước phu nhân xứ [[Scania năm 1905]] **Công quốc** (, , ), hay **lãnh địa công tước** (), là lãnh thổ quốc gia có chủ quyền do một công
**Peter II** (tiếng Đức: _Nikolaus Friedrich Peter_) (8 tháng 7 năm 1827 – 13 tháng 6 năm 1900) là Đại công tước trị vì của Oldenburg từ năm 1853 đến năm 1900. Ông tuyên bố
thumb|Quốc huy của các nhà nước trong Đế chế Đức (5 hàng trên) và huy hiệu của các tỉnh trong [[Vương quốc Phổ (2 hàng dưới), năm 1900]] thumb|Bản đồ các Nhà nước cấu thành
thumb|upright=0.7|Quốc huy của Thân vương quốc Birkenfeld **Thân vương quốc Birkenfeld** (tiếng Đức: _Fürstentum Birkenfeld_), được biết đến sau năm 1919 với tên gọi **Vùng Birkenfeld** (tiếng Đức: _Landesteil Birkenfeld_), là một vùng đất tách
**SMS _Oldenburg**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
thumb|Huy hiệu của [[Eugène de Beauharnais Công tước xứ Leuchtenberg]] **Công tước xứ Leuchtenberg** (tiếng Đức: _Herzog von Leuchtenberg_; tiếng Pháp: _Duc de Leuchtenberg_; tiếng Nga: _Герцог Лейхтенбергский_) là một tước hiệu được vua của
**Bá quốc Hessen-Kassel** (tiếng Đức: _Landgrafschaft Hessen-Kassel_; tiếng Anh: _Landgraviate of Hesse-Kassel_) được đánh vần là **Hesse-Cassel** trong suốt thời gian tồn tại của nó, là một nhà nước trong Đế chế La Mã Thần
thumb|Cuộc gặp gỡ của hai vị hoàng đế trong một cái lều dựng trên một chiếc bè ở giữa sông Neman. **Hiệp ước Tilsit** (tiếng Pháp: _Traités de Tilsit_, tiếng Đức: _Friede von Tilsit_, tiếng
**Công tước xứ Cumberland** () là một danh hiệu quý tộc được trao cho các thành viên cấp dưới của hoàng gia Anh, được đặt theo tên của hạt lịch sử Cumberland. ## Lịch sử
thumb|[[Xu bạc: 2 rigsdaler Đan Mạch kỷ niệm Nhà Glücksburg lên thay Nhà Oldenburg trị vì Đan Mạch, mặt trước xu là chân dung cựu vương Frederik VII và mặt sau là chân dung tân
**Peter Friedrich Ludwig „Louis“ von Weltzien** (1 tháng 4 năm 1815 tại Bockhorn (Friesland) – 16 tháng 10 năm 1870 tại Wiesbaden) là một sĩ quan Đức, đã được phong đến cấp Trung tướng trong
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
thumb|Bản đồ [[Đế chế La Mã Thần thánh năm 1789]] thumb|[[Bang liên Đức sau năm 1815, kết quả của hòa giải Đức trong Chiến tranh Napoléon]] **Hòa giải Đức** (; ) là quá trình tái
:_Lục quân Đế quốc Đức được đổi hướng đến đây. Để tìm hiểu các nghĩa khác, xem bài Lục quân Đế quốc La Mã Thần thánh và Lục quân Áo và Hungary trong Chiến tranh
thumb|Mạng lưới đường cao tốc ở châu Âu từ tháng 12 năm 2012. **Mạng lưới Đường bộ Quốc tế châu Âu** là một hệ thống đánh số cho các tuyến đường giao thông ở châu
**Tỉnh Rhine** (tiếng Đức: _Rheinprovinz_), còn được gọi là **Rhenish thuộc Phổ** (Rheinpreußen) hoặc đồng nghĩa với Rhineland (Rheinland), là tỉnh cực Tây của Vương quốc Phổ và Nhà nước Phổ tự do, trong Đế
**Giáo phận vương quyền Münster** (tiếng Đức: _Fürstbistum Münster_, _Bistum Münster_ hoặc _Hochstift Münster_) là một Thân vương quốc giáo hội lớn trong Đế chế La Mã Thần thánh, nằm ở phía Bắc của bang
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
thumb|Phát âm tên trường đầy đủ theo tiếng Đức: _"Carl von Ossietzky Universität Oldenburg"_. **Đại học Carl von Ossietzky Oldenburg** () là một trường đại học tổng hợp, nằm ở thành phố Oldenburg, thuộc bang
**Niedersachsen** hay **Hạ Sachsen** (tiếng Anh: _Lower Saxony_) là một bang nằm trong vùng tây-bắc của nước Cộng hòa Liên bang Đức. Đây là bang có diện tích lớn thứ hai (sau bang Bayern) và
**Chế độ quân chủ của Đan Mạch** là một chế độ chính trị đang hiện hành theo Hiến pháp và có hệ thống tổ chức ở Vương quốc Đan Mạch. Lãnh thổ của Đan Mạch
**Ngựa Oldenburg** là một giống ngựa máu nóng (warmblood) có nguồn gốc từ góc phía tây bắc của Hạ Saxony, trước đây là Grand Duchy của Oldenburg. Giống ngựa này được lai tạo trên cơ
**Vương tộc Glücksburg** (tiếng Đan Mạch S_lesvig-Holsten-Sønderborg-Lyksborg_, cũng viết _Glücksborg_), Glücksburg là từ viết rút gọn của **Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg**, là tên của một nhánh gia đình thuộc Nhà Oldenburg, có nguồn gốc từ Đức, các thành
**Christian IX** (sinh ngày 8 tháng 4 năm 1818 – 29 tháng 1 năm 1906) là Vua của Vương quốc Đan Mạch từ năm 1863 cho đến khi ông qua đời vào năm 1906. Từ
**Robert August Valentin Albert Reinhold von Massow** (26 tháng 3 năm 1839 tại Gumbin – 16 tháng 12 năm 1927 tại Wiesbaden) là một Thượng tướng Kỵ binh Phổ, đồng thời là Chủ tịch Tòa
**Wilhelm I** (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Karl_; 27 tháng 9 năm 1781 – 25 tháng 6 năm 1864) là Vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời
Bá tước **Helmuth Karl Bernhard _Graf_ von Moltke** (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông
**Frankfurt** là một thành bang lớn của Đế chế La Mã Thần thánh, là nơi diễn ra các cuộc bầu cử đế quốc từ năm 885 và là thành phố tổ chức Lễ đăng quang
**Saarland** là một tiểu bang ở miền tây-nam của nước Cộng hòa Liên bang Đức có biên giới về phía bắc và phía đông với bang Rheinland-Pfalz cũng như về phía nam với Pháp (giáp
nhỏ|upright=1.2|Der Deutsche Zollverein 1834–1919
Xanh dương = lúc mới thành lập
Xanh lục = Mở rộng cho tới 1866
Vàng = Mở rộng sau 1866
Đỏ = Biên giới Deutscher Bund 1828
Hồng = Thay
**Karl Freiherr von Plettenberg** (18 tháng 12 năm 1852 tại Neuhaus – 10 tháng 2 năm 1938 tại Bückeburg) là một sĩ quan quân đội Phổ, và sau này là Thượng tướng Bộ binh trong
**Friedrich Franz II** (1823-1883) là một quý tộc và tướng lĩnh của quân đội Phổ. Ông cũng là Đại Công tước của Mecklenburg-Schwerin từ ngày 7 tháng 3 năm 1842 cho tới khi từ trần
**Friederike xứ Baden** (tên đầy đủ: _Friederike Dorothea Wilhelmine_; 12 tháng 3 năm 1781 – 25 tháng 9 năm 1826) là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1797 đến 1809 với tư cách là phối
**Hans-Jörg Butt** (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1974 ở Oldenburg) là một thủ môn bóng đá đã giải nghệ. Được biết tới với việc thực hiện những quả phạt đền (anh đã ghi 26
:''Bài này viết về bang Schleswig-Holstein của nước Cộng hòa Liên bang Đức. Xem các nghĩa khác tại Schleswig-Holstein (định hướng) Cổng [[Holstentor ở Lübeck là một biểu tượng của Schleswig-Holstein và là một trong
thumb|Xu bạc: 2 rigsdaler kỷ niệm, chỉ đúc 101.000 xu - Kỷ niệm **Frederik VII** băng hà và vua [[Christian IX của Đan Mạch|Christian IX lên kế vị]] **Frederick VII** (_Frederik Carl Christian_) (6 tháng
**Frederik V của Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch và tiếng Na Uy: _Frederik V_; 31 tháng 3 năm 1723 – 14 tháng 1 năm 1766) là Quốc vương Đan Mạch và Na Uy và là
thumb|Vương thất Đan Mạch tại sinh nhật lần thứ 70 của [[Margrethe II của Đan Mạch|Nữ vương Margrethe II (nay Thái thượng vương Margrethe), ngày 16 tháng 4 năm 2010. _Từ trái sang: (hàng trước)_
**Christian III** (12 tháng 8 năm 1503 - 1 tháng 1 năm 1559) là vua của Đan Mạch từ năm 1534 cho đến khi ông qua đời và là vua Na Uy từ năm 1537
**Rudolf von Laban** hay **Rudolph von Laban** (; 15 tháng 12 năm 1879 – 1 tháng 7 năm 1958) là nghệ sĩ múa, biên đạo múa và nhà lý luận vũ đạo người Áo-Hung, Đức
thumb|[[Harald V của Na Uy|Vua Harald V và Hoàng hậu Sonja]] Danh hiệu **Quốc vương Na Uy** bắt đầu từ năm 872, đánh dấu bằng trận Hafrsfjord mà Harald đánh bại các nước, thống nhất
**Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại** (tiếng Anh: **Museum of Modern Art**, viết tắt là **MoMA**) là một bảo tàng nghệ thuật tại Midtown Manhattan, Thành phố New York, nằm trên 53rd Street, giữa Fifth
**Triều đại Romanov** (, ) là vương triều thứ hai và cũng là Vương triều cuối cùng trong lịch sử nước Nga, trị vì từ năm 1613 cho đến khi cuộc Cách mạng Tháng Hai
**Frederick VIII** (Christian Frederik Vilhelm Carl) (ngày 3 tháng 6 năm 1843 - ngày 14 tháng 5 năm 1912) là vua của Vương quốc Đan Mạch trong giai đoạn 1906-1912. ## Sinh thành Frederick sinh
**Eitel Friedrich của Phổ** (tên đầy đủ: _Wilhelm Eitel Friedrich Christian Karl_;7 tháng 7 năm 1883 – 8 tháng 12 năm 1942) là con trai thứ hai của Hoàng đế Wilhelm II của Đức với
**Hy Lạp**, quốc hiệu là **Cộng hòa Hy Lạp**, là một quốc gia nằm ở phía nam bán đảo Balkan, giáp với Albania, Bắc Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ và biển