✨Đại Công quốc Oldenburg

Đại Công quốc Oldenburg

Đại Công quốc Oldenburg (, còn được gọi là Holstein-Oldenburg) là một đại công quốc trong Liên minh Đức, Liên bang Bắc Đức và Đế quốc Đức bao gồm ba lãnh thổ tách biệt rộng lớn: Oldenburg, Eutin và Birkenfeld. Nó xếp thứ mười trong số các bang của Đức và có một phiếu bầu trong Thượng viện và ba thành viên trong Reichstag.

Gia tộc quân chủ của nó, Vương tộc Oldenburg, cũng đã từng giữ các ngôi vị cai trị ở Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Hy Lạp và Nga. Những người thừa kế thuộc dòng thứ của nhánh Hy Lạp, thông qua Philip, Vương tế Anh, được xếp vào hàng kế vị ngai vàng của Vương quốc Anh và các vương quốc Khối thịnh vượng chung khác sau Nữ hoàng Elizabeth II.

Như các vương tộc Đức khác, nhánh cai trị Oldenburg giữ các tước vị Công tước (sau thành Đại công tước), là nhánh Vương tộc Holstein-Oldenburg với tất cả các nhánh dòng thứ của mình.

Lịch sử

Bá tước đầu tiên được biết đến của Oldenburg là Elimar I (chết năm 1108). Hậu duệ của Elimar thường được ghi nhận như các lãnh chúa chư hầu, mặc dù đôi khi là kẻ nổi loạn, của các công tước xứ Sachsen; nhưng họ đã có được phẩm tước vương hầu khi hoàng đế Frederick I bãi bỏ công quốc Saxon vào năm 1180. Vào thời điểm này, địa hạt Delmenhorst là một phần của bá quốc Oldenburg, nhưng sau đó nó đã được tách ra thành một bá quốc chưa hầu trong một số trường hợp để tạo thành vây cánh ủng hộ cho các dòng thứ của gia tộc. Các trường hợp nhhư vậy đã diễn ra từ năm 1262 đến 1447, giữa 1463 và 1547, và giữa 1577 và 1617.

Trong đầu thế kỷ 13, các bá tước đã tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh với các vương công Frisia độc lập hoặc bán độc lập ở phía bắc và phía tây của bá quốc, dẫn đến việc lãnh thổ Oldenburg được mở rộng dần dần. Thành phố Bremen tự do của Bremen và giáo phận vương quyền Münster cũng thường xuyên xảy ra chiến tranh với các lãnh chúa Oldenburg.

Năm 1440, Christian kế vị cha mình là Dietrich, được gọi là __, với tư cách là Bá tước Oldenburg. Năm 1448, Christian được bầu làm vua Đan Mạch với tên hiệu Christian I, một phần dựa trên huyết thống của mẹ ông từ các vị vua Đan Mạch trước đó. Mặc dù cách xa biên giới Đan Mạch, Oldenburg bây giờ là một lãnh thổ hải ngoại của Đan Mạch. Quyền cai trị lãnh địa được giao cho anh em nhà vua, những người đã thiết lập một triều đại chuyên chế ngắn ngủi.

Năm 1450, Christian trở thành vua của Na Uy và năm 1457, vua của Thụy Điển. Năm 1460, ông thừa kế Công quốc Schleswig và Bá quốc Holstein, một sự kiện có tầm quan trọng cao đối với lịch sử tương lai của Oldenburg. Năm 1454, ông giao Oldenburg cho anh trai mình là Gerhard (khoảng 1430–99), một người có tính cách hung hãn, thường xuyên xung đột với các giám mục vương quyền Bremen và các lãnh địa láng giềng khác. Năm 1483, Gerhard buộc phải thoái vị để ủng hộ các con trai của mình, và ông qua đời khi đang hành hương ở Tây Ban Nha.

Đầu thế kỷ 16, Oldenburg một lần nữa được mở rộng với các lãnh địa của người Frisia. Thần học Luther được truyền bá vào lãnh địa bởi Anthony I (1505–73, r. from 1529), người cũng đã đàn áp các tu viện; tuy nhiên, ông vẫn trung thành với Hoàng đế Karl V trong Chiến tranh Schmalkaldic, và do đó, ông đã có thể mở rộng lãnh thổ của mình, giành được Delmenhorst vào năm 1547. Một trong những anh trai của Anthony, Christopher (khoảng 1506–1560), đã có được một số danh tiếng với tư cách một chiến binh.

Cháu trai của Anthony, Anthony Günther (1583–1667), người kế vị năm 1603, tự coi mình là vương công khôn ngoan nhất từng cai trị Oldenburg. Vốn lãnh địa Jever đã được mua lại trước khi ông trở thành bá tước, nhưng vào năm 1624, ông lại sát nhập thêm Kniphausen và Varel vào lãnh địa của mình, và vào năm 1647, Delmenhorst cuối cùng đã được sát nhập. Bằng sự trung lập của mình trong Chiến tranh Ba Mươi Năm và bằng cách tặng những con ngựa có giá trị cho Bá tước Tilly, Anthony Günther đã đảm bảo cho quyền cai trị của mình tránh bị công kích, điều mà gần như tất cả các lãnh địa khác của Đức đều bị. Ông cũng nhận được từ hoàng đế quyền thu thuế quan đối với các tàu thuyền đi dọc theo sông Weser, một khoản tài chính béo bở cho tài sản của ông. Năm 1607, ông đã cho thành lập học viện Phục hưng. Sau cái chết của Anthony Günther, Oldenburg lại nằm dưới quyền cai trị của Đan Mạch.

Năm 1773, Christian VII của Đan Mạch nhượng Oldenburg cho Ekaterina của Nga để đổi lấy phần thừa kế của con trai và người kế vị của bà, Pavel, lãnh địa Công quốc Holstein và những yêu sách của ông đối với quyền cai trị Công quốc Schleswig; Oldenburg được chuyển cho Frederick August, Giám quản Giáo phận vương quyền Lübeck, đại diện của một nhánh thứ của vương tộc, và vào năm 1777, địa hạt được nâng lên cấp công quốc. Con trai của công tước William, người kế vị cha mình vào năm 1785, là một người thiểu năng trí tuệ, và người anh họ của ông là Peter, Giám quản Giáo phận vương quyền Lübeck, làm nhiếp chính và cuối cùng, vào năm 1823, thừa kế ngôi vị, dẫn đến các lãnh địa Lübeck và Oldenburg hình thành liên minh cá nhân.

Theo Hòa giải Đức năm 1803, Oldenburg mua lại các lãnh địa giáo phận vương quyền Oldenburg Münsterland và Lübeck. Từ năm 1810 đến năm 1814, Oldenburg bị chiếm đóng bởi các cuộc chiến tranh của Napoléon. Việc sáp nhập lãnh địa này vào Đế chế Pháp năm 1810 là một trong những nguyên nhân dẫn đến rạn nứt ngoại giao giữa các đồng minh cũ là Pháp và Nga, và tranh chấp dẫn đến chiến tranh vào năm 1812, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của Napoléon.

Các cuộc cách mạng Châu Âu

Oldenburg không hoàn toàn thoát khỏi cuộc Cách mạng năm 1848 quét qua châu Âu, nhưng không có xáo trộn nghiêm trọng nào diễn ra. Năm 1849, Augustus đã ban hành một hiến pháp có tính cách rất tự do cho thần dân của mình. Cho đến thời điểm đó, lãnh địa của ông đã được cai trị theo tinh thần chuyên chế khai sáng, vốn đã được củng cố bởi sự thiếu vắng của một giai cấp quý tộc đặc quyền, sự độc lập tương đối của tầng lớp nông dân và tầm quan trọng của các thị trấn; do đó, những va chạm nhất định là không thể tránh khỏi. Năm 1852, một số sửa đổi đã được đưa vào hiến pháp, nhưng nó vẫn là một trong những sửa đổi tiến bộ nhất trong Liên minh Đức. Những thay đổi quan trọng đã được thực hiện trong hệ thống hành chính vào năm 1855 và một lần nữa vào năm 1868, và sự giám sát của chính phủ đối với các công việc của nhà thờ được ra lệnh theo luật năm 1863. Năm 1863, Peter II, người đã cai trị kể từ cái chết của cha ông Augustus năm 1853, có vẻ nghiêng về để đưa ra yêu sách đối với các công quốc Schleswig và Holstein đang khuyết vị, nhưng cuối cùng vào năm 1867, ông từ bỏ điều này để ủng hộ Vương quốc Phổ và nhận được một số khoản bồi thường nhẹ. Năm 1866, ông đứng về phía Phổ chống lại Đế quốc Áo trong Chiến tranh Bảy Tuần và gia nhập Liên bang Bắc Đức. Năm 1871, đại công quốc trở thành một bang của Đế quốc Đức.

Hình ảnh

Tập tin:Schloß Oldenburg (01).JPG|Lâu đài Oldenburg Tập tin:Eutin Schloss 1.jpg|Lâu đài Eutin Tập tin:Blason Grand-duché d'Oldenbourg (Grandes armes).svg|Gia huy của Đại công tước
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đại Công quốc Oldenburg** (, còn được gọi là **Holstein-Oldenburg**) là một đại công quốc trong Liên minh Đức, Liên bang Bắc Đức và Đế quốc Đức bao gồm ba lãnh thổ tách biệt rộng
**Công quốc Oldenburg** (tiếng Đức: _Herzogtum Oldenburg_) là một nhà nước lịch sử toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức ngày nay. Tên của nó được đặt theo thị trấn Oldenburg, đồng thời cũng là
**Đại công quốc** (, ) là quốc gia do một đại công tước hoặc nữ đại công tước đứng đầu. Có một số đại công quốc tồn tại ở châu Âu trong khoảng thời gian
thumb|Chân dung Công tước và Công tước phu nhân xứ [[Scania năm 1905]] **Công quốc** (, , ), hay **lãnh địa công tước** (), là lãnh thổ quốc gia có chủ quyền do một công
**Peter II** (tiếng Đức: _Nikolaus Friedrich Peter_) (8 tháng 7 năm 1827 – 13 tháng 6 năm 1900) là Đại công tước trị vì của Oldenburg từ năm 1853 đến năm 1900. Ông tuyên bố
**Công quốc Sachsen-Lauenburg** (), được gọi là **Niedersachsen** (_Hạ Sachsen_) từ giữa thế kỷ XIV và XVII, là một Công quốc reichsfrei tồn tại 1296–1803 và 1814–1876 ở khu vực cực Đông Nam hiện nay
thumb|Quốc huy của các nhà nước trong Đế chế Đức (5 hàng trên) và huy hiệu của các tỉnh trong [[Vương quốc Phổ (2 hàng dưới), năm 1900]] thumb|Bản đồ các Nhà nước cấu thành
thumb|upright=0.7|Quốc huy của Thân vương quốc Birkenfeld **Thân vương quốc Birkenfeld** (tiếng Đức: _Fürstentum Birkenfeld_), được biết đến sau năm 1919 với tên gọi **Vùng Birkenfeld** (tiếng Đức: _Landesteil Birkenfeld_), là một vùng đất tách
thumb|Huy hiệu của [[Eugène de Beauharnais Công tước xứ Leuchtenberg]] **Công tước xứ Leuchtenberg** (tiếng Đức: _Herzog von Leuchtenberg_; tiếng Pháp: _Duc de Leuchtenberg_; tiếng Nga: _Герцог Лейхтенбергский_) là một tước hiệu được vua của
**Bá quốc Hessen-Kassel** (tiếng Đức: _Landgrafschaft Hessen-Kassel_; tiếng Anh: _Landgraviate of Hesse-Kassel_) được đánh vần là **Hesse-Cassel** trong suốt thời gian tồn tại của nó, là một nhà nước trong Đế chế La Mã Thần
**SMS _Oldenburg**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
**Robert August Valentin Albert Reinhold von Massow** (26 tháng 3 năm 1839 tại Gumbin – 16 tháng 12 năm 1927 tại Wiesbaden) là một Thượng tướng Kỵ binh Phổ, đồng thời là Chủ tịch Tòa
**Peter Friedrich Ludwig „Louis“ von Weltzien** (1 tháng 4 năm 1815 tại Bockhorn (Friesland) – 16 tháng 10 năm 1870 tại Wiesbaden) là một sĩ quan Đức, đã được phong đến cấp Trung tướng trong
thumb|Bản đồ [[Đế chế La Mã Thần thánh năm 1789]] thumb|[[Bang liên Đức sau năm 1815, kết quả của hòa giải Đức trong Chiến tranh Napoléon]] **Hòa giải Đức** (; ) là quá trình tái
**Friederike xứ Baden** (tên đầy đủ: _Friederike Dorothea Wilhelmine_; 12 tháng 3 năm 1781 – 25 tháng 9 năm 1826) là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1797 đến 1809 với tư cách là phối
thumb|Cuộc gặp gỡ của hai vị hoàng đế trong một cái lều dựng trên một chiếc bè ở giữa sông Neman. **Hiệp ước Tilsit** (tiếng Pháp: _Traités de Tilsit_, tiếng Đức: _Friede von Tilsit_, tiếng
**Tỉnh Rhine** (tiếng Đức: _Rheinprovinz_), còn được gọi là **Rhenish thuộc Phổ** (Rheinpreußen) hoặc đồng nghĩa với Rhineland (Rheinland), là tỉnh cực Tây của Vương quốc Phổ và Nhà nước Phổ tự do, trong Đế
thumb|Phát âm tên trường đầy đủ theo tiếng Đức: _"Carl von Ossietzky Universität Oldenburg"_. **Đại học Carl von Ossietzky Oldenburg** () là một trường đại học tổng hợp, nằm ở thành phố Oldenburg, thuộc bang
**Niedersachsen** hay **Hạ Sachsen** (tiếng Anh: _Lower Saxony_) là một bang nằm trong vùng tây-bắc của nước Cộng hòa Liên bang Đức. Đây là bang có diện tích lớn thứ hai (sau bang Bayern) và
**Wilhelm I** (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Karl_; 27 tháng 9 năm 1781 – 25 tháng 6 năm 1864) là Vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời
thumb|[[Xu bạc: 2 rigsdaler Đan Mạch kỷ niệm Nhà Glücksburg lên thay Nhà Oldenburg trị vì Đan Mạch, mặt trước xu là chân dung cựu vương Frederik VII và mặt sau là chân dung tân
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
:_Lục quân Đế quốc Đức được đổi hướng đến đây. Để tìm hiểu các nghĩa khác, xem bài Lục quân Đế quốc La Mã Thần thánh và Lục quân Áo và Hungary trong Chiến tranh
**Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại** (tiếng Anh: **Museum of Modern Art**, viết tắt là **MoMA**) là một bảo tàng nghệ thuật tại Midtown Manhattan, Thành phố New York, nằm trên 53rd Street, giữa Fifth
**Frankfurt** là một thành bang lớn của Đế chế La Mã Thần thánh, là nơi diễn ra các cuộc bầu cử đế quốc từ năm 885 và là thành phố tổ chức Lễ đăng quang
**Philipp Christian Theodor Conrad von Schubert** (29 tháng 10 năm 1847 tại Wielkibor – 21 tháng 1 năm 1924 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung tướng,
**Friedrich Franz II** (1823-1883) là một quý tộc và tướng lĩnh của quân đội Phổ. Ông cũng là Đại Công tước của Mecklenburg-Schwerin từ ngày 7 tháng 3 năm 1842 cho tới khi từ trần
thumb|Mạng lưới đường cao tốc ở châu Âu từ tháng 12 năm 2012. **Mạng lưới Đường bộ Quốc tế châu Âu** là một hệ thống đánh số cho các tuyến đường giao thông ở châu
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Chế độ quân chủ của Đan Mạch** là một chế độ chính trị đang hiện hành theo Hiến pháp và có hệ thống tổ chức ở Vương quốc Đan Mạch. Lãnh thổ của Đan Mạch
**Christian IX** (sinh ngày 8 tháng 4 năm 1818 – 29 tháng 1 năm 1906) là Vua của Vương quốc Đan Mạch từ năm 1863 cho đến khi ông qua đời vào năm 1906. Từ
**Ngựa Oldenburg** là một giống ngựa máu nóng (warmblood) có nguồn gốc từ góc phía tây bắc của Hạ Saxony, trước đây là Grand Duchy của Oldenburg. Giống ngựa này được lai tạo trên cơ
Bá tước **Helmuth Karl Bernhard _Graf_ von Moltke** (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông
**Triều đại Romanov** (, ) là vương triều thứ hai và cũng là Vương triều cuối cùng trong lịch sử nước Nga, trị vì từ năm 1613 cho đến khi cuộc Cách mạng Tháng Hai
**Na Uy** (Bokmål: _Norge_; Nynorsk: _Noreg_), tên chính thức là **Vương quốc Na Uy**, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây
**Nhà Habsburg-Lothringen** (tiếng Đức: _Haus Habsburg-Lothringen_; tiếng Pháp: _Maison de Habsbourg-Lorraine_; tiếng Anh: _House of Habsburg-Lorraine_) là hoàng tộc đứng đầu Quân chủ Habsburg, thay thế cho Nhà Habsburg đã tuyệt tự dòng nam sau
[[Tập tin:Thaler.jpg|thumb|Bốn thaler và 1 double thaler (2 thaler), so với đồng 25 cent của Mỹ (ở dưới):Clockwise from top left: Công quốc Saxe-Altenburg 1616 (reverse), Công quốc Saxony 1592, Đại Công quốc Áo 1701
thumb|right|Ferdinand của Áo-Este (1754–1806) thumb|right|Francis IV của Áo-Este (1779–1846) thumb|right|Francis V của Áo-Este (1819–1875) thumb|right|Francis Ferdinand của Áo-Este (1863–1914) thumb|right|Robert của Áo-Este (1915–1996) **Đại công tước của Áo-Este** (; ), or **Habsburg-Este** (), là một
**_Ngài_** **James Paul McCartney** (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1942) là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất phim và thu âm người Anh, đồng giọng ca chính, đồng sáng tác và
**Gustav IV Adolf** hoặc _Gustav IV Adolph_ (1 tháng 11 năm 1778 – 7 tháng 2 năm 1837) là Quốc vương Thụy Điển trị vị từ năm 1792 cho đến khi bị lật đổ vào
**Karl Freiherr von Plettenberg** (18 tháng 12 năm 1852 tại Neuhaus – 10 tháng 2 năm 1938 tại Bückeburg) là một sĩ quan quân đội Phổ, và sau này là Thượng tướng Bộ binh trong
**Johann I Joseph**' (Tiếng Đức: _Johann Baptist Josef Adam Johann Nepomuk Aloys Franz de Paula_; 26 tháng 6 năm 1760 – 20 tháng 4 năm 1836) là Thân vương đời thứ 11 của xứ Liechtenstein,
**Eitel Friedrich của Phổ** (tên đầy đủ: _Wilhelm Eitel Friedrich Christian Karl_;7 tháng 7 năm 1883 – 8 tháng 12 năm 1942) là con trai thứ hai của Hoàng đế Wilhelm II của Đức với
**Nikolay Nikolayevich của Nga** (tiếng Nga: _Великий князь Николай Николаевич_; – 5 tháng 1 năm 1929), là thành viên Vương tộc Romanov và là Sĩ quan cấp tướng, tổng tư lệnh của Nga. Ông thường
**Lục Trưng Tường** (; (1871-1949) là một chính khách, nhà ngoại giao người Trung Quốc và tu sĩ Công giáo La Mã. Ông từng đảm nhiệm chức vụ tương đương Thủ tướng là Quốc vụ
:''Bài này viết về bang Schleswig-Holstein của nước Cộng hòa Liên bang Đức. Xem các nghĩa khác tại Schleswig-Holstein (định hướng) Cổng [[Holstentor ở Lübeck là một biểu tượng của Schleswig-Holstein và là một trong
thumb|Vương thất Đan Mạch tại sinh nhật lần thứ 70 của [[Margrethe II của Đan Mạch|Nữ vương Margrethe II (nay Thái thượng vương Margrethe), ngày 16 tháng 4 năm 2010. _Từ trái sang: (hàng trước)_
**Rudolf von Laban** hay **Rudolph von Laban** (; 15 tháng 12 năm 1879 – 1 tháng 7 năm 1958) là nghệ sĩ múa, biên đạo múa và nhà lý luận vũ đạo người Áo-Hung, Đức
thumb|[[Harald V của Na Uy|Vua Harald V và Hoàng hậu Sonja]] Danh hiệu **Quốc vương Na Uy** bắt đầu từ năm 872, đánh dấu bằng trận Hafrsfjord mà Harald đánh bại các nước, thống nhất
**Christian III** (12 tháng 8 năm 1503 - 1 tháng 1 năm 1559) là vua của Đan Mạch từ năm 1534 cho đến khi ông qua đời và là vua Na Uy từ năm 1537