✨Nikolay Nikolayevich Con của Nga

Nikolay Nikolayevich Con của Nga

Nikolay Nikolayevich của Nga (tiếng Nga: Великий князь Николай Николаевич; – 5 tháng 1 năm 1929), là thành viên Vương tộc Romanov và là Sĩ quan cấp tướng, tổng tư lệnh của Nga. Ông thường được gọi là Nikolay Nikolayevich Con (Николай Николаевич Младший), là con trai trưởng của Đại vương công Nikolay Nikolayevich Cha, đồng thời là cháu của Hoàng đế Nikolay I và là em họ của Nikolai II (Hoàng đế cuối cùng của Nga). Khi Nikolay II thoái vị năm 1917 và bị ám sát năm 1918. Vào 8 tháng 8 năm 1922, Nikolay Nikolayevich được những người Bạch quân đang kiểm soát lãnh thỗ ở Viễn Đông Nga công nhận là Hoàng đế của Nga trong thời gian ngắn và kết thúc khi vùng Priamurye rơi vào tay những người Bolshevik vào 25 tháng 10 năm 1922.

Thời thơ ấu

Sinh ngày 18 tháng 11 năm 1856 và được đặt tên là Nikolay Nikolayevich, tên của ông vốn là sự kết hợp từ tên của cha và ông nội Sa hoàng Nikolay I của Nga. Là con trai đầu lòng của Đại vương công Nikolai Nikolaevich và Nữ đại công tước Alexandra Petrovna của Oldenburg, cha ông là con thứ của Nikolay I vì vậy từ khi sinh ra Nikolay Nikolayevich không có cơ hội trong hàng kế vị ngai vàng Nga. Vào năm 1868 sự chào đời của người anh họ Nikolay Aleksandrovich (sau là Nikolay II của Nga) đứng thứ 2 trong hàng kế vị, mặt dù ông lớn hơn Nikolay Aleksandrovich đến 12 tuổi nhưng xét trên quan hệ họ hàng ông vẫn là em trai họ của Nikolay Aleksandrovich, do cả hai có cùng tên giống nhau, Nikolay Nikolayevich thường được gia đình gọi là Nikolasha.

Hôn nhân và Gia đình

Ngày 29 tháng 4 năm 1907, Nikolay Nikolayevich kết hôn với Công chúa Anastasia của Montenegro, con gái của vua Nicholas I của Montenegro, và em trai ông Đại vương công Pyotr Nikolayevich kết hôn với Vương nữ Milica người cũng là em gái của Công chúa Anastasia. Thông qua cuộc hôn nhân này cả hai không có con, và Công chúa Anastasia từng có hai con riêng trong cuộc hôn nhân thứ nhất trước khi ly hôn và kết hôn với Nikolay.

Sự nghiệp

Trưởng thành

trái|nhỏ|Nikolay Nikolayevich thời trẻ, 1870. Được đào tạo tại trường kỹ sư quân sự, Nikolay Nikolayevich thực hành nhiện vụ năm 1873. Trong Chiến tranh Nga–Thổ Nhĩ Kỳ (1877–1878) sự khéo léo của Nikolay khiến ông 2 lần trở thành trung tâm nổi bật trong cuộc chiến này. Là một người rất sùng đạo thường bày tỏ lòng thành kính trong các bữa ăn nhưng lại thích săn bắn. Nikolay nổi tiếng là một chỉ huy cứng rắn và được lòng quân đội của ông, những kinh nghiệm của ông có lẽ đến từ việc huấn luyện binh lính hơn là chỉ huy chiến tranh. Năm 1895, ông là tổng thanh tra kỵ binh và được duy trì hơn 10 năm, Nikolay đóng một vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng Nga năm 1905. Sự suy thoái của Vương triều Romanov khiến cho cách mạng lan rộng trên khắp cả nước, Vương triều Romanov đã tỏ ra bất lực, không có khả năng trị vì như trước nữa. Các trái|nhỏ|Nikolay vào năm 1890 phong trào Cách mạng liên tiếp nổ ra. Sa hoàng Nikolay II nhanh chóng thiết lặp chế độ độc tài quân sự để đảm bảo an ninh triều đại. Nikolay được anh họ tức Sa hoàng Nikolay II yêu cầu đảm nhận vai trò của một nhà độc tài quân sự, trước mặt Sa hoàng, Nikolay đã từ chối và rút thanh súng lục của mình định tự sát nếu Nikolay II vẫn tiếp tục buộc ông làm vậy. Bởi vậy có thể Nikolay là người duy nhất có thể giữ lòng trung thành của quân đội trong một cuộc đảo chính đang diễn ra đông đảo tại Nga như vậy.

Năm 1914, khi Nga bước vào Thế chiến thứ nhất, Nikolay trở thành tổng tư lệnh của Quân khu St.Petersburg, tại đây Nikolay từng ủng hộ những người có xuất thân khiêm tốn ứng tuyển vào các vị trí quan trọng trong quân đội do ông kiểm soát, trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật từ năm 1904 đến 1905, Nikolay không được bổ nhiệm vị trí chỉ huy chính thức và cũng chính trong cuộc chiến này Nga là đế quốc bại trận và mất nhiều diện tích đất, Nikolay đã đưa những thất bại trong cuộc chiến này trở thành những bài học quý giá vào những người lính của ông.

Chiến tranh thế giới thứ nhất

phải|nhỏ|Hoàng đế [[Nikolai II của Nga|Nikolay II (trái) và Đại vương công Nikolay (phải)]] Năm 1914, Nikolay II tuyên chiến với Đức bùng nổ chiến tranh thứ nhất ở Châu âu đưa Nga vào phe Đồng Minh tham chiến chống Đức, Áo-Hung. Là thành viên của nhà Romanov, Nikolay góp mặt trong Thế chiến thứ nhất nhưng việc lập kế hoạch và chuẩn bị chiến tranh không có sự góp mặt của ông, có lẽ vì mối quan hệ không tốt giữa ông với Nikolay II. Năm 1913, đông đảo Bộ trưởng Nga yêu cầu Sa hoàng bổ nhiệm Nikolay nắm giữ chức chỉ huy tối cao của Nga, yêu cầu này cuối cùng cũng được đáp ứng nhưng Nikolay chưa bao giờ chính thức chỉ huy quân đội trước đây, vì ông chỉ dành phần lớn thời gian của mình phục vụ tại ngũ, thực vậy dù có một ít về năng khiếu về quân sự chiến tranh, việc chưa bao giờ chỉ huy một cuộc chiến thực tiễn đã gây cho Nikolay nhiều sự khó khăn sau này. Nikolay chịu trách nhiệm về tất cả các lực lượng Nga chiến đấu chống lại Đức, Áo-Hungary và Thổ Nhĩ Kỳ. Nikolay quyết định rằng nỗ lực chính sẽ phải là ở Ba Lan, quốc gia này đang tấn công Đức như một nước nổi bật, Ba Lan có hai bên là Đông Phổ của Đức ở phía bắc và Galicia thuộc Áo-Hung ở phía nam. Với ý định quân đội sẽ tấn công chiếm Silesia của Đức nhưng sự phối hợp kém của hai quân đội Nga xâm lược đã dẫn đến thảm họa Tannenberg ở phía Bắc. Ở phía nam, quân đội do Nikolay dẫn dắt đã chinh phục phần lớn Galicia, cuộc di chuyển tiếp theo của họ tới Silesia đã bị chặn lại bởi sông Vistula và Trận Łódź. Nikolay cố gắng yêu cầu viện trợ pháo binh và đạn dược mà quân dội ông vô cùng thiếu thốn gây trì trệ kế hoạch. Và lực lượng do ông lãnh đạo đã thất bại gây nên hàng triệu người thương vong, Nikolay từng được nhìn nhận là nhà cầm quân tàn nhẫn và bù nhìn cũng từ sự kiện này. Các chỉ huy cùng thời với Nikolay cho rằng việc thất bại của ông đến từ việc Nikolay không biết cách liên kết các giai đoạn trong chiến tranh, cũng như việc lựa chọn người thích hợp và chiếm được sự ủng hộ của chính phủ Nga. trái|nhỏ|Đại vương công Nikolay vào năm 1915 Trong thời gian này, sự bất mãn của Sa hoàng Nikolai II với Tổng tư lệnh tối cao của mình không ngừng gia tăng, và Nikolay II đã đưa ra ý kiến ​​về việc cần thiết phải cách chức Nikolay Nikolayevich, với nguyên nhân thất bại của mình, Nikolay bị cách chức vào ngày 21 tháng 8 năm 1915.

Sau khi Nga rút lui khỏi Mặt trận phía động, chính quyền Nga đã tiến hành các cuộc tấn công chống lại người Đức ở các thành phố của Nga, tàn sát người Do Thái trong các thị trấn và làng mạc của họ và trục xuất 500.000 người Do Thái và 250.000 người Đức vào nội địa Nga. Vào ngày 11 tháng 6 năm 1915, một cuộc chiến tranh bắt đầu chống lại người Đức ở Petrograd, với hơn 500 nhà máy, cửa hàng và văn phòng bị cướp phá và bạo lực của đám đông nhắm vào người Đức. Giới lãnh đạo quân sự Nga coi người Hồi giáo, người Đức và người Ba Lan là những kẻ phản bội và gián điệp, trong khi người Do Thái bị coi là không đáng tin cậy về mặt chính trị.

Vùng Kavkaz

Sau khi bị sa thải Nikolay được giao cho vị trí tổng tư lệnh và phó vương ở Kavkaz. Tại đây, tướng Yudenich đang là nhân vật trung tâm trong quân đội Kavkaz. Không có bằng chứng về việc cho rằng trong khoảng thời gian tại Kavkaz, Nikolay là hình tượng của tội ác chiến tranh, ông từng thúc giục Sa hoàng Nikolay II thành lập các trường cao đẳng đào tạo giáo sĩ Hồi giáo để tránh việc họ đi du học. Nikolay đã cố gắng xây dựng một tuyến đường sắt từ Gruzia thuộc Nga đến các vùng lãnh thổ bị chinh phục nhằm mục đích cung cấp thêm nguồn cung cấp cho một cuộc tấn công mới vào năm 1917. Tuy nhiên, vào tháng 3 năm 1917, Nikolay II bị lật đổ bởi Cách mạng Tháng Hai và quân đội Nga bắt đầu dần tan rã.

Cuộc sống lưu vong

Năm 1917, Nikolay II thoái vị sau cuộc Cách mạng Tháng Hai. Nikolay và vợ đã trốn khỏi Nga vào tháng 4 năm 1919, trên chiến hạm HMS Marlborough của Hải quân Hoàng gia Anh do George V của Anh phái đến. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1922, Nikolay được tướng quân Mikhail Diterikhs của đội Bạch quân đang đóng tại Priamurye, Viễn Đông Nga tuyên bố là Sa hoàng của Nga, vì đang cư trú tại nước ngoài nên Nikolay đã không có mặt trực tiếp trong khoảng thời gian này. Hai tháng sau, vùng Priamurye rơi vào tay những người Bolshevik.

Cư trú tại Genova với tư cách là em của anh rể, Vittorio Emanuele III của Ý, Nikolay và vợ ông đã đến sống trong một lâu đài nhỏ ở Choigny, cách Paris 20 dặm. Nikolay được bảo vệ bởi cảnh sát Pháp cũng như một số ít thuộc hạ trung thành của Cossack. Nikolay trở thành hình tượng tiêu biểu của phong trào quân chủ Nga chống Liên Xô, sau khi đảm nhận vị trí chỉ huy tối cao của tất cả các lực lượng Nga lưu vong vào ngày 16 tháng 11 năm 1924, ưu tiên hàng đầu của Cơ quan mật vụ Liên Xô tại thời điểm này là bắt giam Nikolay nhưng kế hoạch cuối cùng đã không thành công.

Qua đời

Nikolay qua đời vào ngày 5 tháng 1 năm 1929 ở Riviera, Pháp có lẽ vì tuổi già của ông. Ông được chôn cất tại nhà thờ Thánh Michael the Archangel Church ở Cannes. Năm 2014, Nikolay Romanov và Dimitri Romanov hai người cháu còn sống của em trai ông Đại vương công Pyotr Nikolayevich yêu cầu di dời hài cốt của Nikolay. Hài cốt của ông với vợ được đặt ở Moscow tại Quần thể quân sự tưởng niệm Chiến tranh Thế giới thứ nhất vào tháng 5 năm 2015.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nikolay Nikolayevich của Nga** (tiếng Nga: _Великий князь Николай Николаевич_; – 5 tháng 1 năm 1929), là thành viên Vương tộc Romanov và là Sĩ quan cấp tướng, tổng tư lệnh của Nga. Ông thường
**Nikolay Nikolayevich của Nga** (; 8 tháng 8 năm 1831– 25 tháng 4 năm 1891), hay còn được biết với tên **Nikolay Nikolayevich Cha** (), là người con thứ 6 đồng thời là con trai
**Nikolay Nikolayevich Krestinsky** (; 13 tháng 10 năm 1883 – 15 tháng 3 năm 1938) là một nhà cách mạng Bolshevik Nga và chính trị gia Liên Xô. ## Tiểu sử ### Xuất thân Krestinsky
right|thumb|Urvantsev những năm 1920. **Nikolay Nikolayevich Urvantsev** (; sinh ngày 29 tháng 1 năm 1893 – mất ngày 20 tháng 2 năm 1985) là một nhà địa chất học và thám hiểm người Liên Xô.
**Yekaterina II Đại đế** (tiếng Nga: Екатерина II Великая; sinh ngày 2 tháng 5 năm 1729 – mất ngày 6 hoặc 17 tháng 11 năm 1796), đôi khi được viết là **Ekaterina II**, hay **Yekaterina
**Nikolai Nikolayevich Semyonov** () (15.4.1896 - 25.9.1986) là nhà vật lý và hóa học người Nga/Liên Xô, đã được trao Giải Nobel Hóa học năm 1956 cho công trình nghiên cứu của ông về cơ
nhỏ|300x300px| Xe tăng Lebedenko, hay còn gọi là Xe tăng Sa hoàng **Nikolay Lebedenko** () là một kỹ sư quân sự người Nga, chủ yếu được biết đến như một nhà phát triển chính của
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
Quân phục Thống chế Nga ([[1793)]] nhỏ|446x446px|Thống chế [[Aleksandr Vasilyevich Suvorov|A.B. Suvorov.]] **Thống chế** (, đôi khi được dịch là **Nguyên soái**) là cấp bậc quân sự cao nhất trong quân đội Nga từ đầu
Hoàng thân **Nikolai Dmitriyevich Golitsyn** (, 12 tháng 4 năm 1850 - 2 tháng 7 năm 1925) thuộc về tầng lớp quý tộc Nga và là thủ tướng cuối cùng của Đế quốc Nga. Ông
**Apollon Nikolayevich Maykov** (tiếng Nga: Аполлон Николаевич Майков; 4 tháng 6 năm 1821 – 20 tháng 3 năm 1897) là nhà thơ Nga, viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Sankt-Peterburg (1853). ##
Bá tước **Lev Nikolayevich Tolstoy** (tiếng Nga: Лев Николаевич Толстой; phiên âm: **Lép Ni-cô-lai-ê-vích Tôn-xtôi**, 28 tháng 8 năm 1828 – 20 tháng 11 năm 1910), là một tiểu thuyết gia người Nga, nhà triết
Một phần của bộ bản đồ gồm "những bản đồ mới và chính xác về châu Âu được sưu tập từ những nguồn đáng tin cậy nhất" do [[Emanuel Bowen xuất bản năm 1747 trong
**Tiền đề của Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga** - một tập hợp phức tạp các biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa trong và ngoài nước có mối
**Nikolay Nikolayevich Obolsky** (; sinh ngày 14 tháng 1 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Nga chơi ở vị trí tiền đạo cho F.K. Dynamo Moskva. ## Sự nghiệp câu lạc bộ
**Đại học Nông nghiệp Quốc gia Nga - Học viện Nông nghiệp Moskva mang tên K. A. Timiryazev** (tiếng Nga: _Российский государственный аграрный университет - Московская сельскохозяйственная академия имени К.А. Тимирязева_, viết tắt tiếng Nga:
**Dagmar của Đan Mạch** (26 tháng 11 năm 1847 – 13 tháng 10 năm 1928), sau khi lấy chồng thì sử dụng tên tiếng Nga **Mariya Feodorovna** (), là Hoàng hậu của Đế quốc Nga
**Sự can thiệp quân sự của nước ngoài vào Nga** () bao gồm một loạt các cuộc viễn chinh quân sự đa quốc gia bắt đầu từ năm 1918. Động lực ban đầu đằng sau
**Leonid Nikolayevich Punin** (; 1892-1916), có biệt danh là **Ataman Punin** (_Атаман Пунин_), người sáng lập và chỉ huy biệt đội đặc nhiệm thuộc Phương diện quân Bắc của Lục quân Đế quốc Nga trong
**Vladimir Nikolayevich Chelomey** hay **Chelomei** (; 30 tháng 6 năm 1914 - 8 tháng 12 năm 1984) là một nhà kỹ sư cơ khí, hàng không và kỹ sư tên lửa Liên Xô. Ông đã
Bản đồ vùng Bắc cực của Nga nhỏ|Vị trí của bán đảo Taymyr **Bán đảo Taymyr** () là một bán đảo tại Siberi tạo thành phần xa nhất về phía bắc của châu Á đại
**Chiến dịch tấn công Gorlice–Tarnów** là một chiến dịch quân sự lớn do khối Liên minh Trung tâm tổ chức nhằm vào quân đội Nga trên Mặt trận phía Đông của Chiến tranh thế giới
**Đại thanh trừng** là một loạt các biện pháp trấn áp tại Liên Xô kéo dài từ mùa thu năm 1936 cho tới đầu năm 1938. Sự kiện này liên quan tới một cuộc thanh
**Đại học Vật lý Kỹ thuật Moskva (MIPT,** tiếng Nga: Московский Физико-Технический институт), còn được biết đến với tên gọi **Phystech** - là trường đại học hàng đầu của Nga, chuyên đào tạo các chuyên
**Kliment Yefremovich Voroshilov** (tiếng Nga: Климе́нт Ефре́мович Вороши́лов; 1881 – 1969) là nhà cách mạng Nga, chỉ huy quân đội Liên Xô, lãnh đạo Đảng và nhà nước Liên Xô, người tham gia vào Nội
**Xô viết Đại biểu Công nhân và Binh sĩ Petrograd** (, _Petrogradskiy soviet rabochikh i soldatskikh deputatov_) còn được gọi là **Xô viết Petrograd** (, _Petrogradskiy soviet_, _Petrosovet_) là một cơ quan đại diện quyền
**Ủy ban An ninh Quốc gia** (, ), viết tắt **KGB** (, ; ) còn được gọi là **Ủy ban An ninh Nhà nước**, là lực lượng cảnh sát mật chính, và là cơ quan
Trường **Đại học Kỹ thuật Quốc gia Moskva Bauman** (_tiếng Nga_: Московский государственный технический университет им. Н. Э. Баумана) là trường đại học kỹ thuật số một nước Nga, nơi đây là cái nôi đào
[[Ivan Bilibin's illustration to the tale.]] Tem thư Liên Xô. **Truyện kể cuộc viễn chinh Igor. Igor, con trai Svyatoslavich, cháu nội Olgov** (; tiếng Nga cổ: _Слово о плъку Игоревѣ, Игоря сына Святъславля, внука
**Nguyên soái Liên bang Xô viết** (tiếng Nga: Маршал Советского Союза - _Marshal Sovietskogo Soyuza_), thường được gọi tắt là **Nguyên soái Liên Xô**, là quân hàm tướng lĩnh cao cấp bậc nhất của các
**Danh sách các nhà phát minh** được ghi nhận. ## Danh sách theo bảng chữ cái ### A * Vitaly Abalakov (1906–1986), Nga – các thiết bị cam, móng neo leo băng không răng ren
**Bộ Dân ủy Nội vụ** (, _Narodnyy komissariat vnutrennikh del_), viết tắt **NKVD** ( ) là một cơ quan hành pháp của Liên Xô, đơn vị trực tiếp thi hành quyền lực của Đảng Cộng
**Trục xuất người Triều Tiên ở Liên Xô** (, ) là việc cưỡng bức di cư gần 172.000 người Triều Tiên từ Viễn Đông Nga sang Trung Á vào năm 1937 theo chỉ thị của
**Bài học cuộc sống** () là một phim tâm lý xã hội do Yuly Rayzman đạo diễn, xuất phẩm ngày 26 tháng 09 năm 1955 tại Moskva. ## Lịch sử Thập niên 1950, trong bối
nhỏ|_Phiến đất sét Đại hồng thủy_ từ [[Sử thi Gilgamesh, lấy từ tàn tích thư viện Ashurbanipal, thế kỉ thứ 7 TCN, hiện đang trưng bày ở Bảo tàng Anh]] **Sử thi** hay **trường ca**
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: **Alphons Egli trở thành tổng thống Thụy Sĩ **Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha gia nhập Liên minh châu Âu *13 tháng 1: Nội
**_Bốn mùa_**, Op. 37a là tổ khúc mười hai bản nhạc dành cho đàn piano của Pyotr Ilyich Tchaikovsky. ## Nguồn gốc _The Seasons_ ra đời ngay sau bản concerto dành cho piano đầu tiên
**Mykola Oleksandrovich Shchors** (, – ngày 30 tháng 8 năm 1919) là một tư lệnh Hồng quân Liên Xô vang danh trong thời Nội Chiến Nga. ## Xuất thân **Nikolay Shchors** sinh ra ở làng
nhỏ|271x271px|Nguyên soái hàng không [[Aleksandr Nikolayevich Yefimov|Aleksandr Yefimov]] nhỏ|308x308px|Lễ phục của nguyên soái pháo binh Grigoriy Odinzov (Bảo tàng lịch sử quân sự St. Petersburg. **Nguyên soái binh chủng** (, _Marshal roda voysk_), đôi khi