✨Tiền đề Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga

Tiền đề Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga

Tiền đề của Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga - một tập hợp phức tạp các biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa trong và ngoài nước có mối liên hệ qua lại với nhau dẫn đến Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga. Một số điều kiện tiên quyết đã được hình thành ngay cả trước khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ trong cái gọi là Bản ghi nhớ Durnovo (Bản ghi nhớ do Pyotr Nikolayevich Durnovo gửi tới Sa hoàng Nicholas II dự đoán một cách chi tiết và chính xác những hậu quả thảm khốc mà Đế quốc Nga sẽ phải đối mặt nếu tham gia vào một cuộc chiến lớn ở châu Âu, đặc biệt là chiến tranh với Đức và Áo-Hung), tuyển tập triết học "Những cột mốc quan trọng" ("Vekhi"),...

Tình hình kinh tế trước cách mạng

Mức sống và bảo hiểm xã hội công nhân trước Cách mạng Tháng Hai

Mức lương và cuộc sống

Lương của công nhân rất thấp, không đủ để trang trải cho các nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Nhiều gia đình công nhân phải sống trong tình trạng nghèo đói, không đủ tiền mua thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác. Chỉ có một số nhà máy công nghiệp chiến lược quan trọng công nhân có mức lương đủ sống, một số nhà máy như nhà máy Obukhov ở Petrograd, nhà máy Putilov ở Petrograd, nhà máy Izhorsky ở Petrograd, nhà máy Zlatoust ở Chelyabinsk, nhà máy Russo-Baltic ở Riga. Công nhân phải sống trong chỗ ở chật chội, giá thuê cao và điều kiện vệ sinh kém.

Theo các nguồn khác nhau, từ tháng 2 đến tháng 3 năm 1917 - lương trung bình mỗi tháng công nhân ở các nhà máy trên lãnh thổ toàn Nga khoảng 112 rúp, các ngành luyện kim khoảng 163.6 rúp, tại các nhà máy khác, mức lương dao động từ 160 đến 400 rúp mỗi tháng (phụ thuộc vào hạng của công nhân). Tuy nhiên mức sinh hoạt tối thiểu được tính vào tháng 2 năm 1917 tại nhà máy Obukhov ở Petrograd (một nhà máy quốc phòng thuộc Bộ Hải quân):"Trong tháng 2 năm 1917, theo lệnh của Bộ Hải quân, một cuộc khảo sát về chi phí tối thiểu gia đình lao động đã được tiến hành. Phân tích khảo sát này xác định chi phí trung bình để nuôi sống một gia đình ba người là 169 rúp (mỗi tháng), trong đó có 29 rúp dành cho nhà ở, 42 rúp cho quần áo và giày dép, phần còn lại là 98 rúp dành cho thức ăn". Tại nhà máy Obukhov, mức lương thấp nhất hàng tháng (bậc thấp nhất) là 160 rúp, tất cả các công nhân khác nhận mức lương từ 225 đến 400 rúp mỗi tháng, với mức lương trung bình khoảng 300 rúp. Theo các nguồn tin tương tự, mức lương hàng tháng từ khi bắt đầu chiến tranh cho tới tháng 2 năm 1917 đã tăng lên: ở nhà máy Obukhov tăng hơn 4 lần (mức lương hàng tháng vào giữa năm 1914 là khoảng 71 rúp), tức là đã hoàn toàn bù đắp sự tăng giá; mức lương công nhân trung bình toàn Nga từ đầu chiến tranh chỉ tăng khoảng 2,5-3 lần (tức là không hoàn toàn bù đắp cho sự tăng giá). Các công nhân sống trong các ký túc xá và nhà tập thể gần nhà máy, những nơi này thường rất chật chội và đông đúc, với nhiều người phải chia sẻ một căn phòng nhỏ không có hệ thống sưởi, vệ sinh và nước sạch. Giá thuê một chỗ trong ký túc xá hoặc nhà tập thể thường dao động từ 5 đến 10 rúp mỗi tháng, với những công nhân may mắn có thể thuê một phòng riêng, giá thuê có thể lên tới 20 đến 30 rúp mỗi tháng. Đây là một khoản chi phí rất cao, đặc biệt khi mức lương trung bình công nhân trong các nhà máy không phải lúc nào cũng đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt cơ bản.

Trước khi chiến tranh nổ ra, giờ làm việc công nhân thường kéo dài từ 10 đến 12 giờ mỗi ngày, được nghỉ một ngày vào Chủ nhật, nhưng khi chiến tranh nổ ra nhu cầu sản xuất quân sự tăng cao khiến cho các nhà máy tăng thêm giờ làm việc và làm việc cả vào các ngày nghỉ. Công nhân phải làm việc với điều kiện lao động vất vả và nguy hiểm, nhiều nguy cơ về an toàn và sức khỏe, trong môi trường ô nhiễm, thiếu ánh sáng và thông gió.

Cũng được biết rằng thuế mà công nhân (và những người lao động thuê mướn nói chung) phải đóng ở Nga dưới thời Nikolai II (cho đến khi ông thoái vị vào tháng 3 năm 1917) là thấp nhất so với tất cả các nước phát triển, cả về giá trị tuyệt đối và (ở mức độ thấp hơn) tỷ lệ phần trăm so với lương: "Thuế trực tiếp (thuế thu nhập cá nhân) trên mỗi cư dân ở Nga là 3 rúp 11 kopek, còn thuế gián tiếp (thuế tiêu thụ) là 5 rúp 98 kopek. Ở Pháp, chúng tương ứng lần lượt là (quy đổi) 12,25 và 10 rúp; Ở Đức là 12,97 và 9,64 rúp; Ở Anh là 26,75 và 15,86 rúp". Tính theo tỷ lệ phần trăm thu nhập trên mỗi người dân, tổng số thuế là: ở Pháp là 6,5%, ở Đức là 7,7%, ở Anh là 13,7% (theo dữ liệu của S.N. Prokopyevich năm 1913). Tại Nga vào năm 1913 với mức lương trung bình công nhân là 300 rúp, tổng tỷ lệ thuế là dưới 4%, và vào năm 1916 với mức lương trung bình là 492 rúp chỉ chiếm dưới 2%. Tính theo tỷ lệ phần trăm thu nhập trên mỗi người dân ở Nga (theo S.N. Prokopyevich) là 7,2%, tương đương với Đức và Pháp và chỉ bẳng một nửa so với Anh. Do hệ thống thuế vụ và hành chính của Nga kém phát triển hơn dẫn đến việc khó khăn trong việc thu thuế và quản lý thuế, trong bối cảnh chiến tranh leo thang nhằm đáp ứng chi tiêu quốc phòng, Chính phủ Nga chủ yếu dựa vào vay mượn và các nguồn tài chính khác ngoài thuế để tài trợ cho chiến tranh.

Bảo hiểm xã hội

Bảo hiểm xã hội tại Nga gần như không tồn tại. Công nhân không có bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp hay hưu trí, dẫn đến sự bấp bênh và không an toàn. Các chương trình trợ cấp từ chính phủ hoặc từ chủ nhà máy rất hạn chế và không phổ biến. Chỉ một số ít công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp lớn mới có thể tiếp cận được các chế độ phúc lợi tối thiểu. Về mặt hình thức bảo hiểm xã hội cho công nhân tại Nga sau năm 1912 (và trước năm 1917) không tệ hơn so với các nước Châu Âu và Mỹ. Vào năm 1914, công nhân nhà máy quốc doanh đã được cấp quyền hưởng lương hưu sau khi đã làm việc trong thời gian dài (có thể hiểu là "vì đã phục vụ trung thành và có công"). Tuy nhiên, chỉ có 836 cựu công nhân trên toàn Nga nhận được phúc lợi này. Thực tế, đây là một biện pháp nhỏ lẻ nhằm giảm bớt cuộc đấu tranh của công nhân, gắn kết họ với nhà máy - bởi vì quy định "vì đã phục vụ trung thành và có công" với diễn giải là làm việc trong 35 năm mà không bị khiển trách hoặc phạt, điều này gần như là không thể. Hơn nữa, việc có thâm niên liên tục rất khó khăn do các đợt sa thải thường xuyên trong thời kỳ khủng hoảng. Công nhân trong các ngành công nghiệp riêng lẻ (khai thác mỏ) và tại một số nhà máy cụ thể đã được hưởng bảo hiểm xã hội nhà nước từ lâu trước năm 1912. Luật Bảo hiểm Xã hội năm 1912 cũng áp dụng cho công nhân tại các doanh nghiệp tư nhân (về bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh tật), và họ có thể nhận được bảo hiểm xã hội (trước cả năm 1912) thông qua các quỹ hưu trí (2/3 trong số đó do chủ doanh nghiệp đảm bảo), bao gồm cả lương hưu khi về hưu. Theo dữ liệu được công bố năm 1923 trong "Lưu trữ Lịch sử Lao động ở Nga", lương hưu của công nhân đường sắt thành phố Petrograd vào đầu năm 1917 có sự chênh lệch rất lớn - từ 300 đến 3000 rúp (hoặc hơn) mỗi năm (tức là từ 25 đến 250 rúp mỗi tháng), và năm 1917 chúng đã được tăng lên: mức tối thiểu tăng 75%, mức tối đa tăng 25%. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mức sống tối thiểu trước chiến tranh ở Petrograd là khoảng 25 rúp, việc giá cả tăng gần 4 lần có nghĩa là mức lương hưu tối thiểu thấp hơn 4 lần so với mức sống tối thiểu. Tại đó cũng đề cập rằng ("Lưu trữ Lịch sử Lao động ở Nga", tr. 135) các gia đình của công nhân được gọi nhập ngũ vẫn nhận được trợ cấp, tùy thuộc vào tình trạng gia đình: các gia đình có con - 100% trợ cấp, không con - từ 75 đến 50%. Lương hưu cho công nhân đường sắt thành phố Petrograd được chi trả từ quỹ hưu trí, nguồn kinh phí của quỹ này bao gồm một phần từ lệ phí của công nhân và nhân viên đường sắt. Ngay cả những cải thiện không đáng kể này trong cuộc sống của công nhân trước cách mạng cũng đã được họ giành được qua nhiều thập kỷ đấu tranh của công nhân, thông qua các cuộc đình công, bãi công và nổi dậy, bị chính quyền Nga hoàng đàn áp khốc liệt (bằng các hình phạt thân thể, các cuộc xử bắn hàng loạt không qua xét xử, các tòa án quân sự và đày ải đến nơi lao động khổ sai).

Ngày 17 tháng 10, một cuộc đình công tự phát quy mô lớn công nhân khu vực Vyborg của Petrograd bắt đầu. Họ tiến đến doanh trại nơi đóng quân binh lính thuộc Trung đoàn 181, và một phần binh lính đã gia nhập cùng công nhân (tuy nhiên, họ không có vũ khí). Những người nổi loạn bị cảnh sát và quân đội giải tán, 130 binh lính bị bắt. Tuy nhiên, cuộc đình công vẫn tiếp tục trong vài ngày và số người tham gia đình công đạt tới 75 nghìn người.

Vladimir Pavlovich Polevanov, Phó Thủ tướng Liên bang Nga - Chủ tịch Ủy ban Nhà nước về quản lý tài sản nhà nước từ 1994 đến 1995, khi nghiên cứu khả năng mua sắm theo mức lương trung bình người lao động ở Nga (năm 1913) và ở Liên Xô, cũng đi đến kết luận rằng mức năm 1913 chỉ được đạt lại vào cuối những năm 1950. Sau cuộc Nội chiến, mức tiêu thụ người dân đạt đỉnh vào cuối thời kỳ NEP (năm 1927), nhưng sau đó không ngừng giảm. Năm 1940, khả năng mua sắm theo mức lương trung bình ở Liên Xô thấp hơn 1,5 lần so với năm 1913, đạt mức tối thiểu tuyệt đối vào năm 1947 (thấp hơn 2,5 lần so với năm 1913), và chỉ đến những năm 1950 mới trở lại mức trước cách mạng. Năm 1928, Liên Xô áp dụng lương hưu tuổi già cho một số ngành công nghiệp, và năm 1932, lương hưu này được mở rộng cho tất cả công nhân và viên chức. Theo quy định về lương hưu, mức lương hưu tuổi già bằng một nửa mức lương trung bình hàng tháng của năm trước đó.

Trong thời kỳ Thế chiến thứ nhất, Nga hoàng không áp dụng hệ thống tem phiếu cho thực phẩm (ngoại trừ đường, từ tháng 8 năm 1916). Được biết, vào ngày 10 tháng 10 năm 1916, tại Hội nghị đặc biệt về vấn đề lương thực, một dự án áp dụng hệ thống tem phiếu đã được đề xuất, nhưng không được thông qua. Mặc dù vào thời điểm đó ở một số thành phố đã có tem phiếu riêng, nhưng việc bán thực phẩm qua đó chỉ ở mức độ nhỏ và chỉ là bổ sung cho thị trường tự do. Trong khi đó, ở tất cả các nước tham chiến khác, hệ thống tem phiếu cho thực phẩm là toàn diện (đặc biệt là tình hình lương thực ở Đức rất nghiêm trọng).

Lạm phát chiến tranh

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Nga phải đối mặt với những khó khăn kinh tế nghiêm trọng, do nhu cầu tài trợ cho các khoản chi tiêu quân sự khổng lồ. Chính phủ Sa Hoàng đã thực hiện một số biện pháp để bù đắp các khoản chi phí này, bao gồm tăng cường phát hành giấy bạc tín dụng và tăng nợ công thông qua các khoản vay trong và ngoài nước. Năm 1914, việc trao đổi tiền giấy sang vàng bị cấm, đánh dấu sự bắt đầu của việc cung cấp tài chính chiến tranh thông qua lạm phát.

Một trong những biện pháp tăng thu nhập của nhà nước là ban hành "luật cấm rượu", dẫn đến việc ngừng nguồn thu từ độc quyền rượu vodka. Để bù đắp nguồn thu này, chính phủ đã tăng thuế trực tiếp lên đất đai, bất động sản đô thị và công nghiệp.

Tuy nhiên, những biện pháp này đã dẫn đến lạm phát siêu tốc. Từ khi chiến tranh bắt đầu, khối lượng tiền tệ trong lưu thông đã tăng đáng kể. Theo ước tính của A. Guryev, đến mùa xuân năm 1917, lượng tiền giấy lưu thông đã tăng 100% ở Pháp, 200% ở Đức và 600% ở Nga. Nhà sử học Richard Pipes lưu ý rằng vào đầu năm 1917, giá cả ở Nga so với trước chiến tranh đã tăng trung bình gấp 3,98 lần. Bộ trưởng Tài chính Nga P. Bark tại Hội nghị Entente ở Petrograd vào ngày 25 tháng 1 năm 1917 đã thông báo rằng "giá cả ở Nga đã tăng lên gấp 4-5 lần".

Lạm phát đã vượt xa sự tăng trưởng của tiền lương. Theo dữ liệu của sở cảnh sát, trong hai năm trước đó, tiền lương trung bình đã tăng 100%, trong khi giá cả hàng hóa thiết yếu tăng 300%. Richard Pipes kết luận rằng vào đầu năm 1917, mức lương công nhân trung bình đã tăng gấp đôi, trong khi giá cả trung bình tăng gấp bốn lần.

Nhà nghiên cứu A. M. Markevich đưa ra dữ liệu cho thấy sự giảm sút tiền lương thực tế của công nhân. Tiền lương thực tế của công nhân tại Nhà máy Kim loại Moskva trong giai đoạn 1912/1913 - 1917 đã giảm từ 40,29 rúp mỗi tháng xuống còn 26,70 rúp mỗi tháng, trong khi tiền lương danh nghĩa tăng từ 40,29 rúp lên 206,92 rúp. Trung bình ở Moskva, tiền lương thực tế công nhân trong giai đoạn 1913-1917 giảm từ 27,1 rúp/tháng xuống còn 19,8 rúp/tháng (với mức tăng danh nghĩa từ 27,1 lên 153 rúp), và trung bình ở Nga tiền lương thực tế công nhân cũng giảm từ 22 xuống còn 16,6 rúp mỗi tháng với mức tăng danh nghĩa từ 22 lên 112 rúp.

Tác động chiến tranh đến thị trường lao động

Sự huy động hàng loạt do chiến tranh đã dẫn đến việc triệu tập 14,9 triệu người vào quân đội tính đến ngày 1 tháng 3 năm 1917. Điều này gây ra tình trạng thiếu hụt lao động ở các khu vực nông thôn và làm giảm diện tích gieo trồng khoảng 7,6%, chưa tính các vùng bị chiếm đóng. Nông nghiệp bắt đầu chuyển từ các loại cây trồng đòi hỏi nhiều lao động như cây gai dầu, củ cải đường và cây họ đậu sang các loại cây trồng ít lao động hơn như cây lanh và bông. Kết quả là, ở bảy tỉnh của vùng Đất Đen, 33% các hộ gia đình không còn nam lao động, giá thuê đất giảm từ 41% sản lượng thu hoạch năm 1914 xuống còn 15% vào năm 1916. Tiền công công nhân nông nghiệp tăng mạnh, ở tỉnh Tambov tăng 60-70%.

Tuy nhiên, một phần sự thiếu hụt lao động đã được bù đắp nhờ việc chuyển sang các loại cây trồng ít lao động hơn và việc sử dụng hàng loạt tù binh chiến tranh cho đồng áng. Năm 1915, chính phủ đã phân bổ đến 266 nghìn tù binh chiến tranh cho nông nghiệp, và năm 1916 con số này lên đến nửa triệu.

Ngày 4 tháng 3 năm 1916, Cục Tình báo Bộ Tổng Tham mưu Quân đội đã ban hành chỉ thị yêu cầu rằng tất cả các tù binh chiến tranh có khả năng lao động phải được phân bổ cho các công việc nông nghiệp và công việc khác. Tại tỉnh Yekaterinburg vào tháng 5 năm 1916, có 50.611 tù binh chiến tranh được sử dụng, trong đó 34.194 làm việc trong các nhà máy và xí nghiệp, 5.731 trong các công việc nhà nước, 5.060 trong nông nghiệp, 4.145 trong công việc đường sắt, 913 trong công việc thành phố và tỉnh, và 568 trong các công việc khác.

Đến ngày 1 tháng 9 năm 1915, có 295 nghìn tù binh chiến tranh làm việc trong nông nghiệp, và đến ngày 1 tháng 5 năm 1916, tổng cộng có 808.140 tù binh chiến tranh đã được huy động cho các công việc, trong đó có 460.935 người làm việc trong nông nghiệp.

Ngoài ra, có đến 250 nghìn người tị nạn cũng được huy động cho các công việc đồng áng.

Tác động chiến tranh đến tình hình lương thực

Trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ nhất, hệ thống phân phối thực phẩm bằng tem phiếu đã được áp dụng ở Nga, như được mô tả trong ghi chép của Stanislav Strumilin (lúc đó là trưởng phòng thống kê của Bộ Dân ủy Lao động và Hội đồng Trung ương Công đoàn toàn Nga) vào năm 1923. Tại Moskva, đường bắt đầu được phân phối bằng tem phiếu từ ngày 16 tháng 8 năm 1916, và từ tháng 3 năm 1917, bánh mì cũng được phân phối qua hệ thống này. Đến tháng 6 năm 1917, tem phiếu đã được áp dụng cho ngũ cốc, tháng 7 cho thịt, tháng 8 cho bơ sữa, tháng 9 cho trứng, tháng 10 cho dầu thực vật, và đến tháng 11 và tháng 12 cho bánh kẹo và trà. Tình hình tương tự cũng xảy ra ở Petrograd và các thành phố khác. Đến tháng 5 năm 1917, giá cả cố định cho các sản phẩm này chỉ thấp hơn giá thị trường khoảng 20%.

Sự huy động đã ảnh hưởng đến cả động vật nông nghiệp: 2.760.000 con ngựa đã được huy động, không làm thay đổi tổng số lượng ngựa trong cả nước. Năm 1912, Nga có 32,8 triệu con ngựa và đến năm 1916 là 33,5 triệu. Mặc dù nhu cầu quân đội rất lớn, số lượng bò chỉ giảm 5% trong thời gian chiến tranh, trong khi số lượng lợn lại tăng lên. Vụ mùa ngũ cốc năm 1916 đã tạo ra thặng dư 444 triệu pood (7,273 triệu tấn), và lượng dự trữ từ những năm trước lên đến 500 triệu pood. Tuy nhiên, những dự trữ này nằm ở các khu vực xa xôi và khó vận chuyển ra ngoài do thiếu các phương tiện vận chuyển trên đường sắt.

Nhà nghiên cứu Sergey Aleksandrovich Nefedov đã đánh giá cân bằng lương thực trong các năm 1914-1917 như sau:

Do đó, sản lượng lương thực có giảm, nhưng không đủ nghiêm trọng để dẫn đến nạn đói. Vụ mùa năm 1915 là vụ mùa lớn nhất trong thập kỷ, và mức tiêu thụ bình quân đầu người ở hậu phương vào năm 1915 thậm chí còn vượt qua mức trước chiến tranh. Một phần của sự sụt giảm sản xuất được bù đắp bằng lệnh cấm sản xuất rượu và xuất khẩu ngũ cốc.

Sự giảm diện tích gieo trồng ảnh hưởng không đều đến các loại hình trang trại khác nhau. Các cộng đồng nông dân giảm diện tích gieo trồng không đáng kể, trong khi các trang trại tư nhân của các địa chủ và thương nhân giàu có giảm trung bình một nửa. Điều này dẫn đến việc mặc dù sản lượng chung chỉ giảm nhẹ nhưng khả năng hàng hóa sản xuất lại giảm mạnh hơn. Sự suy giảm trong việc sử dụng phân bón, ngừng nhập khẩu và dừng các nhà máy sản xuất trong nước đã làm giảm năng suất trung bình từ 50 pood/dessiatin năm 1913 xuống còn 45 pood năm 1917.

Nhà kinh tế Nikolay Dmitrievich Kondratiev nhận định rằng trong thời gian chiến tranh, Nga có đủ lương thực. G. I. Shigalin đã mô tả tình hình cung cấp lương thực trong những năm chiến tranh như sau: Năm đầu tiên của chiến tranh, việc thu mua diễn ra tương đối thuận lợi; năm thứ hai, mặc dù vụ mùa tốt, ngũ cốc ít được đưa ra thị trường và việc trưng thu trở nên phổ biến. Năm thứ ba của chiến tranh là khó khăn nhất, sản xuất nông nghiệp giảm, trao đổi giữa thành phố và nông thôn bị gián đoạn, lượng tiền phát hành tăng lên và giá lương thực tăng. Vào tháng 12 năm 1916, chính phủ đã ban hành quy định cung cấp ngũ cốc bắt buộc của nhà nước với giá cố định, nhưng biện pháp này không mang lại kết quả đáng kể.

Nhà nghiên cứu S.A. Nefyodov ước tính chi tiết hơn trữ lượng "ngũ cốc chính" (được tính là dự trữ trong kho) tính bằng triệu pood vào năm 1916 như sau:





















Như vậy, mặc dù lúa mì vẫn có sẵn trên toàn quốc, nhưng nó không được đưa vào kho mà bị giữ lại ở các làng quê. Lượng dự trữ 65 triệu puds từ năm 1915 không những không được bổ sung mà còn giảm mạnh. Trong bối cảnh lạm phát chiến tranh, các nhà sản xuất nông nghiệp bắt đầu giữ lại lúa mì với số lượng lớn, chờ đợi giá sẽ còn tăng cao hơn nữa; vào mùa thu năm 1916, xuất hiện tin đồn về việc giá lúa mì sẽ tăng gấp mười lần. Tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn do vụ mùa năm 1916 ít hơn vụ mùa năm 1915.

M. T. Florinsky nhận xét rằng Nga không thiếu tài nguyên, mà do không thể sử dụng hết chúng. Sự thiếu hụt hàng hóa công nghiệp và sự không hiệu quả của hệ thống đường sắt đã gây ra sự khốn khổ cho dân cư thành thị trong nửa sau của chiến tranh:

Phân phối lương thực

Vào cuối năm 1916, chính phủ Nga bắt đầu chuyển sang chế độ phân phối lương thực theo giá cố định nhằm cải thiện việc cung cấp cho các thành phố và quân đội. Dự kiến mua tới 772 triệu pood bánh mì để cung cấp cho quân đội, các nhà máy quân sự và các thành phố lớn. Chương trình này bắt đầu vào tháng 12 năm 1916 nhưng đã thất bại vào tháng 7 năm 1917 dưới thời Chính phủ Lâm thời: chỉ thu được 170 triệu pood.

Nguyên nhân của sự thất bại bao gồm sự kháng cự của nông dân, những người cho rằng giá cố định được thiết lập quá thấp, và khó khăn trong việc phân phối lương thực tại địa phương. Tháng 10 năm 1916, kế hoạch thu mua đạt 35%, tháng 11 — 38%, tháng 12 — 52%, và tháng 1 và tháng 2 năm 1917 — 20% và 30% tương ứng.

Chính phủ hoàng gia thậm chí đã cố gắng tịch thu lương thực từ các "kho dự trữ" của làng, nơi các cộng đồng nông dân lưu giữ dự trữ để đề phòng nạn đói, nhưng biện pháp này gây ra các cuộc đụng độ với cảnh sát và bị hủy bỏ. Khẩu phần bánh mì cho binh sĩ ở mặt trận đã giảm từ ba pound mỗi ngày xuống còn hai, ở khu vực tiền tuyến — xuống còn 1,5 pound, và nguồn cung cấp yến mạch cho kỵ binh và pháo binh ngựa đã giảm mạnh. Vào cuối năm 1916 — đầu năm 1917, quân đội thường xuyên không nhận đủ lương thực.

Khó khăn trong việc phân phối lương thực tại địa phương cũng rất đáng kể. Vào tháng 2 năm 1917, Mikhail Rodzianko đã báo cáo với Nicholas II về sự thất bại của việc phân phối, chỉ ra rằng từ 772 triệu pood dự kiến, chỉ một phần nhỏ được phân phối thực tế. Trong phiên họp cuối cùng của Duma vào ngày 25 tháng 2 năm 1917, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Rittikh đề nghị giao việc phân phối tại địa phương cho các cơ quan tự quản zemstvo (cơ quan tự quản địa phương ở các tỉnh và huyện, có trách nhiệm trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, đường xá, và phúc lợi công cộng) tương ứng.

Việc thiết lập giá cố định đã gặp phải sự phản đối từ nông dân. Vào ngày 18 tháng 2 (3 tháng 3) năm 1917, đại biểu Duma Vladimir Shulgin đã bình luận chỉ trích tình hình, cho rằng giá cố định là một biện pháp có hại, gây ra sự bất mãn trong làng xã.

Các thế lực chiến tranh khác

Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất, tất cả các cường quốc tham chiến đều gặp khó khăn trong nông nghiệp và cung cấp lương thực ở mức độ khác nhau. Ở Đức, diện tích gieo trồng đã giảm 16% vào năm 1917, ở Pháp giảm 30%, trong khi ở Anh lại tăng 12,8%. Lev Trotsky trong cuốn tự truyện của mình "Đời tôi" đã đề cập rằng ông kinh ngạc trước việc Thụy Điển áp dụng thẻ bánh mì vào mùa xuân năm 1917, điều mà ông chưa từng gặp trước đó.

Nền kinh tế Đức đặc biệt chịu thiệt hại do cuộc phong tỏa hàng hải của Anh. Ngay từ năm 1914-1915, Đức đã áp dụng chế độ phân phối lương thực và thiết lập độc quyền nhà nước về bánh mì và khoai tây. Ở Đức, các loại thực phẩm thay thế (ersatz, thế phẩm) đã trở nên phổ biến. Đến cuối chiến tranh, có 511 loại cà phê ersatz, 337 loại xúc xích ersatz và tổng cộng khoảng 10.625 loại thế phẩm. Mùa đông năm 1916/1917 đã đi vào lịch sử Đức với tên gọi "mùa đông củ cải", khi các nhà tuyên truyền bắt đầu quảng bá thịt quạ rán như một sự thay thế cho thịt gà.

Ở Pháp, sự can thiệp của nhà nước vào việc phân phối lương thực bắt đầu từ năm 1915, và vào năm 1917, chính phủ đã thiết lập độc quyền nhà nước về bánh mì, áp dụng thẻ đường và hạn chế tiêu thụ thịt xuống còn ba ngày mỗi tuần.

Tình hình ở Anh tương đối tốt hơn, vì nước này có thể dựa vào nguồn tài nguyên từ các thuộc địa và Hoa Kỳ. Các đợt cung cấp lương thực từ Hoa Kỳ, Canada và Úc đã giúp Anh tránh được khủng hoảng, mặc dù phải đối mặt với cuộc chiến dữ dội trên các tuyến đường biển với Đức, nước đang cố gắng cắt đứt các tuyến giao thông của Anh. Để bù đắp sự thiếu hụt lao động, chính phủ Anh đã cho phép sử dụng phụ nữ và binh lính hậu cần làm công việc trên đồng ruộng.

Đường sắt

Thống kê đường sắt vào cuối thế kỷ 19, theo bách khoa toàn thư Brockhaus và Euphron:

Vào đầu thế kỷ XX, Đế quốc Nga sở hữu mạng lưới đường sắt có quy mô tương đương với các cường quốc châu Âu hàng đầu về tổng số chiều dài. Tuy nhiên, sự phân bổ đường sắt rất không đồng đều: 87% tổng chiều dài đường sắt nằm ở phần châu Âu của Nga.

Về chỉ số tương ứng, có một sự chênh lệch đáng kể. Mức độ phát triển mạng lưới đường sắt của Nga theo các chỉ số tương ứng chỉ tương đương với Ấn Độ thuộc Anh, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Serbia và Algeria, và tụt hậu đáng kể so với Đức, Anh và Ireland, Pháp. Mỹ vượt trội hơn cả Nga và toàn châu Âu: vào đầu thế kỷ XX, Mỹ sở hữu một nửa tổng số đường sắt trên thế giới. Sự chênh lệch với phần châu Âu của Nga về số liệu trên 1 nghìn m2 là gấp bảy lần, và về chiều dài đường sắt trên mỗi triệu dân là gấp mười ba lần.

Tuy nhiên, nhờ vào sự bùng nổ xây dựng đường sắt, Nga đã tăng gấp đôi mạng lưới đường sắt của mình vào các năm 1914-1917, đứng thứ hai trên thế giới về tổng chiều dài và thu hẹp khoảng cách với Mỹ từ bảy lần xuống còn năm lần, và về chỉ số tương đối trên đầu người từ mười ba lần xuống còn tám lần.

Vào đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Nga có mạng lưới đường sắt tổng chiều dài 81 nghìn km (năm 1917). Năm 1914, Nga có 21.857 đầu máy, 567.274 toa hàng và 20.868 toa hành khách. Tuy nhiên, tổng chiều dài đường sắt của Nga vẫn thua kém Mỹ năm lần. Về chiều dài đường sắt trên mỗi 100 km², chỉ số của Nga tương đương với chỉ số trung bình của Đế quốc Anh và Pháp (cùng với các thuộc địa), nhưng thua kém các nước Tây Âu từ 20 đến 50 lần. Về chiều dài đường sắt trên mỗi 10 nghìn dân, Nga thua Mỹ tám lần. Đến năm 1914, đường sắt hai làn ở châu Âu và Mỹ chiếm từ 40 đến 60%, trong khi ở Đế quốc Nga chỉ chiếm 27%.

Khi chiến tranh bắt đầu, khối lượng vận chuyển quân sự tăng mạnh, khiến việc cung cấp cho các thành phố lớn trở nên khó khăn hơn. Trong các năm 1914-1916, cường độ vận chuyển tăng thêm một phần ba. Mùa đông 1916/1917, có tới 5.700 toa tàu bị mắc kẹt trên đường do tuyết rơi. Đại sứ Pháp Maurice Paléologue trong hồi ký của mình ghi nhận rằng vào tháng 2 năm 1917, lạnh giá khắc nghiệt đã làm hỏng hơn 1.200 đầu máy, và thiếu ống dẫn thay thế do các cuộc đình công. Tình hình trở nên tồi tệ hơn do tuyết rơi dày và thiếu công nhân để dọn đường.

Tình trạng khó khăn nhất là ở Petrograd, cách xa các khu vực sản xuất bánh mì và than chính. Khi chiến tranh bắt đầu, Đức phong tỏa biển Baltic, và Thổ Nhĩ Kỳ phong tỏa eo biển Đen, làm gián đoạn việc nhập khẩu than từ Anh. Khu vực công nghiệp của Petrograd, trước đây sử dụng than Cardiff rẻ, sau năm 1914 buộc phải chuyển sang than từ Donbass.

Các cảng biển chính là Vladivostok, Arkhangelsk và Murmansk. Tuy nhiên, Vladivostok quá xa để ảnh hưởng đến việc cung cấp cho các thành phố lớn. Sau khi Thổ Nhĩ Kỳ tham chiến, Nga gần như bị cô lập, dẫn đến sự sụt giảm mạnh trong xuất khẩu và nhập khẩu.

Chính phủ Sa hoàng và các đồng minh nhận thức được mức độ phát triển chưa đủ của đường sắt Nga. Do khoảng cách lớn, binh lính Nga trung bình phải di chuyển 900–1000 km để đến nơi tập kết, trong khi ở Tây Âu con số này là 200–300 km. Pháp đã đồng ý tài trợ cho việc hiện đại hóa mạng lưới đường sắt của Nga để hỗ trợ mặt trận. Năm 1913, Nga thông qua "Chương trình quân sự lớn để tăng cường quân đội", nhằm giảm thời gian huy động xuống còn 18 ngày. Tuy nhiên, nhiều kế hoạch trong số này vẫn chưa được thực hiện vào lúc chiến tranh bắt đầu, có thể các kế hoạch này đã thúc đẩy Đức bắt đầu các hành động quân sự do lo ngại trước sự tăng cường của Nga.

Trong thời gian chiến tranh, đường sắt Arkhangelsk - Vologda được hiện đại hóa, và từ năm 1915-1917, đường sắt đến Murmansk được xây dựng, mở cửa vào đầu năm 1917 và không có thời gian để tác động đến nguồn cung. Hành khách đầu tiên của tuyến đường sắt là các đại biểu Đồng minh đến tham dự Hội nghị Petrograd.

Một trong những vấn đề là đầu máy bị hao mòn: đến năm 1917, số lượng đầu máy giảm từ 20.071 xuống còn 9.021. Trong tình hình như vậy, việc nhập khẩu đầu máy mới trở nên quan trọng, nhưng chúng lại bị mắc kẹt tại các kho ở Vladivostok, Murmansk và Arkhangelsk.

Tình hình lương thực ở Petrograd

Vào mùa đông năm 1916/1917, tình hình cung cấp lương thực ở Petrograd trở nên tồi tệ đáng kể. Vào tháng 1 và tháng 2 năm 1917, các đơn hàng mua sắm của nhà nước chỉ được hoàn thành từ 20-30%, làm tình hình thêm nghiêm trọng. Tuyết rơi dày và nhiệt độ xuống đến -30 độ C khiến khoảng 5700 toa tàu bị mắc kẹt trên đường. Trong số 450 toa tàu cần thiết để vận chuyển lương thực hàng ngày đến Petrograd, vào tháng 2 chỉ có trung bình 116 toa đến nơi.

Đại sứ Pháp tại Petrograd, Maurice Paleologue, đã bình luận về tình huống này như sau (bài viết ngày 6 tháng 3, Phong cách mới):

Từ ngày 15 tháng 1 đến 25 tháng 2, lượng dự trữ bột mì ở Petrograd giảm từ 1426 nghìn pood xuống còn 500 nghìn pood, với mức tiêu dùng tiết kiệm có thể đảm bảo cho thành phố trong khoảng một tuần rưỡi. Theo báo cáo của Tư lệnh Quân khu Petrograd, tướng Khabalov, vào ngày 25 tháng 2, thành phố có 562,5 nghìn pood bột mì, đủ cho 10-12 ngày với mức tiêu thụ 40 nghìn pood mỗi ngày. Các ước tính về lượng bột mì dự trữ ở Petrograd vào ngày 25 tháng 2 năm 1917 dao động từ 309 nghìn đến 562,5 nghìn pood, và thời gian dự trữ này có thể đủ từ 3-4 ngày đến 10-12 ngày.

Theo chính Tướng Khabalov,

Các tiệm bánh cũng có dự trữ bột mì cho vài ngày, nhưng các chủ cửa hàng lại giấu đi. Lương thực quân sự có thể được sử dụng trong trường hợp cực kỳ cần thiết. Thị trưởng cuối cùng của Petrograd, Alexander Pavlovich Balk, cho rằng tình hình lương thực đã trở nên nghiêm trọng nhưng không phải là lý do để lo lắng. Theo ông, nếu đặt Petrograd trong tình trạng bị bao vây, thành phố có thể cầm cự được 22 ngày với khẩu phần cũ.

Mặt khác, đại sứ Anh tại Petrograd George Buchanan trong hồi ký của mình mô tả cuộc trò chuyện của ông với Nicholas II vào ngày 29 tháng 1 năm 1917:

Tuy nhiên, ở các khu vực công nhân, như khu Vyborg, tình hình rất nghiêm trọng. Trưởng đồn cảnh sát khu vực Vyborg báo cáo ngày 22 tháng 2 rằng nhiều công nhân phàn nàn về sự thiếu hụt bánh mì và đã không ăn bánh mì trong 2-3 ngày. Các phàn nàn này mạnh mẽ đến mức có thể dẫn đến các cuộc bạo loạn trên đường phố. George Buchanan viết rằng cuộc cách mạng là điều không thể tránh khỏi do thiếu bánh mì.

Tình hình lương thực cũng khó khăn ở các thành phố khác của Nga. Từ khi chiến tranh bắt đầu, dân số thành thị đã tăng từ 22 triệu lên 28 triệu. Tại Voronezh, người dân chỉ được mua 5 pound bột mì mỗi tháng, ở Penza ban đầu là 10 pound, sau đó hoàn toàn ngừng bán. Tại Odessa, Kiev, Chernigov và các thành phố khác, người dân phải xếp hàng dài để mua bánh mì mà không chắc chắn có được hay không. Vào tháng 12 năm 1916, thẻ lương thực đã được áp dụng ở Moskva, Kharkov, Odessa và các thành phố khác. Ở một số thành phố như Vitebsk, Polotsk và Kostroma, người dân phải chịu đói.

Sau khi chế độ quân chủ sụp đổ, tình hình cung cấp lương thực ở Petrograd không được cải thiện. Năm 1917, thẻ lương thực với khẩu phần một pound (409,5 g) bánh mì mỗi ngày cho mỗi người lớn đã được áp dụng, và vào mùa hè năm 1917, khẩu phần này bị giảm xuống còn nửa pound.

Dù gặp nhiều khó khăn, chỉ huy Trung đoàn Cận vệ Preobrazhensky, Đại tá Alexander Pavlovich Kutepov, tình cờ đang nghỉ phép ở Petrograd và tham gia trấn áp đám đông cách mạng, vẫn có thể mua bánh mì và xúc xích trà cho các thuộc cấp của mình từ các cửa hàng trên đường phố thành phố.

Quân đội và hải quân trước cách mạng

Tình trạng quân đội

Vào ngày 15 tháng 9 năm 1915, số lượng quân đội chính quy của Đế quốc Nga là 3.855.722 người, và đến ngày 1 tháng 11 năm 1916 đã tăng lên 6.963.503 người. Trong thời gian chiến tranh, quân đội Nga đã bắt giữ 2 triệu tù binh, trong khi 2,4 triệu binh sĩ Nga bị bắt làm tù binh. Nhà sử học Nikolai Nikolayevich Golovin trong tác phẩm "Nỗ lực chiến tranh của Nga trong Chiến tranh Thế giới" ghi nhận sự chênh lệch trong việc tính toán số lượng tù binh Nga: theo dữ liệu của Stavka (Tổng hành dinh của Bộ chỉ huy Tối cao các lực lượng vũ trang của Đế quốc Nga) ngày 23 tháng 10 năm 1917, con số này là 2.043.548, còn theo sách "Nga trong chiến tranh thế giới 1914-1918" là 3.343.900. Văn phòng Áo-Hung tính toán số lượng tù binh Nga vào ngày 1 tháng 2 năm 1917 là 2.080.694. Cứ 100 binh sĩ Nga bị giết thì có 300 người bị bắt làm tù binh, con số này cao hơn đáng kể so với quân đội Đức, Anh và Pháp. Từ bảng phía dưới có thể thấy rằng quân nhân Nga bị bắt với tần suất gần bằng lính Áo-Hung, gấp ba lần so với quân Đức và Pháp, và gấp sáu lần so với quân Anh.

So sánh số tù nhân với tổng số quân được huy động cho các số liệu sau:

Tướng Aleksey Alekseyevich Brusilov, tư lệnh Tập đoàn quân 8 vào mùa thu năm 1915, đã ra lệnh sau:

Tình trạng đào ngũ cũng trở nên nghiêm trọng: đến Cách mạng tháng Hai, số lượng binh sĩ đào ngũ đã đạt 195 nghìn. Trong một bức thư của binh sĩ vào tháng 1 năm 1917 được nêu trong báo cáo, những cảm xúc điển hình được bày tỏ: các binh sĩ cảm thấy rằng họ đang đổ máu và chịu đựng gian khổ, trong khi các nhà buôn đầu cơ làm giàu trên sự đau khổ của họ. Tướng Brusilov nhận được những bức thư nặc danh từ binh sĩ, một số đe dọa giết ông nếu chiến tranh không chấm dứt, trong khi những bức thư khác đe dọa giết ông nếu "kẻ phản bội" Hoàng hậu Alexandra Feodorovna làm hòa.

Trong cuộc họp ngày 30 tháng 7 năm 1915, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Alexei Andreyevich Polivanov nhận định rằng tình trạng suy sụp tinh thần, đầu hàng và đào ngũ đã trở nên nghiêm trọng. Năm 1915, có 82 cuộc nổi loạn được ghi nhận, những người được huy động yêu cầu đưa cảnh sát ra chiến trường. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Hoàng thân Nikolai Borisovich Shcherbatov, trong cuộc họp ngày 4 (17) tháng 8 năm 1915, cho biết việc tuyển quân ngày càng trở nên khó khăn hơn, và cảnh sát không thể kiểm soát được những người trốn tránh nghĩa vụ.

Đến cuối năm 1916, Nga phần nào đã khắc phục được các vấn đề kỹ thuật quân sự trong giai đoạn đầu của chiến tranh, bao gồm cả "nạn đói đạn dược". Vào tháng 1-tháng 2 năm 1917, tùy viên quân sự Anh, Tướng Alfred Knox, ghi nhận rằng quân đội vẫn mạnh mẽ, nhưng sự tan rã của sự đoàn kết dân tộc ở hậu phương đã cản trở thành công của họ. Đại công tước Nikolai Mikhailovich khẳng định rằng quân đội đang ở trạng thái tuyệt vời và sẵn sàng cho một cuộc tấn công quyết định vào mùa xuân năm 1917. Sản xuất súng trường, pháo và đạn dược đã tăng lên đáng kể, và việc cung cấp cho quân đội được cải thiện.

Tuy nhiên, nguồn lực huy động của Nga đang cạn kiệt. Vào tháng 2 năm 1917, đợt tuyển quân bổ sung dự kiến cho năm 1919 đã bắt đầu. Đến thời điểm này, thành phần của quân đội đã thay đổi nhiều lần, làm phức tạp việc đánh giá khả năng chiến đấu của họ.

Cuối năm 1916, thành viên Hội đồng Nhà nước Vladimir Iosifovich Gurko đã gửi đến Nikolai II một báo cáo phân tích về việc nguồn lực huy động sắp cạn kiệt, đề xuất các biện pháp thu hút người dân tộc thiểu số và công nhân lành nghề vào quân đội. Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Dmitry Savelyevich Shuvayev vào tháng 12 năm 1916 cũng cảnh báo rằng lực lượng hiện có chỉ đủ để tiếp tục chiến tranh trong 6-9 tháng, nếu mỗi tháng cần gửi 300 nghìn người ra tiền tuyến.

Trong bối cảnh bất mãn lan rộng và tinh thần quân đội ngày càng suy giảm, quân đội đã đối mặt với nhiều cuộc nổi loạn và bạo loạn, dự báo những thay đổi không thể tránh khỏi trong cấu trúc chính trị và xã hội của Nga.

Lực lượng đồn trú Petrograd

Trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ nhất, lực lượng đồn trú tại Petrograd chủ yếu bao gồm các đơn vị dự bị, trong đó có 14 tiểu đoàn dự bị của các trung đoàn cận vệ như Preobrazhensky, Semyonovsky, Pavlovsky và những đơn vị khác. Ngoài ra, trong thành phố còn có Trung đoàn bộ binh dự bị thứ 1, các Trung đoàn Cossack Don thứ 1 và thứ 4, các đơn vị chuyên môn khác nhau và một số trường quân sự. Tổng quân số của đồn trú lên tới 160 nghìn người, mặc dù doanh trại chỉ có sức chứa 20 nghìn.

Một cuộc tấn công lớn được lên kế hoạch vào mùa xuân năm 1917, dẫn đến việc huy động những người dự bị thuộc đợt thứ tư, nhiều người trong số đó đã hơn ba mươi tuổi. Petrograd trở thành căn cứ quan trọng để hình thành các đơn vị này, và các tiểu đoàn dự bị của các trung đoàn cận vệ đóng vai trò như các đơn vị huấn luyện với quân số phình to - trong một số đại đội có hơn 1000 lính, và trong các tiểu đoàn có từ 12-15 nghìn người. Đến ngày 1 tháng 3 năm 1917, kế hoạch gửi hàng loạt binh sĩ ra mặt trận đã được lên lịch, nhưng nhiều binh sĩ, biết rõ về tổn thất lớn, không muốn ra mặt trận.

Các quan chức cao cấp như Bộ trưởng Bộ Nội vụ Alexander Dmitrievich Protopopov và cục trưởng cục an ninh Konstantin Ivanovich Globachev bày tỏ nghi ngờ về lòng trung thành của binh lính. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Boris Vladimirovich Shturmer trong nửa cuối năm 1916 đã đề xuất sơ tán một phần binh lính và người tị nạn khỏi Petrograd, nhưng kế hoạch này không được thực hiện do thiếu doanh trại ở những nơi khác.

Để duy trì trật tự trong thành phố, một hệ thống bảo vệ quân đội đã được tạo ra, chia thành các khu vực do các tiểu đoàn dự bị của các trung đoàn cận vệ phụ trách. Các khoản lương tăng cường đã được chỉ định cho các cảnh sát, và khoảng 50 tổ súng máy được trang bị trên mái nhà của thành phố để đàn áp các cuộc bạo loạn có thể xảy ra. Tuy nhiên, theo một phiên bản khác, súng máy được dùng để chống lại các máy bay của Đức và là súng phòng không.

Để đàn áp các cuộc nổi dậy, các đội huấn luyện của các tiểu đoàn dự bị, được coi là hoàn toàn trung thành, đã được chỉ định. Họ bị cấm ra khỏi doanh trại, và vũ khí được lưu trữ riêng, dưới sự bảo vệ của các đội gác. Tuy nhiên, vào ngày 27 tháng 2 năm 1917, cuộc cách mạng bắt đầu bằng cuộc nổi dậy của một trong những đội huấn luyện này - đội huấn luyện của tiểu đoàn dự bị thuộc Trung đoàn Cận vệ Volynsky. Những người lính này, từ chối thực hiện các nhiệm vụ trấn áp, đã giết chỉ huy của họ, người tham gia vào các cuộc bắn pháo vào các cuộc biểu tình của công nhân.

Trong Bộ của Protopopov, vấn đề về sự không đáng tin cậy của đồn trú Petrograd một lần nữa được đặt ra. Nikolai II đã đồng ý thay thế các đơn vị dự bị bằng quân đoàn kỵ binh cận vệ, được lấy từ mặt trận, nhưng quyết định này không được thực hiện do yêu cầu của chỉ huy quân đoàn giữ lại ở mặt trận.

Vào thời điểm bắt đầu cuộc cách mạng, các đơn vị cận vệ chiến đấu có khả năng chiến đấu đang ở mặt trận và cách xa thủ đô, làm cho việc can thiệp nhanh chóng vào các sự kiện ở Petrograd trở nên khó khăn.

Căn cứ hải quân ở Kronstadt và Helsingfors

Trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đồn trú tại Petrograd và vùng lân cận bao gồm một số lượng đáng kể lính và thủy thủ được huy động từ tầng lớp công nhân, nhiều người trong số đó đã có kinh nghiệm cách mạng. Điều này đặc biệt rõ rệt ở căn cứ hải quân Kronstadt và căn cứ hải quân ở Helsingfors. Nhà nghiên cứu M. N. Gernet cho biết, các thủy thủ thường được tuyển mộ từ các công nhân nhà máy và xí nghiệp, điều này góp phần lan truyền tuyên truyền cách mạng trong hải quân.

Điều kiện phục vụ ở Kronstadt rất khắc nghiệt và đi kèm với nhục nhã đối với các binh sĩ cấp thấp, bao gồm cả việc cấm họ đến một số khu vực nhất định của thành phố. Các đảng viên Bolshevik như Fyodor Raskolnikov và Pavel Dybenko, những người từng phục vụ trong hạm đội Baltic, đã so sánh Kronstadt với "nhà tù", ở đó có tiểu đoàn kỷ luật dành cho các thủy thủ bị coi là "không đáng tin". Cuộc nổi dậy tháng Hai năm 1917 ở Kronstadt được các nhân chứng đương thời mô tả là cuộc bạo loạn do căng thẳng kéo dài giữa các thủy thủ và sĩ quan, dẫn đến các cuộc đụng độ bạo lực.

Sự xáo trộn trong hải quân đã bắt đầu từ lâu trước năm 1917. Trong cuộc cách mạng năm 1905, đã xảy ra các cuộc nổi loạn ở Kronstadt và Sveaborg, và đến cuối năm 1906, trong số 15 nghìn thủy thủ ở Kronstadt, khoảng 2 nghìn người bị coi là "không đáng tin". Năm 1915, một cuộc bạo loạn đã bùng phát trên thiết giáp hạm "Gangut" do thực phẩm kém chất lượng và sự hiện diện của các sĩ quan gốc Đức. Cuộc bạo loạn bị đàn áp tàn bạo, và nhiều thủy thủ bị trừng phạt nặng nề. Ngay sau đó, trên tuần dương hạm "Rurik" cũng xảy ra bạo loạn do thủy thủ từ chối hộ tống những người bị kết án từ "Gangut", dẫn đến các vụ bắt giữ và xét xử mới.

Việc kiểm soát căn cứ hải quân ở Helsingfors của cơ quan phản gián gặp khó khăn do vị trí của nó trong Đại Công quốc Phần Lan, vốn có sự tự trị đáng kể trong Đế quốc Nga. Hoạt động tích cực của tình báo Đức ở Helsingfors và các thành phố vùng Baltic như Revel và Riga cũng là mối đe dọa nghiêm trọng.

Đô đốc Viren đã đề xuất tái cơ cấu căn cứ Kronstadt, chuyển các thủy thủ đến nơi khác và thay thế họ bằng các đơn vị đáng tin hơn từ hạm đội Siberia và Biển Trắng. Tuy nhiên, đề xuất này đã bị từ chối, và Bộ Nội vụ đảm bảo rằng tình hình vẫn nằm trong tầm kiểm soát.

Chính trị

Tin đồn về Hoàng hậu Alexandra Feodorovna

Người Đức gốc Nga theo tôn giáo phi Chính thống trong Quân đội Đế quốc Nga trước Thế chiến thứ nhất

Hộ giá Hoàng đế

Vệ binh Hoàng gia Nga

Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, tâm lý chống Đức gia tăng mạnh mẽ trong Đế quốc Nga. Có khoảng 2 triệu người Đức sống tại Nga, chiếm khoảng 1,2% dân số theo điều tra dân số năm 1897. Đến năm 1914, người Đức chiếm một phần đáng kể trong giới tướng lĩnh Nga - khoảng 20%. Mặc dù có lịch sử cư trú lâu dài tại Nga, nhiều người trong số họ bắt đầu bị nghi ngờ về lòng trung thành và hoạt động gián điệp cho Đức.

Năm 1914, một đám đông đã phá hủy Đại sứ quán Đức ở Saint Petersburg, và hàng loạt bảng hiệu tiếng Đức bị phá hoại. Năm 1915, đã xảy ra cuộc bạo động chống người Đức ở Moskva, và tại Petrograd xuất hiện "Hội năm 1914" với mục tiêu chống lại người Đức ở Nga. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Đế quốc Nga Shcherbatov đã yêu cầu Duma Quốc gia chấm dứt cuộc tấn công vào những người mang họ Đức, vì nhiều người trong số họ đã trở thành người Nga trong 200 năm trước đây.

Đáp lại áp lực này, nhiều người Đức ở Nga bắt đầu đổi tên họ sang tên Nga. Ví dụ, Tổng công tố viên của Thượng Hội đồng Thánh, Vladimir Karlovich Sabler, đã đổi họ thành Desyatovsky (họ vợ), nhưng điều này không cứu ông khỏi những cuộc tấn công trong cuộc bạo động năm 1915, khi đám đông đe dọa ông và Thượng Hội đồng Thánh.

Tình hình trở nên tồi tệ hơn khi Boris Shturmer được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng vào năm 1916. Gốc gác Đức của ông đã gây ra những tin đồn về mối liên hệ với các điệp viên Đức, điều mà đại biểu Duma Quốc gia Pavel Milyukov đã nêu ra trong bài phát biểu "Ngu ngốc hay phản bội?".

Hoàng hậu Alexandra Fyodorovna, sinh ra là Công chúa Alix xứ Hesse-Darmstadt, cũng trở thành mục tiêu tấn công. Từ năm 1915, những tin đồn hoang đường về hoạt động gián điệp của bà cho Đức bắt đầu lan truyền. Sau Cách mạng Tháng Hai, cung điện ở Tsarskoye Selo bị khám xét kỹ lưỡng, nhưng không tìm thấy bằng chứng nào về hoạt động gián điệp.

Sau cái chết của Bộ trưởng Chiến tranh Anh, Hoàng thân Kitchener, đã xuất hiện những tin đồn rằng Hoàng hậu đã tiết lộ vị trí của ông cho Đức. Ngay cả những sĩ quan quân sự cấp cao như Tướng Mikhail Alekseyev và Tướng Aleksey Brusilov cũng chia sẻ những nghi ngờ này, tướng Vladimir Gurko từ chối cho sa hoàng xem kế hoạch hoạt động quân sự. Những tin đồn này đã khiến các thành viên của phái đoàn đồng minh đến tham dự hội nghị Petrograd vào tháng 2 năm 1917 phải lan truyền thông tin sai lệch về thời gian khởi hành của họ, do lo ngại rò rỉ thông tin.

"Nạn đói đạn dược" và sự rút lui năm 1915

Bộ Chiến tranh Đế quốc Nga, cũng như nhiều quốc gia tham chiến khác, đã đánh giá thấp quy mô và thời gian kéo dài của Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Theo lời của Tướng Alexey Manikovsky, dự đoán ban đầu là chiến tranh sẽ diễn ra nhanh chóng và kéo dài từ 2 đến 6 tháng, tối đa là một năm. Dựa trên những giả định này, Tổng cục Pháo binh (GAU) vào năm 1906 đã khuyến nghị dự trữ 1000 viên đạn cho mỗi khẩu pháo 76mm, và tăng lên 1200 viên vào năm 1910.

Tuy nhiên, ngay trong những tuần đầu của chiến tranh, đã trở nên rõ ràng rằng mức tiêu thụ đạn dược vượt xa dự báo. Vào tháng 9 năm 1914, Bộ Tổng tư lệnh đã đưa ra con số tiêu thụ đạn dự tính là 1,5 triệu viên mỗi tháng, gấp ba lần so với dự đoán trước chiến tranh. Đến đầu năm 1915, mặc dù có hơn 4 triệu viên đạn trong kho, nhưng đã hình thành quan niệm về "nạn đói đạn dược", điều này thực sự xảy ra vào mùa xuân năm 1915.

Sự cần thiết phải huy động nền kinh tế cho nhu cầu chiến tranh trở nên rõ ràng vào năm 1915. Nga đã thành lập các Hội đồng đặc biệt và các Ủy ban Công nghiệp Quân sự để quản lý các quá trình này, tương tự như các biện pháp được thực hiện ở các quốc gia tham chiến khác.

Vào tháng 5 năm 1915, cuộc đại rút lui của quân đội Nga khỏi Ba Lan và Galicia bắt đầu. Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Alexei Polivanov mô tả điều này là hệ quả của sự vượt trội về pháo binh và dự trữ đạn dược của Đức. Quân Đức bắn từng phát một, trong khi các khẩu đội pháo của Nga buộc phải im lặng, dẫn đến tổn thất lớn cho quân đội Nga và tổn thất tối thiểu cho Đức. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần của quân đội Nga.

Cuộc rút lui đi kèm với việc di dời hàng loạt người tị nạn, nhiều người trong số đó thuộc các dân tộc thiểu số ở vùng biên giới phía tây của đế quốc. Trong số đó có người Ba Lan, người Do Thái, người Đức định cư, người Latvia, người Armenia và người Hy Lạp. Tổng cộng có khoảng 2,2 triệu người di chuyển vào các khu vực trung tâm của Nga vào năm 1915, và việc di cư kết thúc vào tháng 12. Trong số những người tị nạn, dịch bệnh kiết lỵ và thương hàn hoành hành, khoảng 16% đã chết trên đường. Nhà sử học Irina Vladimirovna Nam ước tính tổng số người di dời là 5 triệu, trong đó 3,2 triệu người được coi là "cần được trợ giúp", bao gồm 58,8% là người Nga, 15% là người Ba Lan, 10% là người Latvia, 6,4% là người Do Thái, 2,8% là người Litva và 7% là người Estonia và các dân tộc khác.

Cách chức Tổng tư lệnh tối cao, Đại công tước Nikolai Nikolaevich

Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, Đại Công tước Nikolai Nikolaevich được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh tối cao của Nga vào ngày 20 tháng 7 năm 1914.

Đến năm 1915, xung quanh Đại Công tước bắt đầu hình thành một dạng sùng bái cá nhân: ông được bầu làm thành viên danh dự của các trường đại học Moskva, Petrograd và Kiev, cũng như Học viện Y khoa Quân sự. Hội nghị Zemstvo gọi Nikolai Nikolaevich là "người anh hùng dũng cảm trong truyền thuyết". Sau khi chiếm được Lvov và Przemysl, ông được trao tặng thanh kiếm St.George "Vì sự giải phóng Rus' Đỏ", một phần thưởng được các đương thời coi là vô cùng đặc biệt.

Theo hồi tưởng của các đương thời, Đại Công tước vẫn rất được yêu mến cả trong số các binh sĩ lẫn dân chúng vào năm 1915. Chân dung và bưu thiếp có hình ảnh của ông được bán rất chạy. Những lời đồn thổi cho rằng ông có mặt trực tiếp trong các chiến hào, xử tử và tước quân hàm của các tướng lĩnh không được lòng binh sĩ, và đặc biệt không khoan nhượng với các sĩ quan và tướng lĩnh mang họ Đức. Những lời đồn đại khác cho rằng Đại Công tước đã trả lời Rasputin rằng "hãy đến đây - ta sẽ treo cổ ngươi" khi Rasputin đề nghị đến tiền tuyến, và khi được Sa hoàng hỏi "Kẻ thù ở đâu?", ông đáp rằng "Cách hai bước chân phía sau", ám chỉ Bộ trưởng Bộ Chiến tranh. Một số tin đồn còn mang tính chất huyền ảo, chẳng hạn như trong một lá thư vào tháng 3 năm 1915, binh nhì Petrukovich viết:

Trên lá thư có lời bình mỉa mai của kiểm duyệt quân sự: "Đay là cách lịch sử được viết!"

Trong những tin đồn khác, người ta nói rằng:

Sĩ quan cung điện Vladimir Voeykov trong hồi ký của mình viết rằng:

Ngày 4 tháng 8 năm 1915, Sa hoàng chuyển Đại Công tước sang vị trí Tư lệnh Quân đội Caucasus và tự bổ nhiệm mình làm Tổng tư lệnh tối cao. Quyết định này đã gây ra phản đối, bao gồm cả mẹ của Sa hoàng, Hoàng thái hậu Maria Feodorovna, bà đã viết trong nhật ký của mình vào ngày 12 (25) tháng 8 năm 1915:

Có vẻ như dư luận đã phản ứng tiêu cực với việc bổ nhiệm này; Đô đốc Aleksandr Kolchak nhận xét rằng "Nikolai Nikolaevich là người duy nhất trong hoàng gia có uy tín được công nhận trong quân đội và khắp nơi"; theo đánh giá của Tướng Brusilov, "Quân đội biết rằng Đại Công tước không phải chịu trách nhiệm về tình trạng khốn khổ của quân đội, và tin tưởng ông như một nhà lãnh đạo quân sự. Không ai (kể cả quân đội) tin tưởng vào khả năng và kiến thức quân sự của Nikolai II... Ấn tượng của quân đội về sự thay đổi này là rất nặng nề, có thể nói là chán nản". Theo đánh giá của Đại Công tước Alexander Mikhailovich, "nếu Đại Công tước Nikolai Nikolaevich vẫn giữ chức vụ chỉ huy quân đội cận vệ và khu quân sự Petrograd cho đến tháng 2 năm 1917, ông sẽ đáp ứng được mọi kỳ vọng và có thể ngăn chặn cuộc nổi loạn của binh sĩ vào tháng 2".

Ngày 21 tháng 8 (3 tháng 9) năm 1915, các bộ trưởng của Sa hoàng, ngoại trừ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Goremykin và Bộ trưởng Bộ Tư pháp Khvostov, đã gửi thư tập thể đến Sa hoàng:

Mặt khác, Đại Công tước Nikolai Nikolaevich là Tổng tư lệnh tối cao trong thời kỳ thất bại trên mặt trận vào các năm 1914-1915, và chính trong thời gian này đã diễn ra cuộc rút lui năm 1915, đi kèm với việc di tản không suy tính kỹ lưỡng của tới bốn triệu người tị nạn. Tuy nhiên, dư luận không đổ lỗi cho ông về những thất bại này, mà là cho Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Sukhomlinov.

Tướng Anton Denikin trong tác phẩm "Những bài luận về cuộc nội chiến Nga" lưu ý rằng với việc Nikolai II đảm nhận chức vụ Tổng tư lệnh tối cao, thực tế người chỉ huy không phải là ông, mà là tham mưu trưởng của ông: "Các tướng lĩnh và sĩ quan đều nhận thức rõ rằng sự tham gia cá nhân của Hoàng đế trong việc chỉ huy sẽ chỉ mang tính hình thức, và vì vậy tất cả đều quan tâm hơn đến câu hỏi: ai sẽ là tham mưu trưởng?". Việc bổ nhiệm Tướng Mikhail Alekseyev đã làm yên lòng các sĩ quan.

"Mặt trận Đại Công tước"

Bắt đầu từ mùa thu năm 1916, không chỉ các phần tử cấp tiến và Duma Quốc gia tự do mới đứng lên phản đối Nikolai II, mà ngay cả những người thân cận nhất của hoàng đế - các đại công tước, lúc bấy giờ có tới 15 người. Hành động của họ được ghi nhận trong lịch sử như là "cuộc nổi dậy của các đại công tước", tương tự như cuộc nổi loạn của các hoàng thân ở Pháp vào thế kỷ XVII. Yêu cầu chung của các đại công tước là loại bỏ Rasputin và hoàng hậu người Đức khỏi việc quản lý đất nước và thành lập một bộ có trách nhiệm.

Cha của Nikolai II, hoàng đế Alexander III, đã hạn chế quyền lực của các đại công tước đáng kể. Chỉ có con trai và cháu trai của hoàng đế đương nhiệm hoặc đang trị vì mới được mang tước hiệu đại công tước, các hậu duệ xa hơn chỉ được mang tước hiệu hoàng thân của hoàng tộc, điều này có nghĩa là họ nhận được sự hỗ trợ tài chính ít hơn và có địa vị thấp hơn đáng kể. Công việc truyền thống của các đại công tước là phục vụ quân đội, tuy nhiên trước khi chiến tranh bắt đầu, chỉ có một số ít trong số họ nỗ lực trong công việc này, phần lớn họ dành thời gian cho cuộc sống xã hội và cá nhân. Sự thiếu vắng những đại công tước có khả năng thực hiện các hoạt động nhà nước và cai trị chuyên quyền trong hàng ngũ thừa kế gần của Nikolai II, nhiều người trong số họ lại ủng hộ việc thoái vị của ông trong thời điểm quan trọng, trở thành một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của chế độ quân chủ.

Em trai của hoàng đế, Mikhail Alexandrovich, từ năm 1912 đã kết hôn sống không đúng quy định và trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất bắt đầu, ông có mối quan hệ phức tạp với anh trai mình và sống ngoài nước Nga. Trước khi Aleksei Nikolaevich, con trai của hoàng đế được sinh ra, ông đã là người thừa kế ngai vàng trong năm năm, nhưng không bao giờ có tước hiệu "thái tử", vì hoàng đế và hoàng hậu rất hy vọng vào sự ra đời của một người con trai.

Sau Mikhail Alexandrovich trong thứ tự kế vị là đại công tước Kirill Vladimirovich, người cũng có mối quan hệ căng thẳng với Nikolai II do ông kết hôn với Victoria Melita, người đã ly dị với Ernest Louis, Đại Công tước xứ Hesse, anh trai của hoàng hậu Alexandra Feodorovna và hơn nữa, là chị em họ của đại công tước. Các em trai của Kirill là Đại Công tước Boris Vladimirovich và Đại Công tước Andrei Vladimirovich có quan điểm ôn hòa, nhưng trong thời điểm quan trọng, họ đã ủng hộ ông.

Sau anh em của Kirill trong thứ tự kế vị là Pavel Alexandrovich (chú của hoàng đế) và con trai của ông là Dmitry Pavlovich. Giống như anh trai của hoàng đế

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiền đề của Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga** - một tập hợp phức tạp các biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa trong và ngoài nước có mối
**Cách mạng tháng Hai** (tiếng Nga: Февра́льская револю́ция, IPA: [fʲɪvˈralʲskəjə rʲɪvɐˈlʲutsɨjə], tr. Fevrálʹskaya revolyútsiya), được biết tới trong nền sử học Xô viết như là **Cách mạng tư sản tháng Hai ** (February Bourgeois Democratic
**Cách mạng Tháng Mười**, còn được gọi là **Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại** trong các sử liệu Liên Xô; các tên gọi khác được sử dụng rộng rãi trong giới
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
Những quả bom được tìm thấy trong phòng thí nghiệm các chất nổ của các nhà cách mạng. 1907 **Cách mạng Nga (1905)** là cuộc cách mạng dân chủ đầu tiên trong lịch sử Nga,
**Cách mạng Nga** là một biến động chính trị và xã hội tại Nga bắt đầu từ năm 1917. Nó chứng kiến sự bãi bỏ chế độ quân chủ và việc hình thành một chính
## Sự kiện ### Tháng 1 ### Tháng 2 * 1 tháng 2 - Đức bắt đầu lại cuộc chiến tranh toàn diện trên biển * 13 tháng 2 - Mata Hari bị bắt *
__NOTOC__ Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 5 năm 2007. ## Thứ năm, ngày 5 tháng 5 *Chuyến bay 507 của Hãng hàng không Kenya rơi tại Niete, Cameroon, với
**Xô viết Đại biểu Công nhân và Binh sĩ Petrograd** (, _Petrogradskiy soviet rabochikh i soldatskikh deputatov_) còn được gọi là **Xô viết Petrograd** (, _Petrogradskiy soviet_, _Petrosovet_) là một cơ quan đại diện quyền
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Aleksey Nikolayevich của Nga** () ( – 17 tháng 7 năm 1918) là thái tử (_tsesarevich_) cuối cùng của Đế quốc Nga. Ông là con út và là người con trai duy nhất của Hoàng
**Rúp** () là đơn vị tiền tệ của Liên Xô, được giới thiệu vào năm 1922, thay thế cho rúp Đế quốc Nga. Một rúp được chia thành 100 kopeck ( – _kopeyka_, _kopeyki_). Tiền
**Cách mạng 1989**, hay còn được gọi là **Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu** (còn được gọi bằng nhiều tên gọi khác như là **Mùa
**Nga Xô viết** ( hoặc với tên đầy đủ là **Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga** () là nhà nước Cộng sản của lịch sử nước Nga trong giai đoạn
Mô hình [[động cơ hơi nước của James Watt. Sự phát triển máy hơi nước khơi mào cho cuộc cách mạng công nghiệp Anh.]] **Cuộc cách mạng công nghiệp** hay còn gọi là **Cách mạng
**Tỉnh Bessarabia** là một tỉnh (_guberniya_) của Đế quốc Nga, trung tâm hành chính nằm tại Kishinev (nay là Chișinău của Moldova). Tỉnh có diện tích và có 1.935.412 cư dân. Tỉnh Bessarabia giáp với
**Cộng hòa Xô viết Nhân dân Khorezm** (Tiếng Uzbek: _Xorazm Xalq Sho'ro Jumhuriyati_; Tiếng Nga: _Хорезмская Народная Советская Республика, Khorezmskaya Narodnaya Sovetskaya Respublika_) là một nhà nước được thành lập trên cơ sở kế thừa
nhỏ|[[Chiếm ngục Bastille|Đột chiếm ngục Bastille, 14/7/1789 trong Cách mạng Pháp.]] **Cách mạng** là một phương pháp của nhân dân hoặc một tổ chức mà trong đó các hoạt động đấu tranh diễn ra liên
**Tổng thống Liên bang Nga** () là nguyên thủ quốc gia thực hiện quyền hành pháp của Nga. Tổng thống là chủ tịch Hội đồng Nhà nước Liên bang và là tổng tư lệnh tối
**Đại hội Xô viết toàn nước Nga** là cơ quan quản lý tối cao Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga có thẩm quyền từ năm 1917 đến năm 1936. Hiến
**Vladimir Ilyich Lenin** (tên khai sinh: **Vladimir Ilyich Ulyanov**; – 21 tháng 1 năm 1924) là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Nga. Ông là người sáng lập
**Sự can thiệp quân sự của nước ngoài vào Nga** () bao gồm một loạt các cuộc viễn chinh quân sự đa quốc gia bắt đầu từ năm 1918. Động lực ban đầu đằng sau
nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily trên Quảng trường Đỏ, ở Moskva|thế=]] **Văn hóa Nga** có truyền thống lâu đời về nhiều mặt của nghệ thuật, đặc biệt khi nói đến văn học, múa dân
**Chiến tranh giành độc lập Ukraina** là một cuộc xung đột quân sự có sự tham gia của nhiều bên từ năm 1917 đến năm 1921, chứng kiến sự hình thành và phát triển của
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
**Cách mạng Mông Cổ 1921** (), còn gọi là Cách mạng Dân chủ 1921, Cách mạng Ngoại Mông 1921, là một sự kiện quân sự và chính trị do những nhà cách mạng Mông Cổ
**Nikolay Nikolayevich của Nga** (tiếng Nga: _Великий князь Николай Николаевич_; – 5 tháng 1 năm 1929), là thành viên Vương tộc Romanov và là Sĩ quan cấp tướng, tổng tư lệnh của Nga. Ông thường
**Aleksandr Fyodori Myasnikyan** (, , ) hay **Myasnikov** (28 tháng 1 [9 tháng 2] 1886 – 22 tháng 3 năm 1925), còn được biết đến với bí danh **Martuni** là nhà cách mạng, chỉ huy
**Cuộc tổng tấn công của Kerensky** hay **chiến dịch Kerensky**, còn gọi là cuộc **Tổng tấn công lần thứ hai của Brusilov**, ## Hoàn cảnh Sau khi Cách mạng Tháng Hai thành công, ở Nga
"**Quốc ca Liên bang Nga**" () là tên bài quốc ca chính thức của Nga. Bài quốc ca này dùng chính giai điệu của bài "Quốc ca Liên bang Xô viết", sáng tác bởi Alexander
Cuộc họp Đảng Bolshevik. [[Lenin bên phải]] **Bolshevik** hay **Bôn-sê-vích** ( IPA , xuất phát từ _bolshinstvo_, "đa số") là những thành viên của phe Bolshevik của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga
**Tàu điện ngầm Sankt-Peterburg** (, ) là hệ thống đường sắt ngầm ở Sankt-Peterburg và tỉnh Leningrad, Nga. Nó được mở từ 15 tháng 11 năm 1955. Trước đây được gọi là Huân chương V.L
**Chính phủ lâm thời Nga** () là một chính phủ lâm thời của Nga được thành lập ngay sau khi Sa hoàng Nikolai II của Đế quốc Nga thoái vị vào ngày 2 tháng 3
**Hiệp định Phòng thủ chung Nhật-Trung** là một loạt các hiệp ước quân sự bí mật giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản, được ký kết vào tháng 5 năm 1918. Hiệp
**Turkmenistan** (, ; tiếng Nga: Туркмения (Turkmeniya), phiên âm tiếng Việt: **Tuốc-mê-ni-xtan**) là một quốc gia tại Trung Á. Tên "Turkmenistan" bắt nguồn từ tiếng Ba Tư, có nghĩa "nước của người Turkmen". Nước này
**Những ngày Tháng Ba** hoặc **Các sự kiện tháng 3** đề cập đến cuộc xung đột giữa các dân tộc và cuộc tàn sát giữa 3.000 đến 12.000 người Azerbaijan và những người Hồi giáo
**Sư đoàn bộ binh ô tô Cận vệ số 2 "Taman", Huân chương Cách mạng Tháng Mười, Huân chương Cờ đỏ, Huân chương Suvorov, mang tên M. I. Kalinin** (), hoặc gọi đơn giản là
**Yakov Timofeyevich Cherevichenko** (; 12 tháng 10 năm 1894 - 4 tháng 7 năm 1976) là một tướng lĩnh Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. ## Tiểu sử ### Thế chiến thứ
**Thư viện Quốc gia Việt Nam** (tên giao dịch quốc tế: _National Library of Vietnam_ - NLV) là thư viện cấp quốc gia và là thư viện trung tâm của cả nước, trực thuộc Bộ
**Lev Davidovich Trotsky** hay **Leon Trotsky** (họ thật là **Bronstein**; – 21 tháng 8 năm 1940) là nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Do Thái gốc Nga – Ukraina,
**Liên Xô** hay **Liên bang Xô viết**, tên chính thức là **Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết**, là một cựu quốc gia nằm ở phía bắc lục địa Á-Âu, tồn tại
**Kliment Yefremovich Voroshilov** (tiếng Nga: Климе́нт Ефре́мович Вороши́лов; 1881 – 1969) là nhà cách mạng Nga, chỉ huy quân đội Liên Xô, lãnh đạo Đảng và nhà nước Liên Xô, người tham gia vào Nội
**Gruzia** là một quốc gia ở khu vực Kavkaz. Gruzia nằm tại giao giới của Tây Á và Đông Âu, phía tây giáp biển Đen, phía bắc giáp Nga, phía nam giáp Thổ Nhĩ Kỳ
**Hạm đội Biển Đen** () là một đơn vị thuộc Hải quân Nga hoạt động ở Biển Đen và Địa Trung Hải kể từ thế kỷ 18. Hạm đội này đóng ở nhiều bến cảng
**Jazep (Iosif) Jur'jevič Liosik** (; 18 tháng 11 năm 1883 Mikalajeŭščyna, Minsk, Litva- 1 tháng 4 năm 1940 Saratov) là nhà hoạt động xã hội cánh tả người Belarus, chính khách, nhà văn, nhà báo,
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Anastasia Nikolaevna của Nga** (tiếng Nga: Великая Княжна Анастасия Николаевна Романова, Velikaya Knyazhna Anastasiya Nikolayevna Romanova) ( – 17 tháng 7 năm 1918) là đứa con thứ tư cũng là con gái út của Sa
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Khủng hoảng hiến pháp Nga năm 1993** là một cuộc cạnh tranh chính trị giữa phe phái của Tổng thống Nga với nghị viện Nga và phe cánh tả thân Cộng sản, rồi cuối cùng