✨Hiệp định Phòng thủ chung Nhật-Trung

Hiệp định Phòng thủ chung Nhật-Trung

Hiệp định Phòng thủ chung Nhật-Trung là một loạt các hiệp ước quân sự bí mật giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản, được ký kết vào tháng 5 năm 1918. Hiệp dịnh được soạn thảo sau khi Trung Quốc tham gia phe Đồng minh, cho Nhật Bản nhiều đặc quyền quân sự trên lãnh thổ Trung Quốc dọc theo biên giới với Nga. Nội dung của các thỏa thuận đã bị rò rỉ cho báo chí, làm dấy lên một phong trào phản đối rộng rãi của sinh viên người Hoa ở Nhật Bản và trên khắp Trung Quốc. Hiệp định này chính thức bị chấm dứt vào tháng 1 năm 1921, áp lực dư luận Trung Quốc khiến việc tiếp tục các thỏa thuận là không thể.

Bối cảnh

Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, do Đoàn Kỳ Thụy đứng đầu, tuyên chiến với Đế quốc Đức và Đế quốc Áo-Hung vào ngày 14 tháng 8 năm 1917, đánh dấu việc Trung Quốc tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất theo phe Đồng minh, bao gồm có Đế quốc Nhật Bản. Đức và Áo-Hung trở thành kẻ thù chung của Trung Quốc và Nhật Bản. Hơn nữa, sau khi Cách mạng Tháng Mười năm 1917 ở Nga nổ ra, phe Đồng minh tuyên bố chính phủ cộng sản mới của Vladimir Ilyich Lenin là một mối đe dọa. Sau Cách mạng Tháng Mười, cán cân quyền lực ở Đông Á bị phá vỡ, và người Nhật tập trung vào các vùng lãnh thổ trước đây nằm dưới ảnh hưởng của Nga - bao gồm Siberia, Mãn Châu và Nội Mông - cũng như tìm cơ hội kiểm soát nhiều hơn đối với chính trị nội địa Trung Quốc. Để tận dụng khoảng trống quyền lực ở Đông Á, Nhật Bản, trên danh nghĩa sự can thiệp của phe Đồng minh, triển khai các lực lượng vũ trang đáng kể tới vùng Viễn Đông của Nga, Đông Siberia và Bắc Mãn Châu, lên tới hơn 72.000 quân (một phần ba tổng số quân tại ngũ của Nhật Bản) đến Vladivostok và vùng Ngoại Baikal. Đồng thời, vào ngày 22 tháng 12 năm 1917, Tanaka Giichi, khi đó là Phó Chánh văn phòng Tổng tham mưu quân đội Đế quốc Nhật Bản, ra chỉ thị rằng Nhật Bản phải tiếp quản sau khi Nga rút khỏi Đường sắt phía Đông Trung Quốc (Chinese Eastern Railway, CER). Tanaka cho rằng sự tan rã của quyền lực Nga tạo cơ hội tuyệt vời để giành được chỗ đứng ở Cáp Nhĩ Tân và CER, tạo bàn đạp cho bất kỳ sự mở rộng nào trong tương lai sang Đông Bắc Trung Quốc và sau đó là vùng châu Á nước Nga.

Tanaka Giichi bắt đầu lên kế hoạch ký kết một hiệp ước quân sự với Trung Quốc, bao gồm khả năng một liên minh quân sự. Vào cuối tháng 1, Tanaka chỉ thị cho tùy viên quân sự Nhật Bản tại Bắc Kinh, yêu cầu nhanh chóng tiến tới hình thành một thỏa thuận giữa Trung Quốc nhà Nhật Bản, và hơn nữa, cố gắng khiến phía Trung Quốc đề xuất ý tưởng trước.

Trong nội bộ chính phủ Trung Quốc, có những nghi ngờ về ý định của phía Nhật Bản đối với bất kỳ thỏa thuận nào, và đặc biệt, họ lo ngại rằng một thỏa thuận như vậy có thể dẫn đến việc Nhật Bản kiểm soát khu vực Mãn Châu. Tuy nhiên, ngoại trưởng Nhật Bản Motono Ichirō đưa ra ví dụ về việc hợp tác quân sự của phe Đồng minh tại Pháp, và nói rằng, nếu phe Đồng minh có thể làm vậy, thì sẽ thật không hợp lý nếu không làm điều tương tự ở Mãn Châu. Phía Nhật Bản cũng ám chỉ khả năng đơn phương triển khai trong trường hợp Trung Quốc không đồng ý. Với việc ký kết Hòa ước Brest-Litovsk ngày 3 tháng 3 năm 1918 giữa Nga Xô viết và Liên minh Trung tâm, Trung Quốc ngày càng lo ngại về sự hiện diện của 100.000 tù nhân chiến tranh Đức ở Siberia. Lo lắng rằng các lực lượng này sẽ được giải phóng và đe dọa an ninh của vùng Viễn Đông, phía Trung Quốc cảm thấy cần thiết phải ký kết một thỏa thuận với Nhật Bản.

Nội dung

Vào ngày 8 tháng 3, chính phủ Terauchi Masatake quyết định bắt đầu vạch ra kế hoạch cho một thỏa thuận Nhật-Trung, và thông báo cho Công sứ Trung Quốc ở Tokyo Chương Tông Tường về điều này. Một phái đoàn do Saitō Suejirō dẫn đầu được cử đến Trung Quốc để thương thảo các điều khoản của hiệp định. Vào ngày 25 tháng 3, Chương Tông Tường và ngoại trưởng Motono trao đổi thư từ, trong đó nhất trí rằng các lực lượng đối địch đầy rẫy khắp nơi dọc biên giới Nga, đe dọa an ninh của vùng Viễn Đông, đồng thời đồng ý xem xét ký kết một thỏa thuận phòng thủ chung.

Trong khi các cuộc đàm phán được tiến hành trong bí mật, một số tờ báo đã nhanh chóng nắm được thông tin và đưa tin từ đầu tháng 4. Sự phản đối nhanh chóng lan rộng khắp Trung Quốc. Ý định của phía Nhật Bản được thể hiện rõ ràng qua một văn thư của Bộ Ngoại giao Nhật vào khoảng thời gian này, trong đó nói rằng việc thành lập một liên minh Nhật-Trung sẽ cho phép quân đội Nhật Bản di chuyển tự do trên lãnh thổ Trung Quốc, trưng dụng bất kỳ nguồn lực nào cần thiết, can thiệp tích cực vào chính trị nội bộ Trung Quốc và ươm mầm mống cho các lực lượng thân Nhật trên khắp Trung Quốc.

Vào ngày 3 tháng 5, Tanaka Giichi đến thăm Chương Tông Tường tại Công sứ quán Trung Quốc ở Tokyo, yêu cầu phía Trung Quốc xin lỗi vì đã nghi ngờ ý định của Nhật Bản và dừng tham gia thảo luận. Tanaka Giichi tuyên bố rằng, cho đến khi một thỏa thuận được ký kết, Nhật Bản không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đình chỉ viện trợ tài chính và quân sự cho Trung Quốc thông qua Khoản vay Nishihara. Các cuộc đàm phán được mở lại vào ngày hôm sau, và đến ngày 16 tháng 5, hiệp định về lục quân được ký kết. Một hiệp định hải quân, gần tương tự hiệp định lục quân, được ký vào ngày 19 tháng 5.

Hiệp định về lục quân gồm có 12 điều. Nếu như điều khoản thứ 2 ngoài mặt coi các bên của thỏa thuận là bình đẳng, thì điều khoản thứ 3 chỉ rõ rằng chính quyền Trung Quốc phải cố gắng hết sức để hợp tác với quân đội Nhật Bản trong các khu vực liên quan và hạn chế cản trợ hoạt động của quân Nhật. Điều khoản thứ 4 chỉ rõ rằng quân đội Nhật Bản sẽ rút toàn bộ khỏi lãnh thổ Trung Quốc khi chiến tranh kết thúc. Điều thứ 7 chỉ rõ việc bố trí sĩ quan liên lạc trong quân đội của mỗi bên để xúc tiến liên lạc song phưong, và chỉ rõ rằng cả hai bên phải cung cấp bất kỳ nguồn lực nào cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng thủ chung. Toàn văn hiệp định không được chính thức tiết lộ cho đến ngày 14 tháng 3 năm 1919.

Với Hội nghị hòa bình Paris bắt đầu vào ngày 18 tháng 1 năm 1919, việc làm rõ ngày hiệp định hết hiệu lực ngày càng trở nên tất yếu. Điều này được thực hiện vào ngày 5 tháng 2 đối với lục quân và ngày 1 tháng 3 đối với hải quân. Hiệp định được chỉ định chấm dứt khi cả chính phủ Trung Quốc và Nhật Bản chấp thuận hiệp ước hòa bình với Đức và Áo do các nước châu Âu đàm phán, và khi tất cả quân đội Trung Quốc và Nhật Bản đồn trú bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc được rút đi.

Ảnh hưởng

Trong khi mục đích bề ngoài của thỏa thuận là chống lại Liên minh Trung tâm, mối đe dọa của chủ nghĩa cộng sản đang nổi lên ở khu vực Siberia và Mãn Châu là một vấn đề cấp bách hơn. Hiệp định đặt nền móng cho sự can thiệp của Nhật Bản vào Siberia, và đặt quân đội Trung Quốc ở phía bắc Mãn Châu dưới sự chỉ huy của Nhật Bản.

Mặc dù chính phủ Nhật Bản cấm bất kỳ cuộc thảo luận nào về cuộc đàm phán trên các phương tiện truyền thông trong nước, các sinh viên người Hoa ở Nhật Bản biết về việc này thông qua báo chí nước ngoài, và nhanh chóng tổ chức một phong trào phản đối từ cuối tháng 4 năm 1918. Được gọi là "Phong trào Hồi hương", phong trào phản đối này khiến một phần ba trong số 3.000 sinh viên người Hoa ở Nhật Bản trở về Trung Quốc. Tuy nhiên, họ quay trở lại Nhật Bản vào mùa thu năm 1918. Thủ tướng tương lai của Trung Quốc Chu Ân Lai, khi đó đang học ở Nhật Bản, có quan tâm theo sát phong trào này, nhưng đã không lựa chọn hồi hương. Các cuộc biểu tình cũng xảy ra ở Trung Quốc, đặc biệt là bởi các sinh viên ở Bắc Kinh và các phòng thương mại trên toàn quốc. Hiệp định này, về bản chất là một liên minh, được công chúng Trung Quốc coi là nỗ lực của Nhật Bản sử dụng Đoàn Kỳ Thụy để kiểm soát Trung Quốc, và phong trào phản đối thỏa thuận này đã đặt nền móng cho Phong trào Ngũ Tứ.

Dù Đoàn Kỳ Thụy muốn giữ lại thỏa thuận dưới một số hình thức sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, dư luận, thúc đẩy bởi do phong trào phản đối, đã khiến điều này trở nên bất khả thi. Ông buộc phải từ chức vào tháng 8 năm 1920 sau thất bại trong Chiến tranh Trực - Hoản, và cơ sở cho hiệp định hoàn toàn sụp đổ. Hiệp định chính thức bị chấm dứt vào ngày 28 tháng 1 năm 1921.

Trích dẫn

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiệp định Phòng thủ chung Nhật-Trung** là một loạt các hiệp ước quân sự bí mật giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản, được ký kết vào tháng 5 năm 1918. Hiệp
**Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự
**Hiệp định sơ bộ Pháp – Việt** là một hiệp định được ký ngày 6 tháng 3 năm 1946 giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiệp định này được xem là một
**Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc** (**VKFTA**; tiếng Anh: Viet Nam – Korea Free Trade Agreement; tiếng Hàn: 한-베트남 자유무역협정) là điều ước quốc tế được ký kết giữa Cộng
Ký kết Hiệp định Paris sơ khởi, 30 tháng 11 năm 1782. **Hiệp định Paris** (_Treaty of Paris_) được ký kết vào ngày 3 tháng 9 năm 1783 và được Quốc hội Hợp bang phê
**Hiệp định/ thỏa thuận thương mại** (còn được gọi là **hiệp ước thương mại**) là một hiệp định hoặc thỏa thuận thuế, thuế quan và thương mại rộng rãi thường bao gồm bảo lãnh đầu
**Hiệp định Genève 1954** (tiếng Việt: **Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954**) là hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
**Hiệp định Hòa bình Paris** (, ), có tiêu đề chính thức là **Hiệp định Hòa bình Toàn diện Campuchia**, được ký kết vào ngày 23 tháng 10 năm 1991, nhằm mục đích chấm dứt
**Hiệp định Paris về Việt Nam** (hay **hiệp định Paris 1973**, **Hiệp định Ba Lê**) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa
thumb|Quan chức lãnh đạo của một số quốc gia thành viên SEATO trước thềm Tòa nhà Quốc hội tại Manila, hội nghị do Tổng thống Philippines [[Ferdinand Marcos chủ trì vào ngày 24 tháng 10
**Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc**, thường được gọi tắt là **Chính Hiệp**, là một cơ quan hiệp thương chính trị tại Trung Quốc và là bộ phận trung tâm của
Bản đồ cổ trước [[Công ước Pháp-Thanh 1887 có mũi Bạch Long (Paklung) thuộc Việt Nam. Khi sông Bắc Luân được lấy làm đường biên giới thì vùng đất Bạch Long phải bỏ]] **Hiệp định
**Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ** () được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc tại Bắc Kinh ngày 25 tháng 12 năm 2000. Hiệp định
Huy hiệu chính thức của Chính phủ Nhật Bản **Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Thủ tướng Nhật Bản đến Việt Nam vào những thời điểm, hoàn cảnh
thumb|Quận thương mại của [[Kuala Lumpur vào tối ngày 29 tháng 9 năm 2006. Menara Kuala Lumpur hầu như không thể nhìn thấy được.]] thumb|[[Downtown Core của Singapore vào ngày 7 tháng 10 năm 2006,
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2** (); diễn ra từ năm 1945 đến năm 1950, là cuộc chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm tranh giành quyền kiểm soát Trung
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Liên đoàn Ả Rập** ( **'), tên chính thức là **Liên đoàn các Quốc gia Ả Rập** ( **'), là một tổ chức khu vực của các quốc gia Ả Rập nằm tại và xung
**Philippines** (, tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _"Pilipinas"_ hoặc _"Filipinas"_, Hán-Việt: _"Phi Luật Tân"_)_,_ tên gọi chính thức là **Cộng hòa Philippines** (tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _Republika ng Pilipinas_; tiếng Anh: _Republic of the Philippines_) là một đảo
phải|nhỏ| Chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai trong [[Chiến lược chuỗi đảo của Mỹ, được nghiên cứu bởi các chiến lược gia quân sự Trung Quốc để tránh bị bao vây ]] **Chính sách
**Tạ Đình Phong** (tiếng Trung: 謝霆鋒, tiếng Anh: Nicholas Tse Ting-Fung; sinh ngày 29 tháng 8 năm 1980) là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, đầu bếp người Hồng Kông. Anh chính thức
**Hiệp ước Tân Sửu** (辛丑條約) hay **Nghị định thư Bắc Kinh** (北京議定書), **Boxer Protocol** là Hiệp ước được kí kết giữa đại diện nhà Thanh Trung Quốc với đại diện của 11 quốc gia sau
**Chiến tranh Trung–Ấn** (戰爭中印; Hindi: भारत-चीन युद्ध _Bhārat-Chīn Yuddh_), còn được gọi là **Xung đột biên giới Trung–Ấn**, là một cuộc chiến tranh giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Ấn Độ. Nguyên nhân
thế=Membership of the Convention on the Elimination of All Forms of Racial Discrimination|phải|nhỏ|400x400px| Tư cách thành viên của Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc: **Công ước quốc tế về
thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Trung Quốc tại thủ đô [[Seoul, Hàn Quốc]] thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Hàn Quốc tại thủ đô [[Bắc Kinh, Trung Quốc]] **Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc** là quan hệ ngoại giao
**Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản** (tiếng Anh: _Japan Ground Self-Defense Force_, , Hán-Việt: _Lục thượng tự vệ đội_), thường được gọi tắt là **JGSDF** (, Hán-Việt: _Lục tự_), là lực lượng lục
là một chính trị gia người Nhật Bản. Ông từng là Thủ tướng Nhật Bản thứ 100 và 101 cùng với chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do và là đảng viên Đảng Dân
Một cuộc trưng cầu ý dân được tổ chức ở Cộng hòa Macedonia vào ngày 30 tháng 9 năm 2018 về Hiệp định Prespa giữa Macedonia và Hy Lạp được ký kết vào tháng 6
****, sự kiện diễn ra năm 1274 và năm 1281, bao gồm những nỗ lực quân sự quy mô lớn do Hốt Tất Liệt của Đế quốc Mông Cổ tiến hành nhằm chinh phục quần
**Louis Francis Albert Victor Nicholas Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ nhất của Miến Điện** (tên khai sinh là Hoàng tử Louis của Battenberg; 25 tháng 6 năm 1900 – 27 tháng 8 năm 1979), là
**Những con Hổ giải phóng Tamil** (viết tắt: **Hổ Tamil** /LTTE) là một tổ chức chiến binh người Tamil có trụ sở ở đông bắc Sri Lanka. Mục đích của tổ chức này là đảm
nhỏ|phải|Châu Nam cực nhìn từ [[vệ tinh.]] **Hiệp ước Nam Cực** (tiếng Anh, **Antarctic Treaty**) và các hiệp định liên quan được gọi chung là **Hệ thống Hiệp ước Nam Cực** (gọi tắt là **ATS**),
thumb|Vị trí của Israel (xanh lam) và UAE (đỏ) ở Trung Đông **Hiệp định hòa bình giữa Israel và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** hay **Hiệp ước Abraham** là thỏa thuận giữa
**Cộng hòa Trung Phi** (tiếng Pháp: _République Centrafricaine_; tiếng Sango: _Ködörösêse tî Bêafrîka_) là một quốc gia tại miền trung châu Phi. Cộng hòa Trung Phi giáp Tchad về phía Bắc, phía Đông giáp Sudan
**Nền chính trị Nhật Bản** được thành lập dựa trên nền tảng của một thể chế quân chủ lập hiến và Cộng hòa đại nghị (hay chính thể quân chủ đại nghị) theo đó Thủ
**Sự kiện phòng thứ n** () hay **Phòng chat thứ n** là tên gọi chung cho một loạt những vụ bê bối liên quan đến tội phạm tấn công tình dục trực tuyến thông qua
nhỏ|Nhật Bản tuyên bố bãi bỏ [[Hiệp ước Hải quân Washington, ngày 29 tháng 12 năm 1934.
|266x266px]] The là một phe chính trị không chính thức trong nội bộ Hải quân Đế quốc Nhật
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
nhỏ|phải|Thủ tướng Hideki Tojo **Tōjō Hideki** (kanji kiểu cũ: 東條 英機; kanji mới: 東条 英機; Hán Việt: _Đông Điều Anh Cơ_) (30 tháng 12 năm 1884 – 23 tháng 12 năm 1948) là một đại
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
**Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Women's Union_, viết tắt: **_VWU_**) là một tổ chức chính trị, xã hội của phụ nữ Việt Nam, mục đích hoạt động vì sự bình
thumb|[[Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Hamburg, Đức tháng 7 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Trung Quốcthumb|Đại sứ quán
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra