✨Elisabeth của Áo, Vương hậu Pháp

Elisabeth của Áo, Vương hậu Pháp

Elisabeth của Áo (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của Pháp. Là thành viên của Vương tộc Habsburg, Elisabeth là con gái của Maximilian II, Hoàng đế La Mã Thần thánh và María của Tây Ban Nha.

Đầu đời

Elisabeth của Áo là người con thứ năm và là con gái thứ hai trong số tổng mười sáu người con của Maximilian II, Hoàng đế La Mã Thần thánh và María của Tây Ban Nha, trong đó có tám người con sống sót đến tuổi trưởng thành. Trong suốt thời thơ ấu, Elisabeth sống với chị gái Anna và em trai Matthias trong một ngôi nhà tạm tại khu vườn của Stallburg mới xây dựng, một phần của quần thể Cung điện Hofburg tại Viên. Các chị em tận hưởng một tuổi thơ được hưởng đặc quyền và biệt lập, và được nuôi dưỡng theo đạo Công giáo La Mã. Cha bà, Maximilian, thường xuyên đến thăm Hoàng nữ và Elisabeth dường như là đứa con được Hoàng đế yêu thích nhất. Elisabeth giống cha không chỉ về ngoại hình mà còn về tính cách, khi cô cũng thông minh và quyến rũ như ông.

Với làn da trắng mịn không tì vết, mái tóc vàng dài và vóc dáng hoàn hảo, Elisabeth được coi là một trong những mỹ nhân đẹp nhất thời bấy giờ. Hoàng nữ cũng được coi là người đoan trang, ngoan đạo và ấm áp nhưng vô cùng ngây thơ vì được nuôi dạy trong sự bao bọc. Tuy nhiên, Elisabeth lại có năng khiếu về mặt trí tuệ. Các anh trai của cô được nhà văn và nhà ngoại giao người Vlaanderen Ogier Ghiselin de Busbecq dạy. Vị Hoàng nữ hiếu kì gia nhập ngay sau đó và thậm chí còn làm lu mờ các anh trai trong việc học. Mẹ của Elisabeth là María đích thân giám sát việc giáo dục tôn giáo của các cô con gái, và ngay từ khi còn nhỏ, Elisabeth ấn tượng với vị thánh cùng tên là Elisabeth của Hungary và đã lấy vị thánh làm hình mẫu.

Ngay từ rất sớm, vào khoảng năm 1559, một cuộc hôn nhân giữa Elisabeth và Charles, Công tước xứ Orléans được đề xuất. Năm 1562, vị nguyên soái De Vieilleville, một thành viên của phái đoàn Pháp được cử đến Viên khi nhìn thấy vị Hoàng nữ tám tuổi, đã thốt lên: "Thưa Bệ hạ, đây là Vương hậu nước Pháp!". Mặc dù Vieilleville không có thẩm quyền đưa ra lời đề nghị, nhưng ông nội của Elisabeth là Hoàng đế Ferdinand I lại tỏ ra quan tâm: hai triều đình đã trao đổi quà tặng và bắt đầu liên lạc - nhưng không ai bận tâm trong việc dạy tiếng Pháp cho vị Hoàng nữ trẻ.

Vương hậu Pháp

Chỉ đến năm 1569, sau khi kế hoạch kết hôn với Frederik II của Đan Mạch và Sebastião của Bồ Đào Nha thất bại, lời đề nghị của Pháp mới được xem xét nghiêm túc. Caterina de' Medici, mẹ của Công tước xứ Orléans và là người nắm quyền lực đằng sau ngai vàng, ban đầu ưa thích chị gái của Elisabeth là Anna, tuy nhiên Anna lại được chọn làm người vợ mới của Felipe II của Tây Ban Nha. Cuối cùng, Caterina de' Medici đồng ý chọn Elisabeth, vì nước Pháp hoàn toàn cần một cuộc hôn nhân Công giáo để chống lại phe Tin lành, những người Huguenot, cũng như để củng cố liên minh giữa Vương tộc Habsburg và Vương quyền Pháp.

Elisabeth lần đầu tiên kết hôn theo hình thức ủy quyền vào ngày 22 tháng 10 năm 1570 tại Nhà thờ Speyer. Chú của Elisabeth là Đại vương công Ferdinand của Áo-Tirol, đứng ra làm người ủy quyền cho Charles. Sau những lễ kỷ niệm dài, Elisabeth rời Áo vào ngày 4 tháng 11 cùng với các chức sắc cấp cao của Đức, bao gồm cả Tổng giám mục-Tuyển hầu tước xứ Trier. Do thời tiết xấu khi Elisabeth đến Pháp, trong khi mưa liên tục khiến đường sá không thể đi qua được, nên quyết định được đưa ra là tổ chức lễ cưới chính thức tại thị trấn biên giới nhỏ Mézières tại Champagne. Trước khi đến nơi, Elisabeth đã ở lại Sedan, nơi bà được hai người em rể là Henri, Công tước xứ Anjou và François, Công tước xứ Alençon chào đón. Tò mò về người vợ tương lai của mình, Charles đã cải trang thành một người lính và đến Sedan, nơi ông trà trộn vào đám đông triều thần để quan sát Elisabeth một cách bí mật trong khi Henri đang chỉ cho chị dâu kiến ​​trúc của pháo đài Sedan. Charles được cho là rất vui mừng khi nhìn thấy Elisabeth.

Charles IX của Pháp và Elisabeth của Áo chính thức kết hôn vào ngày 26 tháng 11 năm 1570 tại Mézières, với Charles, Hồng y de Bourbon thực hiện buổi lễ. Đám cưới được tổ chức một cách rất xa hoa bất chấp tình hình tài chính tồi tệ của Pháp. Váy cưới của vị vương hậu mới được may bằng vải bạc rắc ngọc trai, và vương miện của Elisabeth được đính ngọc trai, ngọc lục bảo, kim cương, đá sapphire và hồng ngọc.

Do chuyến đi khó khăn và thời tiết lạnh giá, vào đầu năm 1571 Elisabeth lâm bệnh. Vì lễ cưới diễn ra tại nơi xa Paris, nên mãi đến mùa xuân, liên minh Đức-Pháp mới được tổ chức lại một lần nữa với những bữa tiệc xa hoa tại thủ đô. Vào ngày 25 tháng 3 năm 1571, Elisabeth được Tổng giám mục Reims tấn phong làm Vương hậu nước Pháp tại Vương cung thánh đường Thánh Denis. Elisabeth chính thức đặt chân vào Paris bốn ngày sau đó, vào ngày 29 tháng 3, và sau đó biến mất khỏi công chúng.

Elisabeth rất vui mừng về Henri đến nỗi để mọi người đều thích thú, bà đã không ngần ngại hôn chồng trước mặt mọi người. Tuy nhiên, Charles IX đã có một tình nhân lâu năm là Marie Touchet, người có một câu nói nổi tiếng: "Cô gái người Đức không làm ta sợ" (L'Allemande ne me fait pas peur). Sau một thời gian ngắn say mê cô dâu của mình, Charles IX đã sớm quay về với tình nhân. Tuy nhiên, cặp đôi hoàng gia có mối quan hệ nồng ấm và luôn ủng hộ nhau. Charles nhận ra rằng cách hành xử tự do của Triều đình Pháp có thể khiến Elisabeth bị sốc và cùng với mẹ mình, đã nỗ lực bảo vệ Elisabeth khỏi sự thái quá đó. Ngoài ra, Catarina de' Medici còn đảm bảo rằng con dâu mới của mình không được tham gia vào các công việc nhà nước.

Elisabeth nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Latinh và Ý lưu loát, nhưng lại gặp khó khăn trong việc học tiếng Pháp. Elisabeth cảm thấy cô đơn trong cung điện nước Pháp sôi động và hỗn loạn, tuy nhiên, một trong số ít người bạn của Elisabeth là em dâu Marguerite của Valois, người không được biết đến vì đức hạnh của mình. Busbecq, người gia sư cũ đi cùng Elisabeth sang Pháp, được phong làm Viên thị thần, và Madeleine xứ Savoia được bổ nhiệm làm Première dame d'honneur.

Elisabeth, bị sốc bởi lối sống phóng túng của triều đình Pháp, đã dành thời gian cho công việc thêu thùa, đọc sách và đặc biệt là thực hành các công việc từ thiện và đạo đức. Bà vẫn tiếp tục tham dự thánh lễ hai lần một ngày và vô cùng kinh ngạc trước sự thiếu tôn trọng đối với tôn giáo của những cận thần theo Công giáo. Hành động gây tranh cãi duy nhất của Elisabeth là từ chối sự chú ý của các chính trị gia và cận thần Tin lành bằng cách từ chối cho phép nhà lãnh đạo Huguenot, Gaspard II de Coligny hôn tay mình khi ông tỏ lòng tôn kính với vương thất.

Mặc dù phản đối mạnh mẽ đạo Tin Lành tại Pháp, Elisabeth vẫn vô cùng kinh hoàng khi nhận được tin về vụ thảm sát Ngày Thánh Bartholomew bắt đầu vào ngày 24 tháng 8 năm 1572 và kéo dài trong nhiều ngày sau đó, khi hàng ngàn người Tin Lành người Pháp bị thảm sát tại Paris. Theo Brantôme, sáng hôm sau, khi nghe một người trong đoàn tùy tùng kể lại về vụ thảm sát, Elisabeth đã vô cùng sốc và hỏi Nhà vua liệu có biết về chuyện này. Khi biết rằng Charles không chỉ biết về điều đó mà còn là người khởi xướng, Elisabeth đã thốt lên: "Ôi, Chúa ơi! Chuyện gì thế này? Những cố vấn đã cho ngài ấy lời khuyên như vậy là ai? Chúa ơi, con cầu xin Người hãy tha thứ cho ngài ấy..." Sau đó, Elisabeth xin quyển kinh và bắt đầu cầu nguyện. Trong những ngày đó, Elisabeth đã nhận được đơn thỉnh cầu được lên tiếng vì những người vô tội, và bà đã đảm bảo được lời hứa sẽ tha mạng cho những người Tin lành nước ngoài (đặc biệt là nhiều người Đức). Vào thời điểm đó, Elisabeth đã mang thai khá lâu (được bảy tháng), và không công khai vui mừng trước hàng loạt cái chết như những người Công giáo nổi tiếng khác.

Hai tháng sau, vào ngày 27 tháng 10 năm 1572, Elisabeth sinh người con đầu lòng và duy nhất, là một bé gái tại Cung điện Louvre. Đứa bé được đặt tên là Marie Élisabeth theo tên bà ngoại là Hoàng hậu María, và Nữ vương Elizabeth I của Anh, những người mẹ đỡ đầu của vương nữ. Vào thời điểm Marie Élisabeth chào đời, sức khỏe của Nhà vua suy yếu nhanh chóng, và sau thời gian dài đau khổ, trong đó Elisabeth luôn âm thầm ủng hộ và cầu nguyện cho chồng bình phục, Charles IX đã qua đời vào ngày 30 tháng 5 năm 1574. Theo Brantôme, Elisabeth đã khóc "những giọt nước mắt dịu dàng và thầm kín" bên giường bệnh của chồng.

Sau khi hoàn thành thời gian để tang 40 ngày, Elisabeth, lúc bấy giờ được gọi là la Reine blanche (Vương hậu Trắng), đã bị cha ép buộc phải trở về Viên. Không lâu trước đó, Hoàng đế Maximilian II đã sắp xếp một cuộc hôn nhân mới cho con gái mình, lần này là với em trai, cũng như người kế vị của Charles IX là Henri III của Pháp. Tuy nhiên, cả Elisabeth và Henri đều kiên quyết từ chối. Bằng văn bản có hiệu lực ngày 21 tháng 11 năm 1575, Henri III đã trao cho Thái hậu Bá quốc La Marche làm của hồi môn; Ngoài ra, Elisabeth còn nhận được tước hiệu Nữ Công tước xứ Berry và vào năm 1577, bà nhận được các công quốc Auvergne và Bourbon để đổi lại. Ngày 28 tháng 8 năm 1575, Elisabeth đến thăm con gái Marie Élisabeth gần ba tuổi tại Amboise lần cuối, và vào ngày 5 tháng 12, bà rời Paris.

Góa phụ và qua đời

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Jakob_de_Monte_001.jpg|phải|nhỏ|Elisabeth trong trang phục góa phụ. Tranh của Jakob de Monte, khoảng năm 1580.Trở lại Viên, Elisabeth sống tại ngôi nhà thời thơ ấu của mình, Stallburg. Vào ngày 12 tháng 10 năm 1576, người cha yêu dấu của bà là Maximilian II qua đời, và anh trai bà là Rudolf II lên kế vị ngai vàng Hoàng đế La Mã Thần thánh. Bi kịch cuối cùng của Elisabeth xảy ra vào ngày 2 tháng 4 năm 1578, khi cô con gái năm tuổi rưỡi Marie Élisabeth qua đời. Khi có lời cầu hôn mới, lần này là từ Felipe II của Tây Ban Nha sau cái chết của chị gái Anna vào năm 1580, Elisabeth lại từ chối; Theo Brantôme, Elisabeth đã đáp lại lời đề nghị bằng câu nói nổi tiếng: "Các Vương hậu nước Pháp không tái hôn" (Les Reines de France ne se remarient point), như Blanca của Navarra, góa phụ của Philippe VI đã từng nói.

Tại Pháp, nơi Busbecq quản lý tài sản của mình, Elisabeth đã cho xây dựng một ngôi trường Dòng Tên tại Bourges, mặc dù chưa bao giờ nhận được doanh thu từ đất đai của mình. Đầu năm 1580, Elisabeth mua một số đất gần Stallburg và thành lập Tu viện Dòng Chị Em Thanh Bần Mary, Nữ vương của các Thiên thần (Klarissinnenkloster Maria, Königin der Engel), còn được gọi là Tu viện Nữ vương (Königinkloster). Từ đó, Elisabeth dành cả cuộc đời để noi gương thánh bổn mạng của tu viện trong việc thực hành lòng đạo đức, cứu trợ người nghèo và chăm sóc sức khỏe. Ngay cả những cô con gái nghèo khó của giới quý tộc cũng nhận được sự ủng hộ của bà. Elisabeth cũng tài trợ cho việc trùng tu Nhà nguyện Các Thánh tại Hradčany, Praha, nơi đã bị phá hủy trong một trận hỏa hoạn năm 1541. Elisabeth cũng mua được một số thánh tích cho tu viện của mình. Năm 1588, với sự đồng ý của em trai là Maximilian, với tư cách là Phó giám mục của Hiệp sĩ Teuton, một số hài cốt của Thánh Elisabeth nước Hungary đã được gửi đến cho Elisabeth từ Marburg.

Sau khi rời nước Pháp, Elisabeth vẫn duy trì mối quan hệ thư từ thường xuyên với em dâu là Vương hậu Marguerite, và khi Marguerite bị xa lánh khỏi phần còn lại của vương thất, bà đã dành một nửa số nguồn thu từ Pháp cho Elisabeth. Brantôme kể rằng có một lần, Elisabeth đã gửi cho Marguerite hai cuốn sách do mình viết (hiện đã thất lạc): một tác phẩm sùng đạo (Về Lời Chúa) và một tác phẩm lịch sử (Về những sự kiện quan trọng xảy ra ở Pháp vào thời của bà).

Elisabeth qua đời vào ngày 22 tháng 1 năm 1592 do bệnh viêm màng phổi, và được chôn cất dưới một phiến đá cẩm thạch trong nhà thờ tu viện của mình. Về cái chết của Elisabeth, Brantôme đã viết:

:: Khi bà qua đời, Hoàng hậu [...] (mẹ bà) đã nói [...] "El mejor de nosotros es muerto" (Người tốt nhất trong chúng ta đã chết).

Trong quá trình cải cách theo chủ nghĩa Joseph, tu viện của Elisabeth đã bị đóng cửa vào năm 1782 để xây dựng Nhà thờ Luther Thành phố. Theo lệnh của Hoàng đế Joseph II, hài cốt của Elisabeth đã được chuyển đến một trong những hầm mộ bên dưới Nhà thờ Thánh Stephan, Viên.

Trong di chúc của mình, Elisabeth đã quyên góp tiền không chỉ cho người nghèo và người bệnh, mà còn bao gồm cả quỹ cầu nguyện cho người chồng quá cố của bà tại nhà thờ của tu viện. Các cuốn sách tiếng Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Ý và Latinh từ thư viện của Elisabeth, một số tác phẩm của nhà truyền giáo Dòng Tên Georg Scherer, một cuốn sách tiên tri của nhà chiêm tinh người Pháp Nostradamus được viết vào năm 1571, và vở kịch Antigone, viết bởi nhà thơ Hy Lạp cổ đại Sophocles được để lại cho anh trai bà là Hoàng đế Rudolf II. Chiếc nhẫn cưới của Elisabeth được trao cho một người anh trai khác là Ernst của Áo.

Tổ tiên

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Maria Elisabeth của Áo** (Maria Elisabeth Josepha Johanna Antonia; sinh ngày 13 tháng 8 năm 1743 - mất 22 tháng 9 năm 1808) là con thứ sáu và con gái thứ ba còn sống đến
**Maria Karolina của Áo** (; tên đầy đủ: _Maria Karolina Luise Josepha Johanna Antonia_; 13 tháng 8 năm 1752 – 8 tháng 9 năm 1814) là Vương hậu của Napoli và Sicilia với tư cách
**Johanna của Áo** (tiếng Đức: _Johanna von Österreich_, tiếng Ý: _Giovanna d'Austria_, tiếng Anh: _Joanna of Austria_; 24 tháng 1 năm 1547 – 11 tháng 4 năm 1578) là một Nữ Đại Vương công Áo.
**Élisabeth của Pháp** hay **Isabelle của Bourbon** (22 tháng 11 năm 1602 – 6 tháng 10 năm 1644) là con gái của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici cũng như là Vương hậu
**Élisabeth của Pháp** hay còn biết đến với tên gọi là **Élisabeth của Valois** hay **Isabel của Hòa Bình** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_/_Isabel de Valois_/_Isabel de la Paz_; tiếng Pháp: _Élisabeth de
**Marie Elisabeth của Pháp** (tiếng Pháp: _Marie Élisabeth de France_; tiếng Đức: _Marie Elisabeth von Frankreich_; 27 tháng 10 năm 1572 – 2 tháng 4 năm 1578) là một Vương nữ Pháp và là thành
**Maria Amalia của Áo** (Maria Amalia Josepha Johanna Antonia; 26 tháng 2 năm 1746 - 18 tháng 6 năm 1804) là Nữ công tước của Parma, Piacenza và Guastalla sau khi kết hôn. Maria Amalia
**Maria Karolina Ernestina của Áo** (_Maria Karolina Ernestina Antonia Johanna Josefa_; 12 tháng 1 năm 1740 – 25 tháng 1 năm 1741) là người con thứ ba của Maria Theresia I của Áo, Hoàng hậu
**Louise Élisabeth của Pháp** (Marie Louise-Élisabeth; ; ; ; 14 tháng 8 năm 1727 – 6 tháng 12 năm 1759) là Vương nữ Pháp và là _fille de France_ (_Con gái nước Pháp_). Louise Élisabeth
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**Marie Valerie của Áo** (tiếng Đức: _Marie Valerie von Österreich_; 22 tháng 4 năm 1868 – 6 tháng 9 năm 1924) là con út của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern. Nữ
**Marie Louise Élisabeth, Mademoiselle d'Orléans** (20 tháng 8 năm 1695 – 21 tháng 7 năm 1719), hay còn được gọi là **Louise Élisabeth, Công tước phu nhân xứ Berry** là Công tước phu nhân xứ
**Maria Christina** (đôi khi được viết là **_Marie Christine_**) **Johanna Josepha Antonia** (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1742 - mất ngày 24 tháng 6 năm 1798), còn được gọi là **Maria Christina của Áo**
**Rudolf của Áo** (_Rudolf Franz Karl Josef_; 21 tháng 8 năm 1858 – 30 tháng 1 năm 1889) là người con thứ ba và là con trai duy nhất của Hoàng đế Franz Joseph I
**Marie Louise của Orléans** (tiếng Pháp: _Marie-Louise d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de Orleans_; 26 tháng 3 năm 1662 – 12 tháng 2 năm 1689) là một _petite-fille de France_ (_Cháu gái nước
**Mary của I Scotland** (tiếng Anh: _Mary, Queen of the Scots_; tiếng Pháp: _Marie Ire d’Écosse_; 8 tháng 12, 1542 – 8 tháng 2, 1587), thường được gọi là **Nữ vương Mary**, **Nữ hoàng Mary**,
**Isabel của Castilla**, **Isabel của Áo**, **Isabel của Áo và Trastámara** hay **Elisabeth nhà Habsburg** (Tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Austria_; Tiếng Đức: _Isabella von Österreich_; Tiếng Đan Mạch: _Elisabeth af Habsburg_; Tiếng Pháp:
**Maria Karolina của Áo** (sinh và mất ngày 17 tháng 9 năm 1748) là người con thứ mười và là con gái thứ bảy của Hoàng hậu Maria Theresia của Áo và Hoàng đế Franz
**Karoline Auguste của Bayern** (tiếng Đức: _Karoline Auguste von Bayern_; 8 tháng 2 năm 1792 – 9 tháng 2 năm 1873) là Hoàng hậu Áo từ năm 1816, khi kết hôn với Hoàng đế Franz
**Élisabeth Philippe của Pháp** (3 tháng 5 năm 1764 – 10 tháng 5 năm 1794), còn được gọi là **Madame Élisabeth**, là một Fille de France. Élisabeth Philippe là con út của Louis Ferdinand của
**María Teresa của Tây Ban Nha**, **Maria Theresia của Áo** hay **María Teresa của Áo và Borbón** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Austria y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Thérèse d'Autriche_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Elisabeth Christine xứ Braunschweig-Wolfenbüttel** (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1691 – mất ngày 21 tháng 12 năm 1750) là Công nữ của Công quốc Braunschweig-Wolfenbüttel, Hoàng hậu của Đế quốc La Mã, Vương hậu
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
nhỏ|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Thần thánh của Hungary (Vương miện của Thánh Stephen)]] **Lễ đăng quang của quốc vương Hungary** là một buổi lễ trong đó vua hoặc nữ vương của Vương quốc
**Maria Teresa của Napoli và Sicilia** (; ; tên đầy đủ: _Maria Teresa Carolina Giuseppina_; 6 tháng 6 1772 – 13 tháng 4 năm 1807) là Hoàng hậu La Mã Thần thánh cuối cùng và
**Marie Clotilde của Pháp** (23 tháng 9 năm 1759 – 7 tháng 3 năm 1802), được gọi là **Clotilde** ở Ý, là Vương hậu Sardegna thông qua cuộc hôn nhân với Carlo Emanuele IV của
**Maria Josepha của Ba Lan hay Maria Josepha của Sachsen** (Tiếng Anh: _Maria Josepha Karolina Eleonore Franziska Xaveria_; 4 tháng 11 năm 1731 – 13 tháng 3 năm 1767) là Trữ phi nước Pháp thông
**Charles IX** (**Charles Maximilien**; 27 tháng 6 năm 1550 – 30 tháng 5 năm 1574) là Vua của Pháp từ năm 1560 cho đến khi qua đời vào năm 1574. Ông lên ngôi Pháp sau
**Louis XIII** (27 tháng 9 1601—14 tháng 5 1643) là một vị vua thuộc vương triều Bourbon với tước hiệu là Vua của Pháp từ 1610 đến 1643 và Vua của Navarra (với danh xưng
**María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin** (tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de España_, tiếng Đức: _Maria Ludovica von Spanien_; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng
nhỏ|phải|Vương cung thánh đường Saint-Denis **Vương cung Thánh đường Thánh Denis** (tiếng Pháp: _basilique Saint-Denis_ hay _cathédrale Saint-Denis_) là một nhà thờ chính tòa Công giáo, và trước đây là một đan viện dòng Biển
**María de la Paz của Tây Ban Nha** (; 23 tháng 6 năm 1862 – 4 tháng 12 năm 1946) là một Vương nữ Tây Ban Nha, con gái của Isabel II của Tây Ban
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Marie Thérèse Charlotte của Pháp** (tiếng Pháp: _Marie-Thérèse Charlotte de France_; tiếng Đức: _Marie Thérèse Charlotte von Frankreich_; 19 tháng 12 năm 1778 – 19 tháng 10 năm 1851) là trưởng nữ của Louis XVI
**Charlotte của Bỉ** (Marie Charlotte Amélie Augustine Victoire Clémentine Léopoldine; 7 tháng 6 năm 1840 – 19 tháng 1 năm 1927), được biết đến với tên theo tiếng Tây Ban Nha là **Carlota**, bà sinh
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Ludwig II** (_Ludwig Otto Friedrich Wilhelm_; 25 tháng 8 năm 1845 – 13 tháng 6 năm 1886), còn được gọi là **Vua Thiên nga** hoặc **Vua truyện cổ tích** (der Märchenkönig), là Vua của Bayern

Tiếng Anh: John Nepomuk Maria Joseph Anthony Xavier Vincent Aloysius Francis de Paula Stanislaus Bernard Paul Felix Damasus | kiểu hoàng tộc = Vương tộc | hoàng tộc = Nhà Wettin | cha =
**Sophie Friederike của Bayern** (tiếng Đức: _Sophie Friederike von Bayern_; tên đầy đủ: _Sophie Friederike Dorothea Wilhelmine von Wittelsbach_; 27 tháng 1 năm 1805 – 28 tháng 5 năm 1872) là con gái của Maximilian
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
**Charlotte Aglaé của Orléans** (; ; 22 tháng 10 năm 1700 – 19 tháng 1 năm 1761) là con gái thứ ba của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon, và khi sinh
**Louis Joseph Xavier François của Pháp** (22 tháng 10 năm 1781 - 4 tháng 6 năm 1789) là trưởng nam và con thứ hai của vua Louis XVI của Pháp và vương hậu Maria Antonia
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Leopoldo II** (tiếng Ý: _Leopoldo Giovanni Giuseppe Francesco Ferdinando Carlo_; tiếng Đức: _Leopold Johann Joseph Franz Ferdinand Karl_; tiếng Anh là _Leopold John Joseph Francis Ferdinand Charles_; 3 tháng 10 năm 1797 – 29 tháng
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một