✨Felipe V của Tây Ban Nha

Felipe V của Tây Ban Nha

Felipe V của Tây Ban Nha (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày 1 tháng 11 năm 1700 đến 15 tháng 1 năm 1724 rồi nhường ngôi cho con là Luis I. Khi Luis I mất, Felipe trở lại ngai vàng, trị vì và từ 6 tháng 9 năm 1724 đến khi mất vào ngày 9 tháng 7 năm 1746.

Trước khi lên ngôi, Felipe nắm giữ một vị trí cao trong hoàng tộc Pháp, ông là cháu nội của Đức vua Louis XIV. Phụ thân ông, Louis, Đại Thái tử, là người có tư cách kế vị ngai vàng ở Tây Ban Nha sau khi ngôi vua bỏ trống vào năm 1700. Tuy nhiên, vì Đại thái tử và con trai trưởng của ông, đồng thời là hoàng huynh của Felipe, Louis, Công tước xứ Bourgogne, không được sự ủng hộ để nắm ngôi vua của cả Pháp và Tây Ban Nha, nên vua Carlos II của Tây Ban Nha đề nghị Felipe là người kế nhiệm trong di chúc của ông ta. Tuy nhiên ý thức được khả năng nối ngôi ở Pháp của Felipe là rất cao, các cường quốc châu Âu đã lo sợ về sự mất cân bằng quyền lực ở châu Âu khi Pháp và Tây Ban Nha hợp nhất, vì thế họ tìm cách ngăn chặn nó bằng cuộc chiến tranh kéo dài 14 năm, tức Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, kết thúc với Hiệp ước Utrecht nhằm ngăn chặn sự thống nhất của hai ngai vàng.

Felipe là thành viên đầu tiên trong gia tộc Bourbon cai trị Tây Ban Nha. Thời gian cai trị tổng cộng của ông, 45 năm và 21 ngày, là kỉ lục trong lịch sử Tây Ban Nha mấy trăm năm nay.

Năm 1701, Felipe kết hôn với người chị em đời thứ hai của mình là Maria Luisa xứ Savoy, họ có với nhau 4 người con trai. Hai người con trai còn sống đến tuổi trưởng thành của họ trở thành 2 vị vua tương lai của Tây Ban Nha, gồm có Louis I và Ferdinand VI. Maria Luisa qua đời năm 1714, và Felipe tái hôn với Elisabeth Farnese của Gia đình hoàng gia Parma. Felipe và Elisabeth có 7 người con, trong đó người con trai lớn nhất sẽ trở thành vua Carlos III của Tây Ban Nha trong tương lai. Do chứng trầm cảm của Felipe, Vương hậu Elisabeth đã nắm quyền kiểm soát chính phủ Tây Ban Nha. Khi Felipe qua đời năm 1746, con trai ông là Ferdinand kế vị. Các vương tộc cai trị Vương quốc Hai Sicilie và Công quốc Parma đều đến từ các hậu duệ của Felipe với người vợ thứ 2.

Triều đại của Felipe thường bị các nhà sử học chỉ trích, mặc dù đôi khi cũng được khen ngợi dành cho những cải cách của ông. Nhà sử học Stanley G. Payne đã viết rằng "Felipe V là một nhà cai trị loạn thần, hay dao động, chỉ quan tâm đến lịch sự bên ngoài và chỉ dũng cảm trong trận chiến. Ông ấy không hiểu nhiều về lợi ích và nhu cầu của người Tây Ban Nha."

Thời niên thiếu

Philippe chào đời ở Cung điện Versailles tại Pháp. Ông là con trai thứ hai của Louis của Pháp, Đại Trữ quân, người thừa kế ngai vàng Pháp, với Thái tử phi Maria Anna Victoria xứ Bayern, Dauphine Victoire. Anh trai của Philippe là Louis, Công tước Burgundy, phụ thân Louis XV của Pháp. Khi đủ tuổi, Philippe được tấn phong tước vị Công tước xứ Anjou, danh hiệu truyền thống dành cho người con thứ trong Vương thất Pháp. Ông thường được gọi với tên gọi này trước khi trở thành vua Tây Ban Nha. Bởi vì anh trai của Philippe là người đứng thứ hai trong danh sách kế vị ngôi vua ở Pháp sau phụ thân ông, nên rất ít hi vọng để cho cả ông và em trai là Charles, Công tước xứ Berry, có thể kế vị ở Pháp.

Felipe cùng với các anh em của ông được giáo dưỡng bởi gia sư François Fénelon, Đại Giám mục Cambrai. Ba người cũng có một gia sư khác là Paul de Beauvilliers.

Tuyên bố ngôi vua Tây Ban Nha

thumb|Felipe V tuyên bố là Vua của Tây Ban Nha tại [[Cung điện Versailles ngày 16 tháng 11 năm 1700.]]

Năm 1700, Carlos II của Tây Ban Nha qua đời mà không để lại hậu duệ. Khi đó Felipe không có nhiều cơ hội thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha, vì bà nội ông, María Teresa của Tây Ban Nha, con gái vua Felipe IV với người vợ đầu tiên là Élisabeth của Pháp, đã từ bỏ quyền kế vị. María Teresa là chị gái cùng cha khác mẹ của vua Carlos II. Trên thực tế, tổ phụ của ông, vua Louis XIV cùng các quân vương khác ở châu Âu đã đồng ý rằng ngai vàng sẽ thuộc về José Fernando. Hiệp ước đầu tiên phân chia Tây Ban Nha, được ký tại The Hague trong năm 1698 theo đóo José Fernando sẽ là vua của toàn bộ Tây Ban Nhao trừ Guipuzcoa - và Sardinia, Hà Lan thuộc Tây Ban Nha và các lãnh thổ ở Bắc Mĩ. Pháp được trao Guipuzcoa, Naples và Sicily, trong khi Áo sẽ chiếm Milanesado.

Cái chết của José Fernando làm thất bại kế hoạch. Lúc đó ý muốn của nhà vua là truyền ngôi cho Philippe, cháu nội của người chị cùng cha khác mẹ của ông, María Teresa của Tây Ban Nha bà là vương hậu của vua Louis XIV.

Hiệp ước phân chia Tây Ban Nha lần thứ hai được ký kết năm 1700, theo đó toàn bộ vương quốc, thuộc Tây Ban Nha, Naples, Sicily và Tuscany sẽ cho Thái tử Pháp, trong khi Hoàng đế Leopold, Công tước xứ Lorraine, nhận Milanesado để đổi lấy việc nhượng Lorraine và Bar để cho Thái tử Pháp. Nhưng nếu cả hai Hà Lan và Anh đã hài lòng với thỏa thuận này, hoàng đế không đồng tình và tuyên bố toàn bộ thừa kế Tây Ban Nha. Carlos quyết định chọn Philippe vì ông cho rằng Louis XIV sẽ có thể giúp vương quốc của ông không bị phân chia sau này

Sau khi Hội đồng Hoàng gia họp ở Pháp mà tại đó Thái tử đã tuyên bố ủng hộ quyền kế vị của con trai mình, và Philippe đã được công nhận là người nối ngôi ở Tây Ban Nha, nhưng phải từ bỏ quyền kế vị ở Pháp cho chính ông và con cháu của ông. Tin tức truyền về Versailles, ngày 16 tháng 11, vua Louis XIV đưa cháu trai của ông đến Tây Ban Nha và tuyên bố: "Thưa các ngài, đây là vua Tây Ban Nha". Sau đó ông nói với Philippe (kể từ giờ gọi là Felipe): "Hãy cai trị thật tốt Tây Ban Nha, đó là nhiệm vụ đầu tiên của con, nhưng hãy nhớ rằng con chào đời ở Pháp, và phải duy trì mối quan hệ giữa hai nước chúng ta, đây là cách để làm cho thần dân hạnh phúc và gìn giữ hòa bình ở châu Âu"

Sau đó, tất cả các nước châu Âu đều công nhận vua Felipe, trừ Hoàng đế nhà Habsburg. Felipe V rời Versailles vào ngày 4 và đặt chân lên Tây Ban Nha ngày 22 tháng 1 năm 1701, ca khải hoàn vào thành Marrid ngày 18 tháng 12.

Hôn nhân thứ nhất

Ngày 2 tháng 11 năm 1701, Felipe thành hôn với công chúa 13 tuổi Maria Luisa xứ Savoy, người được ông nội ông lựa chọn. Bà là con gái của Victor Amadeus II, Công tước Savoy, và dì họ của ông là Anne Marie d'Orléans, họ cũng là cha mẹ của Công nương Burgundy, chị dâu của Felipe. Họ tổ chức lễ kết hôn thông qua đại diện tại Turin, thủ đô của Công quốc Savoy, và một buổi lễ khác ở Versailles ngày 11 tháng 9.

Là Hoàng hậu Tây Ban Nha, Maria Luisa rất được lòng thần dân. Bà làm Nhiếp chính cho chồng nhiều lần. Lần thành công nhất là khi Felipe viễn chinh ở Ý trong 9 tháng năm 1702. Năm 1714, Hoàng hậu qua đời ở tuổi 26 vì bệnh lao, khiến chồng bà suy sụp về tinh thần.

Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha

thumb|Felipe V của Tây Ban Nha thumb|[[Xu bạc: 8 Real của Tân Tây Ban Nha được đúc dưới thời trị vị thứ 2 của Felipe V]] thumb|Felipe V của Tây Ban Nha trong trang phục thợ săn thumb|Felipe (bên phải) trong [[Trận Villaviciosa]] Những hành động của Louis XIV gây ra nỗi sợ hãi cho người Anh, người Hà Lan và người Áo. Tháng 2 năm 1701, Louis XIV triệu tập Pháp viện ở Paris để thông cáo một sắc lệnh rằng nếu anh trai của Felipe, Hoàng tôn Louis, chết mà không có con cái, thì Felipe sẽ rời bỏ ngai vàng Tây Ban Nha để kế vị ở Pháp, đảm bảo sự liên tục cho triều đại lớn nhất ở châu Âu lúc đó. thumb|left|A breech loading [[miquelet musket with a reusable cartridge, used by Philip V, made by A. Tienza, Madrid, circa 1715]]

Tuy nhiên, một đạo luật thứ hai của nhà vua Pháp "biện minh một cách giải thích thù địch": theo một hiệp ước với phía Tây Ban Nha, Louis chiếm giữ nhiều vùng trên đất Hà Lan thuộc Tây Ban Nha (nay thuộc Bỉ và Nord-Pas-de-Calais). Đó là ngòi kích nổ cho những vấn đề chưa được giải quyết trong Chiến tranh Liên minh Augsburg (1689–97) và sự chấp nhận việc thừa kế ở Tây Ban Nha của Louis cho đứa cháu trai.

Gần như ngay lập tức Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha bùng nổ. Lo lắng việc Pháp-Tây Ban Nha hợp nhất dưới vương triều Bourbon sẽ phá vỡ thế cân bằng quyền lực và một đế quốc rộng lớn sẽ nuốt chửng châu Âu của các cường quốc Anh, Hà Lan và Áo là nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến.

Bên trong Tây Ban Nha, các quý tộc Castile ủng hộ Felipe của Pháp. Trái lại, các quý tộc Aragon ủng hộ Karl của Áo, con trai Hoàng đế Leopold I và tuyên bố ngai vàng Tây Ban Nha đáng lý phải truyền cho hậu duệ Công chúa Maria Anna của Tây Ban Nha. Karl được tôn làm Vua của Aragon với vương hiệu Carlos III.

Cuộc chiến tranh diễn ra ở trung tâm và miền tây châu Âu (đặc biệt là Vùng đất thấp), với chiến trường chính là Đức và Ý. Hoàng thân Eugene xứ Savoy và Công tước Marlborough là chỉ huy lực lượng hai phe ở Vùng đất thấp. Tại các thuộc địa Bắc Mỹ, cuộc xung đột chủ yếu là thực dân Anh chiến đấu chống Pháp và Tây Ban Nha trong cuộc chiến gọi là Chiến tranh Nữ hoàng Anne. Trong suốt cuộc chiến, có tới hơn 400,000 người đã thiệt mạng.

Đối mặt với cuộc chiến, từ năm 1707, Felipe ban hành Sắc lệnh Nueva Planta, theo đó tập trung thống trị Tây Ban Nha dưới mô hình chính trị và hành chính xứ Castilia và bãi bỏ điều lệ các vương quốc được tự trị thuộc Tây Ban Nha như Vương quốc Aragón, nơi ủng hộ Karl VI trong cuộc chiến—ngoại trừ Vương quốc Navarre và phần còn lại của xứ Basque, những nơi ủng hộ Felipe là vua của họ trong cuộc chiến tranh, và họ được quyền bán tự trị. Các chính sách này phỏng theo mô hình ở Pháp dưới thời Louis XIV và được ủng hộ bởi các chính trị gia như Joseph de Solís và sự ra đời của Sardinia, triết học chính trị Vicente Bacallar.

Tại một vài thời điểm năm 1712, Felipe được đề nghị từ bỏ ngôi vua Tây Ban Nha để trở thành thái tử Pháp, nhưng ông từ chối.

Felipe quyết định từ bỏ quyền kế vị ở Pháp với một điều kiện: sự ra đời của Đạo luật bán-Salic ở Tây Ban Nha. Theo luật này, ngai vàng của Tây Ban Nha chỉ giới hạn trong con cháu dòng nam của ông trước khi nó được trao cho phụ nữ, một điều kiện mà ông đã trình bày trong Hiệp ước Utrecht. Nó không được đồng ý cho đến khi Hiệp ước được ký kết (10 tháng 5 năm 1713) theo đó Tây Ban Nha và Liên hiệp Anh thiết lập hòa bình với Hiệp ước Utrecht thứ 2 (thêm Đạo luật mới vào Hiệp ước). Theo các điều khoản của Hiệp ước Utrecht nhằm chấm dứt chiến tranh, Tây Ban Nha buộc phải cắt nhường Minorca và Gibraltar cho Liên hiệp Anh; Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, Naples, Milan, và Sardinia cho nhà Habsburg; và Sicily và một phần Milan cho Savoy. thumb|Portrait of Philip V of Spain exhibited upside down in the , [[Xativa, for having burned the city in 1707.]]

Tây Ban Nha phải hứng chịu những tổn thất rất lớn, làm địa vị của đế quốc này đã suy yếu lại càng suy yếu hơn. Trong suốt thời gian cai trị, Felipe tìm cách giành lại địa vị cho đế quốc Tây Ban Nha. Cố gắng để đảo ngược các điều khoản của Hiệp ước Utrecht, ông tái tuyên bố chủ quyền của người Tây Ban Nha ở Ý, gọi là Chiến tranh Liên minh bốn bên (1718-1720) mà Tây Ban Nha phải chiến đấu với 4 cường quốc. Felipe V phải chấp nhận lập lại hòa bình.

Felipe V hỗ trợ thương mại với tài sản của Tây Ban Nha ở lục địa Mỹ. Vào thời điểm này, những nhân vật quan trọng của lịch sử hải quân Tây Ban Nha xuất hiện, trong số đó có tên cướp biển Amaro Pargo mà nhà vua được hưởng lợi trong các cuộc xâm lược thương mại và cướp biển của mình.

Hôn nhân thứ hai

Không lâu sau cái chết của hoàng hậu Maria Luisa năm 1714, Nhà vua quyết định tái hôn. Vợ thứ hai của ông là Elisabeth xứ Parma, con gái Odoardo Farnese, Hoàng thân kế vị Parma, và Dorothea Sophie xứ Palatinate. Ở tuội 21, ngày 24 tháng 12 năm 1714, bà kết hôn thông qua đại diện ở Parma. Chủ hôn là Hồng y Alberoni, với sự đồng ý của Công nương Ursins, Camarera mayor de Palacio ("quản gia") của Nhà vua Tây Ban Nha.

Thoái vị

Ngày 14 tháng 1 năm 1724, Felipe thoái vị và nhường ngôi cho vương trưởng tử 17 tuổi là Luis, lý do của hành động này còn đang bị tranh cãi. Một giả thuyết cho rằng Felipe V, người đã biểu hiện nhiều yếu tố bất ổn về tinh thần trong suốt triều đại của ông, không muốn cai trị do đầu óc căng thẳng. Giả thuyết thứ hai cho rằng sự thoái vị này đến từ nội bộ gia tộc Bourbon. Các thành viên trong hoàng gia Pháp gần dây tử vong rất nhiều do bệnh tật. Thật vậy, Felipe thoái vị chỉ một tháng sau cái chết của Công tước xứ Orléans, người nhiếp chính cho vua Louis XV. Việc thiếu người thừa kế có thể dẫn đến nguy cơ về cuộc chiến tranh mới trên lục địa. Felipe là một hậu duệ hợp pháp của Louis XIV, nhưng vấn đề trở nên phức tạp bởi Hiệp ước Utrecht, cấm một liên minh cá nhân giữa Pháp và Tây Ban Nha. Giả thuyết giả định rằng Felipe V hy vọng rằng bằng cách thoái vị ở Tây Ban Nha, ông có thể phá vỡ Hiệp ước và được quyền lên ngôi vua ở Pháp..

Tuy nhiên, Luis chết ngày 31 tháng 8 năm 1724 ở Madrid vì bệnh đậu mùa, chỉ trị vì 7 tháng và không có con nối. Felipe buộc phải lên ngôi lần thứ hai vì vương tử thứ hai của ông, về sau là vua Fernando VI, chưa đến tuổi trưởng thành.

Thời kì cuối

thumb|left|Một nửa đồng xu vàng tin hình Felipe, năm [[1743.]] Felipe giúp đỡ vương tộc Bourbon của ông mở rộng lãnh thổ trong Chiến tranh Kế vị Ba Lan và Chiến tranh Kế vị Áo bằng cách chinh phục Naples và Sicily từ Áo và Oran từ Đế chế Ottoman. Cuối cùng, vào cuối triều đại của ông quân Tây Ban Nha cũng đã bảo vệ thành công thuộc địa Mĩ sau một cuộc xâm lược lớn của Anh trong Chiến tranh Jenkins' Ear.

Dưới thời Felipe, Tây Ban Nha bắt đầu phục hồi từ sự trì trệ mà nó đã phải gánh chịu trong suốt vương triều Habsburg thống trị. Mặc dù dân số Tây Ban Nha tăng lên, hệ thống tài chính và thuế quá lạc hậu và ngân sách vị thâm hụt. Những người hầu hạ trong cung được trả lương cao không phải vì có công cai trị đất nước, mà là vì chăm sóc hoàng gia. Quân đội và quan liêu không có đủ lương và ngân khố lại dựa vào các lô bạc từ Tân Thế giới. Tây Ban Nha bị đình chỉ thanh toán nợ năm 1739-dâu hiệu của sự vỡ nợ..

Cái chết

thumb|Mộ phần của Felipe V và Elizabeth Farnese tại Nhà thờ Collegiate thuộc Holy Trinity, trong [[Cung điện hoàng gia La Granja de San Ildefonso (Segovia).]]

Vào cuối đời, Felipe bị chứng trầm cảm và ngày càng rơi vào trạng thái u uất. Từ tháng 8 năm 1737, bệnh tình của ông dịu đi khi ca sĩ castrato Farinelli, trở thành "Musico de Camara của Đức vua Bệ hạ." Farinelli hát tám đến chín ca khúc cho vua và hoàng hậu mỗi đêm, thường là với 3 nhạc sĩ.

**Con cái của Felipe V và Esabetta Farnese**.

Di sản

Các sử gia đã không đánh giá cao nhà vua. Lynch cho biết chính phủ của Felipe V chỉ nhỉnh hơn người tiền nhiệm của ông, vị vua bất lực Carlos II. Khi có xung đột nảy ra giữa Tây Ban Nha và Pháp, ông thường ủng hộ Pháp. Tuy nhiên Felipe cũng đã thực hiện một số cải cách trong chính phủ, và củng cố quyền lực của chính quyền trung ương so với địa phương. Dù có một số người thuộc tầng lớp trung lưu có thể vào triều, nhưng hầu hết các vị trí cao cấp vẫn trao cho tầng lớp quý tộc. Nhũng nhiễu và tham nhũng tồn tại dưới Carlos đã gia tăng dưới thời Felipe V. Các cuộc cải cách bắt đầu bởi chính ông tiếp tục phát triển đến đỉnh cao dưới thời Carlos III.. Nhìn về tổng thể nền kinh tế, tiến bộ hơn so với nửa thế kỷ trước, với năng suất kinh tế cao hơn, ít đói kém và dịch bệnh. thumb|left|Tranh biếm họa vua Felipe V của Tây Ban Nha

Để tưởng nhớ về sự sỉ nhục mà nhà vua đã dành cho thành phố Xàtiva; trong một lần quân Tây Ban Nha giành chiến thắng tại trận Almansa trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, Felipe đã hạ lệnh thiêu rụi thành phố và đổi tên nơi đây thành San Felipe; người dân nơi đây đã dựng lên một bức chân dung lộn ngược của nhà vua, hiện nay nó được trưng bày ở bảo tàng L'Almodí.

Tất cả các con cháu hợp pháp còn sống sót của Louis XIV ngày hôm nay đều là hậu duệ của Felipe V.

Huy hiệu

Tổ tiên

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Felipe III của Tây Ban Nha** (; 14 tháng 4 năm 1578 – 31 tháng 3 năm 1621) là Vua của Tây Ban Nha (_Felipe III_ ở Castilla và _Felipe II_ ở Aragón) và Bồ
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Fernando VI** (tiếng Anh: Ferdinand VI, 23 tháng 9 năm 1713 – ngày 10 tháng 8 năm 1759), có biệt danh là "el Prudente" (người có học) và "el Justo" (người công chính), là vua
**María Teresa Antonia Rafaela của Tây Ban Nha, Trữ phi nước Pháp** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa Rafaela de España_; 11 tháng 6 năm 1726 – 22 tháng 7 năm 1746), là con gái
**Luis I** **của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Luis Felipe_; 25 tháng 8 năm 1707 – 31 tháng 8 năm 1724) là vua Tây Ban Nha tại vị từ ngày 15 tháng 1
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Antonia Fernanda de España_; 17 tháng 11 năm 1729 – 19 tháng 9 năm 1785 ) là con gái út của Felipe V
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Carlos IV** (Tiếng Anh: Charles IV, Tiếng Tây Ban Nha: Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno José Januario Serafín Diego; sinh 11/11/1748 - mất 20/01/1819) là vua của Vương quốc Tây Ban Nha và
phải|nhỏ|299x299px| Vương huy của Vương tử Gabriel của Tây Ban Nha. **Gabriel của Tây Ban Nha** (tên đầy đủ: _Gabriel Antonio Francisco Javier Juan Nepomuceno José Serafín Pascual Salvador_; 12 tháng 5 năm 1752 –
**Juan Carlos I** (; ; ; ; ; ; tên rửa tội _Juan Carlos Alfonso Víctor María de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; sinh ngày 5 tháng 1 năm 1938 tại Roma, Ý) là vua Tây
**Đông Ấn Tây Ban Nha** (; tiếng Filipino: _Silangang Indiyas ng Espanya_) là lãnh thổ Tây Ban Nha tại Châu Á-Thái Bình Dương từ 1565 đến 1899. Bao gồm Philippines, Quần đảo Mariana, the Quần
**Vua Tây Ban Nha** (), hiến pháp gọi là **Ngôi vua** (la Corona) và thường được gọi **chế độ quân chủ Tây Ban Nha** (Monarquía de España) hoặc **chế độ quân chủ Hispanic** (Monarquía Hispánica)
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
Đây là **danh sách ­­­­­vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
**Vương tộc Borbón**, hay **Borbón-Anjou**, là vương tộc hiện đang trị vì Tây Ban Nha, xuất phát từ Vương tộc Bourbon có nguồn gốc từ Pháp, khi Philippe của Pháp, Công tước xứ Anjou trở
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
**Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha** (1625–1630) là một cuộc chiến do Tây Ban Nha phát động nhằm chống lại Vương quốc Anh và Các tỉnh Liên hiệp. Cuộc xung đột này thuộc một phần của
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**Chủ tịch Chính phủ Tây Ban Nha** (), thường được gọi là **thủ tướng Tây Ban Nha**, là người đứng đầu chính phủ của Tây Ban Nha. Chủ tịch Chính phủ bổ nhiệm các bộ
**Tây Ban Nha Habsburg** đề cập đến lịch sử Tây Ban Nha trong thế kỷ 16 và 17 (1516-1700), khi nó được cai trị bởi các vị vua từ nhà Habsburg (cũng liên quan đến
**Tây Ban Nha thời Franco** () hoặc **Chế độ độc tài Francisco Franco** (), chính thức được gọi là **Quốc gia Tây Ban Nha** (), là thời kỳ lịch sử Tây Ban Nha từ năm
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**Mariana Vitória của Bồ Đào Nha** (hoặc của Bragança; ; tên đầy đủ: _Mariana Vitória Josefa Francisca Xavier de Paula Antonieta Joana Domingas Gabriela de Bragança_ ; ; 15 tháng 12 năm 1768 – 2
**Các lâu đài ở Tây Ban Nha** được xây dựng với mục đích phòng thủ. Trong suốt thời kì Trung Cổ, các vương quốc Kitô phía bắc tranh chấp biên giới lãnh thổ với các
Sau đây là cây gia phả của các vị Vua Tây Ban Nha bắt đầu từ Isabel I của Castilla và Ferrando II của Aragon cho đến ngày nay. Các vương quốc trước đây là
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Élisabeth của Pháp** hay **Isabelle của Bourbon** (22 tháng 11 năm 1602 – 6 tháng 10 năm 1644) là con gái của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici cũng như là Vương hậu
**Louise Élisabeth của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Élisabeth d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa Isabel de Orleans_; 9 tháng 12 năm 1709 – 16 tháng 6 năm 1742) là Vương hậu Tây Ban Nha với
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Isabel của Parma** hay **Isabella xứ Parma** (tiếng Tây Ban Nha: Isabel María Luisa Antonieta Fernanda Josefa Javiera Doménica Juana; tiếng Ý: Isabella Maria Luisa Antonietta Ferdinanda Giuseppina Giuseppa Saveria Dominica Giovanna; 31 tháng 12
**Alcázar của Sevilla** (tiếng Tây Ban Nha: "Alcázares Reales de Sevilla" tức "Alcazars vương thất của Sevilla") là một dinh vương thất ở thành phố Sevilla, Tây Ban Nha. Dinh này gốc là một lâu
**Bárbara của Bồ Đào Nha** hay **Maria** **Bárbara của Bồ Đào Nha** (; tên đầy đủ: _Maria Madalena Bárbara Xavier Leonor Teresa Antónia Josefa_; 4 tháng 12 năm 1711 – 27 tháng 8 năm 1758)
**Louis Ferdinand của Pháp** (4 tháng 9 năm 1729 – 20 tháng 12 năm 1765) là con trai duy nhất còn sống đến tuổi trưởng thành của Louis XV của Pháp và Maria của Ba
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
thumb|right|Bìa các sắc lệnh Nueva Planta của Catalonia **Các sắc lệnh của Nueva Planta** (tiếng Tây Ban Nha: _Decretos de Nueva Planta_, tiếng Catalunya: _Decrets de Nova Planta_) là một số sắc lệnh được ký
**Élisabeth của Pháp** hay còn biết đến với tên gọi là **Élisabeth của Valois** hay **Isabel của Hòa Bình** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_/_Isabel de Valois_/_Isabel de la Paz_; tiếng Pháp: _Élisabeth de
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
**Anna của Áo** (, ; 2 tháng 11 năm 1549 – 26 tháng 10 năm 1580), là Nữ Đại vương công Áo, sau thành Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ
**Sebastião I của Bồ Đào Nha** (, _o Desejado_; born in Lisbon, 20 tháng 1, 1554; được coi là mất tại Alcácer-Quibir, 4 tháng 8, 1578) là vị vua thứ 16 của Bồ Đào Nha
_Dom_ **João IV** (; (19 tháng 3 năm 1604 – 6 tháng 11 năm 1656), hay còn được gọi với biệt danh **João Người** **Khôi phục** (_João, o Restaurador_), là Vua của Bồ Đào Nha
**Isabel I của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: Isabel I de Castilla; tiếng Bồ Đào Nha: _Isabel I de Castela_; tiếng Anh: _Isabella of Castile_; tiếng Đức: _Isabella I. von Kastilien_; tiếng Pháp: _Isabelle Ire
**Ferrando II của Aragón** (tiếng Aragón: Ferrando II d'Aragón, tiếng Tây Ban Nha: Fernando II de Aragón, ; 10 tháng 3 năm 1452 - 23 tháng 1 năm 1516), còn gọi là **Fernando el Católico
Vua **João III của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _João III de Portugal_; tiếng Tây Ban Nha: _Juan III de Portugal_; tiếng Anh: _John III of Portugal_; 7 tháng 6, 1502- 11 tháng
**Elisabetta Farnese** hay **Elisabetta xứ Parma** (tiếng Ý: _Elisabetta Farnese_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Farnesio_; 25 tháng 10 năm 1692 - 11 tháng 7 năm 1766) là vợ thứ 2 của Vua Felipe V,