Louise Élisabeth của Pháp (Marie Louise-Élisabeth; ; ; ; 14 tháng 8 năm 1727 – 6 tháng 12 năm 1759) là Vương nữ Pháp và là fille de France (Con gái nước Pháp). Louise Élisabeth là con gái cả của Louis XV của Pháp và Maria của Ba Lan, là chị sinh đôi của Henriette của Pháp. Năm 1748, Élisabeth kết hôn với Felipe của Tây Ban Nha, người thừa kế Công quốc Parma và Piacenza thông qua mẹ là Elisabetta Farnese vào năm 1748, và là em họ của Louis XV. Kể từ đó, Élisabeth và chồng đã thành lập nên Vương tộc Borbone-Parma. Từ năm 1748 đến năm 1759, Louise Élisabeth còn là người cai trị trên thực tế của Công quốc Parma.
Đầu đời
liênkết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Attribu%C3%A9%C3%A0_Pierre_Gobert,_Louise-%C3%89lisabeth_de_France_et_sa_soeur_jumelle_Henriette_deFrance(vers_1737).jpg|trái|nhỏ|238x238px|Élisabeth (trái) và Henriette của Pháp, 1737
Marie Louise-Élisabeth và em gái song sinh Henriette sinh ra tại Cung điện Versailles vào ngày 14 tháng 8 năm 1727 với Louis XV của Pháp và Maria của Ba Lan. Cùng với người em sinh đôi của mình, Élisabeth được rửa tội tại Versailles vào ngày 27 tháng 4 năm 1737 với tên của cha mẹ. Là con gái hợp pháp của Nhà vua, Élisabeth là fille de France, nhưng được biết đến tại triều đình với tên gọi Madame Royale, Madame Première, Madame Élisabeth, và được gọi là Babette trong gia đình .
Élisabeth được chăm sóc bởi Marie Isabelle de Rohan, Công tước phu nhân xứ Tallard. Élisabeth được nuôi dưỡng tại Versailles cùng Henriette, các em gái là Marie Louise, Marie Adélaïde và em trai là Louis, Trữ quân nước Pháp. Các em gái của Élisabeth là Victoire, Sophie, Marie Thérèse và Louise Marie, được gửi đến nuôi dưỡng tại Tu viện Fontevraud vào tháng 6 năm 1738.
Élisabeth được coi là không xinh đẹp bằng người em sinh đôi Henriette: mũi bà bị cho là quá ngắn và quá rộng; khuôn mặt quá đầy đặn; trán cao; nước da ngăm đen và đôi khi có đốm. Trong thời gian tại Versailles, Élisabeth dành phần lớn thời gian ở bên cha là Nhà vua, người đến thăm bà nhiều lần mỗi ngày qua cầu thang riêng để thảo luận công việc, trong khi Élisabeth cũng thường xuyên đến thăm mẹ là Maria, người mà Élisabeth vẫn duy trì mối quan hệ tình cảm và thư từ khi ở Tây Ban Nha và sau đó là Parma. Élisabeth đã thành công đạt được mục tiêu của mình khi cha bà ban tặng hai trăm nghìn franc cho Công tước xứ Parma. Trước khi cựu công tước là anh trai của Felipe, Carlos, rời đi để trở thành vua của Napoli, ông đã tước bỏ hầu hết đồ trang trí nội thất và đồ đạc trong cung điện, và dinh thự cũng không có vườn. Élisabeth chi ra rất nhiều tiền để xây dựng dinh thự và cung điện theo sở thích của bà. Toàn bộ sự sắp xếp và sơ đồ của dinh thự được thiết kế lại, và Élisabeth còn tổ chức các buổi lễ cung đình và tổ chức nhiều lễ hội như opera sáu lần một tuần và các chuyến đi đến dinh thự thứ hai tại Colorno và Piacenza. Để củng cố địa vị của công quốc, Élisabeth đưa vào đây một trung đoàn gồm một trăm lính carabinier và một trung đoàn curassier, mặc dù trong thực tế công quốc về mặt hình thức nằm dưới sự bảo vệ của Pháp và Tây Ban Nha.
Với tư cách là Công tước phu nhân xứ Parma, Élisabeth tích cực tham gia vào các công việc nhà nước. Felipe không bao giờ đàm phán bất kỳ công việc kinh doanh nào mà không tham khảo ý kiến của vợ, và ngược lại Élisabeth cũng không bao giờ đưa ra quyết định mà không cân nhắc đến quan điểm của nước Pháp và các cố vấn người Pháp của mình. Hầu hết các quan chức của triều đình và chính phủ đều là người Pháp, và tiếng Pháp là ngôn ngữ được sử dụng tại triều đình ngay cả với Felipe, trong khi bản thân Élisabeth cũng thể hiện rõ ràng sự ủng hộ đối với tiếng Pháp. Ảnh hưởng của Pháp ở Parma không được ưa chuộng, và dư luận phản đối cả những người cai trị Pháp và Tây Ban Nha.
Người em sinh đôi của Élisabeth là Henriette qua đời năm 1752, và Élisabeth trở về Pháp vào tháng 9, viếng thăm mộ của em gái tại Saint-Denis và ở lại Versailles gần một năm. Élisabeth mang theo công tước xứ Noailles, người đã hỗ trợ Công tước phu nhân trong các giao dịch chính trị mà bà đã thực hiện với cha trong thời gian ở đây, giúp Élisabeth điều hướng giữa các phe phái trong triều đình. Élisabeth trình bày với Louis XV và các bộ trưởng của nhà vua một báo cáo về tình hình của Parma, nhấn mạnh đến nhu cầu tài chính của công quốc. Vị công tước xứ Noailles được cử đến gặp đại sứ Pháp tại Madrid để mở các cuộc đàm phán giữa Pháp và Tây Ban Nha về các đóng góp của Công quốc Parma vào tháng 1 năm 1753, trong đó Élisabeth tham gia với tất cả các mối liên hệ của bà tại Pháp và Tây Ban Nha, ủng hộ đề xuất của Pháp rằng nước này và Tây Ban Nha sẽ chia sẻ chi phí của Công quốc Parma nếu Tây Ban Nha có thể đảm bảo nền độc lập của Élisabeth. Theo hiệp định Pháp-Tây Ban Nha năm 1753, Công quốc Parma được cấp hai mươi lăm nghìn franc, hai triệu tiền thuế và hỗ trợ bổ sung khi cần, ngoài ra còn chính thức hóa và hợp pháp hóa ảnh hưởng của Pháp tại Parma, và Élisabeth được ca ngợi tại Pháp vì đã bảo đảm được ảnh hưởng của Pháp tại nước ngoài thông qua thỏa thuận này, trong đó vương nữ đóng vai trò quan trọng.
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:La_famiglia_di_Don_Filippo_di_Borbone_by_Giuseppe_Baldrighi_(C._1757).jpg|trái|nhỏ|250x250px|Élisabeth cùng chồng là [[Filippo I xứ Parma|Filippo, Công tước xứ Parma, và các con Ferdinando và Maria Luisa, Isabel mặc một chiếc váy màu tím; bởi Giuseppe Baldrighi.]]
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Louise_Elisabeth_de_France..._-_Adelaide_Labille-Guiard.png|phải|nhỏ|300x300px|Chân dung sau khi qua đời của Louise Élisabeth cùng con trai, bởi [[Adélaïde Labille-Guiard. Bức chân dung được em gái bà đặt vẽ vào năm 1787; bóng tối trên khuôn mặt và trên tường có thể tượng trưng cho cái chết.]]
Élisabeth trở về Parma vào tháng 10 năm 1753, và khi trở về, bà bổ nhiệm Guillaume du Tillot làm bộ trưởng chính và người quản lý công quốc, đảm bảo chính sách thân Pháp của mình cũng như đánh dấu sự chinh phục trên thực tế của Pháp đối với Parma. Trong chính sách của mình, Élisabeth nỗ lực giải phóng Parma khỏi ảnh hưởng của Tây Ban Nha. Trong đó bà đảm bảo quyền kế vị công quốc cho con trai và nếu có thể là giành được ngôi vị lớn hơn với sự giúp đỡ của Pháp, và đảm bảo các cuộc hôn nhân cho những người con gái. Theo tham vọng của mình, Élisabeth coi Tây Ban Nha là kẻ thù và do đó ủng hộ Hiệp ước Versailles (1756), liên minh Pháp với Áo. Hiệp ước đề xuất rằng Áo sẽ nhượng lại Hà Lan thuộc Áo làm vương quốc cho Felipe, điều này thậm chí còn có lợi hơn cho Pháp so với việc để Parma làm chư hầu, một kế hoạch được cả Élisabeth và Louis XV ủng hộ. Trong kế hoạch này, bà hợp tác với Madame de Pompadour để bảo đảm liên minh Pháp-Áo, và họ cũng cùng nhau ủng hộ Étienne François de Choiseul, Công tước xứ Choiseul.
Élisabeth trở lại Pháp một lần nữa vào tháng 9 năm 1757 để tham dự các cuộc đàm phán giữa Pháp và Áo. Bà ủng hộ mong muốn của Áo là biến Hà Lan thuộc Áo thành một vương quốc cho Felipe để đổi lấy việc giành lại Silesia từ Phổ với sự hỗ trợ của Pháp, vì điều đó có nghĩa là Tây Ban Nha sẽ giành được độc lập cuối cùng, nhưng không thành công. Trong hiệp ước giữa Tây Ban Nha và Áo ngày 3 tháng 10 năm 1759, được Choiseul ủng hộ, quyền của Felipe trong Hiệp ước năm 1748 là kế vị ngai vàng của Napoli và Sicilia trong trường hợp anh trai ông là Carlos thừa kế ngai vàng của Tây Ban Nha, điều này khiến Élisabeth vô cùng thất vọng. Trong thời gian ở Pháp, Élisabeth giữ liên lạc với Felipe qua thư và thông báo cho ông về các hành động, cuộc đàm phán, hy vọng và thành công của mình, cũng như các ý định và hành động của chính phủ Louis. Trong thời gian này, Élisabeth cũng bổ nhiệm triết gia Étienne Bonnot de Condillac làm gia sư cho con trai mình bất chấp sự phản đối của các tu sĩ Dòng Tên, và sắp xếp cuộc hôn nhân của con gái Isabel với Đại vương công Joseph của Áo, diễn ra vào năm 1760.
Élisabeth lâm bệnh khi ở Versailles và được chính mẹ bà là Vương hậu Maria chăm sóc. Élisabeth qua đời vì bệnh đậu mùa vào ngày 6 tháng 12 năm 1759 và được chôn cất vào ngày 27 tháng 3 năm 1760 tại Vương cung thánh đường Thánh Denis bên cạnh người em sinh đôi Henriette. Vào năm 1793, ngôi mộ của hai chị em đã bị xâm phạm trong cuộc Cách mạng Pháp.
Con cái
- Isabel (1741–1763); kết hôn với Hoàng đế Áo tương lai là Joseph, anh trai của Marie Antoinette, Maria Karolina và Maria Amalia. Có con cái.
- Ferdinando (1751–1802); người kế vị cha tước hiệu Công tước xứ Parma vào năm 1765 và kết hôn với Nữ Đại vương công Maria Amalia của Áo, em dâu của Isabel. Có con cái.
- Luisa Maria (1751–1819); được gọi là María Luisa, kết hôn với anh họ là Infante Carlos của Tây Ban Nha, và sau đó trở thành Vương hậu của Tây Ban Nha. Có con cái.
Tổ tiên
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Louise Élisabeth của Pháp** (Marie Louise-Élisabeth; ; ; ; 14 tháng 8 năm 1727 – 6 tháng 12 năm 1759) là Vương nữ Pháp và là _fille de France_ (_Con gái nước Pháp_). Louise Élisabeth
**Louise Élisabeth của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Élisabeth d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa Isabel de Orleans_; 9 tháng 12 năm 1709 – 16 tháng 6 năm 1742) là Vương hậu Tây Ban Nha với
**Marie Louise Élisabeth, Mademoiselle d'Orléans** (20 tháng 8 năm 1695 – 21 tháng 7 năm 1719), hay còn được gọi là **Louise Élisabeth, Công tước phu nhân xứ Berry** là Công tước phu nhân xứ
**Marie Louise của Pháp** (; 28 tháng 7 năm 1728 – 19 tháng 2 năm 1733) là Vương nữ Pháp và là _fille de France_ (Con gái nước Pháp). Marie Louise là con gái của
**Charles của Pháp, Công tước xứ Berry** (; 31 tháng 7 năm 1686 – 5 tháng 5 năm 1714) là cháu trai của Louis XIV của Pháp. Mặc dù là cháu trai của Nhà vua,
**Anne Henriette của Pháp** (; 14 tháng 8 năm 1727 – 10 tháng 2 năm 1752) là Vương nữ Pháp và là _fille de France_ (con gái nước Pháp). Henriette là người con thứ hai
**Louise Diane của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Diane d'Orléans_; 27 tháng 6 năm 1716 – 26 tháng 9 năm 1736) là Thân vương phi xứ Conti từ khi kết hôn với Thân vương xứ Conti
**Élisabeth Philippe của Pháp** (3 tháng 5 năm 1764 – 10 tháng 5 năm 1794), còn được gọi là **Madame Élisabeth**, là một Fille de France. Élisabeth Philippe là con út của Louis Ferdinand của
**Marie Thérèse Charlotte của Pháp** (tiếng Pháp: _Marie-Thérèse Charlotte de France_; tiếng Đức: _Marie Thérèse Charlotte von Frankreich_; 19 tháng 12 năm 1778 – 19 tháng 10 năm 1851) là trưởng nữ của Louis XVI
**Marie Adélaïde của Pháp** (; 23 tháng 3 năm 1732 – 27 tháng 2 năm 1800) là vương nữ Pháp và là con gái của Louis XV của Pháp và Maria Leszczyńska của Ba Lan.
**María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Antonia Fernanda de España_; 17 tháng 11 năm 1729 – 19 tháng 9 năm 1785 ) là con gái út của Felipe V
**Louis của Pháp** (tiếng Pháp: Louis de Bourbon; 1 tháng 11 năm 1661 – 14 tháng 4 năm 1711) là trưởng nam của Louis XIV của Pháp hay còn biết đến với vương hiệu __Vua
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
**Sophie Philippine Élisabeth Justine của Pháp** (; 27 tháng 7 năm 1734 – 2 tháng 3 năm 1782) là Vương nữ Pháp và là _fille de France_. Sophie là con gái thứ sáu và là
**Philippe, Công tước xứ Anjou** (Philippe Louis; 30 tháng 8 năm 1730 – 7 tháng 4 năm 1733) là Vương tử Pháp và là con trai thứ hai của Louis XV của Pháp và Maria
**María Teresa Antonia Rafaela của Tây Ban Nha, Trữ phi nước Pháp** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa Rafaela de España_; 11 tháng 6 năm 1726 – 22 tháng 7 năm 1746), là con gái
**Louis Ferdinand của Pháp** (4 tháng 9 năm 1729 – 20 tháng 12 năm 1765) là con trai duy nhất còn sống đến tuổi trưởng thành của Louis XV của Pháp và Maria của Ba
**Élisabeth Louise Vigée Le Brun** (; 16 tháng 4 năm 1755 – 30 tháng 3 năm 1842), còn được gọi là **Madame Lebrun** hoặc **Madame Le Brun**, là một họa sĩ vẽ chân dung người
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**María Teresa của Tây Ban Nha**, **Maria Theresia của Áo** hay **María Teresa của Áo và Borbón** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Austria y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Thérèse d'Autriche_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Maria Adelaide của Savoia** (6 tháng 12 năm 1685 – 12 tháng 2 năm 1712), hay còn được biết với tên tiếng Pháp là **Marie Adélaïde**, là vợ của Louis của Pháp, Công tước xứ
thumb|Huy hiệu vương miện của các _Enfants de France_. **Fils de France** () và **Fille de France** (), có nghĩa là _"Con trai nước Pháp"_ cùng _"Con gái nước Pháp"_, là một danh xưng và
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Maria Karolina Zofia Felicja Leszczyńska của Ba Lan** (; 23 tháng 6 năm 1703 – 24 tháng 6 năm 1768), còn được gọi là **Marie Leczinska** (), là Vương hậu Pháp sau khi kết
**Charlotte Aglaé của Orléans** (; ; 22 tháng 10 năm 1700 – 19 tháng 1 năm 1761) là con gái thứ ba của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon, và khi sinh
**Marie Louise của Orléans** (tiếng Pháp: _Marie-Louise d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de Orleans_; 26 tháng 3 năm 1662 – 12 tháng 2 năm 1689) là một _petite-fille de France_ (_Cháu gái nước
**Henrietta Anne của Anh** (tiếng Pháp: _Henriette-Anne Stuart d'Angleterre_; 16 tháng 6 năm 1644 - 30 tháng 6 năm 1670), biệt danh **Minette**, là một Vương nữ Anh, con gái của Charles I của Anh
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Maria Carolina của Hai Sicilie, Công tước phu nhân xứ Berry** (Maria Carolina Ferdinanda Luisa; 5 tháng 11 năm 1798 – 16 tháng 4 năm 1870 tại Brunnsee, Steiermark) là vương nữ của Vương quốc
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Charlotte của Bỉ** (Marie Charlotte Amélie Augustine Victoire Clémentine Léopoldine; 7 tháng 6 năm 1840 – 19 tháng 1 năm 1927), được biết đến với tên theo tiếng Tây Ban Nha là **Carlota**, bà sinh
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Victoria của Hessen và Rhein,** sau là Victoria Mountbatten, Hầu tước phu nhân xứ Milford Haven (tên đầy đủ: **Victoria Alberta Elisabeth Mathilde Marie**; 5 tháng 4 năm 1863 – 24 tháng 9 năm 1950)
**Friedrich Wilhelm IV** (15 tháng 10 năm 1795 – 2 tháng 1 năm 1861) là vua nước Phổ từ ngày 4 tháng 6 năm 1840 cho đến khi băng hà vào ngày 2 tháng 1
**Maria Anna Christine Victoria xứ Bayern** (; 28 tháng 11 năm 1660 – 20 tháng 4 năm 1690) là Trữ phi nước Pháp thông qua cuộc hôn nhân với Louis của Pháp, Đại Trữ quân,
**Luise Philippine của Phổ** (tiếng Đức: _Luise Philippine von Preußen_; tiếng Anh: _Louise Philippine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Dorothea Luise Philippine_; 24 tháng 5 năm 1770 – 7 tháng 12 năm 1836) là
**Nữ vương Juliana** (_Juliana Louise Emma Marie Wilhelmina_; 30 tháng 4 năm 1909 – 20 tháng 3 năm 2004) là Nữ vương Hà Lan từ năm 1948 cho đến khi bà thoái vị năm 1980.
**Alice của Liên hiệp Anh và Ireland** (**Alice Maud Mary**; ngày 2 tháng 4 năm 1843 – ngày 14 tháng 12 năm 1878) là con gái của Victoria I của Liên hiệp Anh và Albrecht
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**August Wilhelm** là một hoàng thân nước Phổ. Ông sinh vào ngày 9 tháng 8 năm 1722 tại kinh thành Berlin, là con của Friedrich Wilhelm I của Phổ và Sophia Dorothea của Đại Anh,
**Luise Ulrike của Phổ** (; 24 tháng 7 năm 1720 – 16 tháng 7 năm 1782) là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1751 đến năm 1771 với tư cách là phối ngẫu của Adolf
**Georg V** (tiếng Đức: _Georg Friedrich Alexander Karl Ernst August_; 27 tháng 05 năm 1819 - 12 tháng 06 năm 1878) là vua cuối cùng của Vương quốc Hannover, ông chính là người con duy
**Vương tôn nữ Ingrid Alexandra** (**Ingrid Alexandra av Norge/Noreg**, sinh ngày 21 tháng 1 năm 2004) là con trưởng của Thái tử Haakon và hiện đang đứng thứ hai trong dòng kế vị ngai vàng
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Hà Lan: _Wilhelmina van Pruisen_; tiếng Anh: _Wilhelmina of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Sophie Wilhelmine_; 7 tháng 8 năm 1751 tại Berlin – 9 tháng
**Isabel của Parma** hay **Isabella xứ Parma** (tiếng Tây Ban Nha: Isabel María Luisa Antonieta Fernanda Josefa Javiera Doménica Juana; tiếng Ý: Isabella Maria Luisa Antonietta Ferdinanda Giuseppina Giuseppa Saveria Dominica Giovanna; 31 tháng 12
**Ludovika Wilhelmine của Bayern** (tiếng Đức: _Ludovika Wilhelmine von Bayern_; tiếng Anh: _Louise/Ludovica Wilhelmina of Bavaria_; tên đầy đủ: Ludovika Wilhelmine von Wittelsbach; 30 tháng 8 năm 1808 – 25 tháng 1 năm 1892) là
**Elisabetta Farnese** hay **Elisabetta xứ Parma** (tiếng Ý: _Elisabetta Farnese_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Farnesio_; 25 tháng 10 năm 1692 - 11 tháng 7 năm 1766) là vợ thứ 2 của Vua Felipe V,
**Versailles** (phiên âm tiếng Việt: Véc-xai) là tỉnh lỵ của tỉnh Yvelines, thuộc vùng hành chính Île-de-France của nước Pháp, có dân số là 85.726 người (thời điểm 1999). ## Các thành phố kết nghĩa