✨Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha

Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha

Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha (; 25 tháng 9 năm 1808 - 29 tháng 9 năm 1833) là tên gọi chỉ chung các cuộc binh biến diễn ra ở châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha đầu thế kỷ 19, khơi mào bởi nhiều phe phái khác nhau tại các thuộc địa nhằm mục đích ly khai khỏi mẫu quốc Tây Ban Nha. Chuỗi xung đột này nổ ra dường như ngay sau khi Napoleon đem quân đánh chiếm bán đảo Iberia. Vì vậy, nó thường được coi là mở màn với trận Chacaltaya (1809), nay thuộc Bolivia, và khép lại tại trận Tampico (1829), nay thuộc Mexico.

Sự kiện Napoléon Bonaparte phế truất hoàng gia Tây Ban Nha vào năm 1808 (còn gọi là sự kiện Bayonne thoái vị) đã dấy lên tư tưởng tự do và khao khát tự do trên khắp lãnh thổ rộng lớn của Đế quốc Tây Ban Nha. Mầm mống xung đột manh nha khởi phát vào năm 1809, bắt đầu với những chính quyền junta ngắn ngủi được thành lập ở Chuquisaca, La Paz và Quito chống lại bộ máy Junta Trung ương Tối cao tại Sevilla. Đầu năm 1810, hàng loạt chính quyền junta mới nổi lên khắp mọi miền châu Mỹ sau khi Junta Trung ương rơi vào tay quân xâm lược Pháp. Tuy rằng nhiều khu vực thuộc địa phản đối các chính sách đưa ra bởi vương quyền tại mẫu quốc, "rất ít kẻ muốn một nền độc lập hoàn toàn; thực chất lại có nhiều ý kiến ủng hộ sự thành lập một Junta Trung ương Tây Ban Nha với vai trò lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp." Hầu hết phái ủng hộ các chính quyền tự xưng chỉ coi đó là cách duy nhất để bảo toàn nền độc lập của Tây Ban Nha khỏi Pháp. Mặc dù đã có nghiên cứu cho rằng bản sắc Mỹ Tây Ban Nha ("creole", tạm dịch là lai tạp) đã thoát khỏi gốc gác Iberia tiền thân của nó, độc lập chính trị chắc chắn không phải mục đích của phần lớn người dân Mỹ gốc Tây Ban Nha, và không nhất thiết là điều tất yếu. Phải chú ý rằng xung đột này vốn bắt nguồn từ phong trào Tự do nổi lên ở cả hai bán cầu, và là một xung đột giữa những người tại mẫu quốc muốn một chế độ quân chủ nhất thể và những người ở các thuộc địa Mỹ châu muốn một chế độ quân chủ đa nguyên.

Cuối năm 1810, Cortes de Cádiz và các chính quyền junta châu Mỹ phế bỏ Ferdinand VII của Tây Ban Nha (khi đó đang bị cầm tù) theo tư tưởng quyền vua thấp hơn quyền tối cao của nhân dân. Điều này đã châm ngòi cho cuộc chiến giữa phe Bảo hoàng và phe Ái quốc, với kết quả cuối cùng quyết định sự toàn vẹn lãnh thổ của đế quốc Tây Ban Nha. Năm 1814, Napoléon thừa nhận thất bại của ông tại Iberia và ký kết hiệp ước Valençay với Tây Ban Nha, Ferdinand VII phục ngôi sau một cuộc đảo chính thành công và tái thiết nền quân chủ chuyên chế. Ferdinand ra sức đàn áp phe Tự do tại chính quốc và bãi bỏ Hiến pháp 1812 của Cadiz, song vẫn không hoàn toàn khống chế được mầm mống cách mạng. Phần lớn Hải quân Tây Ban Nha đã bị hủy diệt trong cuộc kháng chiến chống Napoléon, do vậy hạm đội bấy giờ chỉ có thể hỗ trợ các đoàn viễn chinh nhỏ sang châu Mỹ để tham chiến dẹp loạn. Năm 1820, đạo quân Tây Ban Nha dưới trướng Rafael Riego tạo phản, tuyên bố khôi phục Trienio Liberal, và chấm dứt mối đe dọa xâm lược Río de la Plata và Venezuela; sự kiện này tuy vậy không ảnh hưởng mấy đến lập trường chống ly khai của Tây Ban Nha, hệ quả là phe Bảo hoàng tại Châu Mỹ dần dần sụp đổ. Trong suốt mấy thập kỷ tới, các đạo quân Ái quốc giành nhiều thắng lợi vang dội trước phái Bảo hoàng. Lục đục chính trị tại Tây Ban Nha cộng với sự thiếu thốn quân lực và ngân khố đã thuyết phục nhân dân Mỹ gốc Tây Ban Nha về việc chính thức kiến thiết nền độc lập khỏi nước mẹ. Tại Tây Ban Nha, quân Pháp thuộc Liên minh Thần thánh đánh dẹp chính quyền tự do và tái lập Ferdinand VII lên ngôi vua; Pháp tiếp tục chiếm đóng Tây Ban Nha cho đến năm 1828.

Các cuộc xung đột quân sự này được tiến hành dưới cả hai hình thức chiến tranh không quy ước lẫn chiến tranh quy ước. Những trận chiến ban đầu chỉ mang tính bộc phát cục bộ, rồi lan rộng và biến tướng thành những cuộc nội chiến ly khai giành độc lập khỏi Tây Ban Nha. Ngoài ra, các cuộc chiến đã dẫn đến sự hình thành các đường biên giới mới dựa trên ranh giới phân chia hành chính thời thuộc địa, rốt cuộc sẽ đúc kết thành các quốc gia độc lập tại Mỹ Latinh vào đầu thế kỷ 19. Cuộc chiến đã khiến Chế độ quân chủ Tây Ban Nha suy yếu và các Quốc gia mới được thành lập. Chế độ nô lệ chưa được bãi bỏ hoàn toàn, song các nước cộng hòa mới ngay lập tức đoạn tuyệt với hệ thống đẳng cấp chủng tộc casta, Tòa án Dị giáo và các tước vị quyền quý của chế độ cũ. Người criollo (tức những người gốc Tây Ban Nha sinh ra ở Tân Thế giới) và mestizo (tức những người mang dòng máu lai giữa thổ dân châu Mỹ và Tây Ban Nha) thay thế các vị trí trong bộ máy chính quyền vốn thuộc về người Tây Ban Nha. Không kể mặt pháp lý, người criollo vẫn giữ vị thế khá uy tín trong một cấu trúc xã hội lưu tồn một số nét truyền thống văn hóa cũ. Trong một thế kỷ sau khi giành được độc lập, các cuộc chiến xảy ra ở châu Mỹ Tây Ban Nha, về bản chất, thường là những tranh chấp giữa các đảng phái chính trị Bảo thủ và Tự do nhằm đảo ngược hoặc làm sâu sắc thêm những thay đổi xã hội-chính trị đã được khơi mào trước đó.

Các sự kiện ở Mỹ châu Tây Ban Nha có mối quan hệ gần gũi với các cuộc chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa cũ của Pháp như St. Domingue và Haiti. Ngoài ra nó cũng có liên quan đến quá trình chuyển đổi sang độc lập ở Brasil, đặc biệt là bởi lẽ nền độc lập của Brasil có nhiều điểm tương đồng với Mỹ châu thuộc Tây Ban Nha, chẳng hạn như hiệu ứng dây truyền gây ra bởi cuộc xâm lược bán đảo Iberia của Napoléon, sự kiện mà đã khiến cho hoàng gia Bồ Đào Nha phải chạy nạn sang Brasil vào năm 1807. Hơn nữa, quá trình giành độc lập của Mỹ Latinh diễn ra trong bầu không khí chính trị-trí thức chung khởi nguồn với các tư tưởng tự do Thời đại Khai sáng tại châu Âu, điều mà cũng gây ảnh hưởng đến tất cả các cuộc Cách mạng Đại Tây Dương đương thời, bao gồm cả các cuộc cách mạng ở Hoa Kỳ và Pháp. Song nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các cuộc chiến tranh giành độc lập tại khu vực này là những diễn triển độc đáo trong nội bộ Vương quốc Tây Ban Nha khởi xướng bởi hội Cortes de Cadiz.

Bối cảnh lịch sử

Phải chú ý rằng khao khát độc lập chính trị không nhất thiết là điềm báo cho cơn hỗn loạn chính trị ở Mỹ Tây Ban Nha. Sử gia David Bushnell nhận xét: “Có rất ít mối quan tâm đến sự độc lập hoàn toàn.” Hai nhà sử học R.A. Humphreys và John Lynch bình chú: “rất dễ đánh đồng các lực lượng của sự bất mãn hoặc thậm chí các lực lượng của sự thay đổi với các lực lượng của công cuộc cách mạng.” Vì rằng, theo lời sử gia Jeremy Adelman, “về định nghĩa, không tồn tại lịch sử độc lập cho đến khi nó đã xảy ra," tức là cho tới khi Mỹ Tây Ban Nha thực sự giành được độc lập thì những lời giải thích cho lý do tại sao nó ra đời mới được kiếm tìm. Về cơ bản, các cuộc chiến tranh giành độc lập tại Mỹ Latinh hầu như được dẫn dắt bởi số đông cộng đồng người châu Âu chống lại đế quốc châu Âu.

Cải cách kinh tế và hành chính

Có một số yếu tố đã được xác định là điều đã góp phần kích động các phong trào độc lập. Thứ nhất, việc gia tăng quyền kiểm soát của Vương quyền đối với các lãnh thổ hải ngoại của họ thông qua cải cách Bourbon vào giữa thế kỷ 18 đã dẫn đến những thay đổi trong mối quan hệ của người Mỹ gốc Tây Ban Nha với người Tây Ban Nha chính gốc. Thay vì nhắc đến các lãnh thổ hải ngoại như "các phó quốc/đô đốc phủ" với vị thế bán độc lập, giờ đây chúng lại được gọi là các "thuộc địa" trực thuộc Tây Ban Nha. Nhằm siết chặt quyền thống trị đối với các vấn đề hành chính và kinh tế hải ngoại, Tây Ban Nha tái thiết hệ thống bổ nhiệm người peninsular, tức những người sinh thành ở chính quốc, sang châu Mỹ để cai trị thay mặt cho nhà vua. Do vậy, giới tinh hoa Mỹ gốc Tây Ban Nha cảm thấy bất mãn do Vương quyền Tây Ban Nha không tôn trọng thông lệ cho người criollos sinh ra ở châu Mỹ lên nắm quyền.

Vương triều Bourbon đã ban hành nhiều chính sách duy quân chủ và thế tục hóa nhằm suy giảm quyền lực của Giáo hội Công giáo La Mã, đáng chú ý nhất là vụ trục xuất các tu sĩ Dòng Tên vào năm 1767, khiến ​​nhiều thành viên creole của dòng tu này bị lưu đày vĩnh viễn. Chỉ bằng cách hạn chế quyền lực của Giáo hội, triều đình Tây Ban Nha mới có thể kiểm soát tập trung hệ thống thuộc địa Mỹ Latinh. Sở dĩ do khoảng tiệm cận về mặt tư tưởng của giới giáo sĩ, họ có thể tạo ảnh hưởng và thao túng tính tương tác giữa các nhóm dân cư Mỹ Latinh, vì vậy rất đáng giá trong vai trò cố vấn.

Tái cơ cấu quân đội

Các cuộc chiến tranh quốc tế vào nửa sau thế kỷ 18 đã làm lộ rõ những khó khăn của Tây Ban Nha trong việc bảo vệ và hậu thuẫn các thuộc địa hải ngoại của mình. Điều này khiến các địa phương, nhất là Chilê, phải tự chu cấp việc quốc phòng và ngày càng nhiều người sinh ra tại Chilê gia nhập lực lượng dân quân. Điều này hoàn toàn đi ngược lại lý tưởng của chế độ quân chủ tuyệt đối tập trung. Chính quyền Tây Ban Nha cũng nhượng bộ các cộng đồng bản địa để tăng cường khả năng phòng thủ: Tại quần đảo Chiloé, quan chức Tây Ban Nha thỏa ước sẽ giải phóng người bản địa khỏi các encomienda nếu họ chịu chuyển tới định cư tại thành Ancud (được thành lập năm 1768) và giúp người Tây Ban Nha bảo vệ nó. Việc đẩy mạnh tổ chức phòng thủ ở các địa phương rốt cuộc khiến tầm ảnh hưởng của các thủ phủ thuộc địa bị lấn át và thúc đẩy phong trào giành độc lập.

Làn sóng tư tưởng Khai sáng

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha** (; 25 tháng 9 năm 1808 - 29 tháng 9 năm 1833) là tên gọi chỉ chung các cuộc binh biến diễn ra ở châu
**Chiến tranh giành độc lập Argentina** diễn ra từ năm 1810 đến 1818 giữa một bên là lực lượng bảo quốc Argentian do Manuel Belgrano, Juan José Castelli và José de San Martín lãnh đạo
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Chiến tranh giành độc lập Brasil** là cuộc chiến được tiến hành giữa Brasil và Bồ Đào Nha. Chiến tranh kéo dài từ tháng 2 năm 1822, khi những cuộc giao tranh đầu tiên giữa
**Chiến tranh giành độc lập Ukraina** là một cuộc xung đột quân sự có sự tham gia của nhiều bên từ năm 1917 đến năm 1921, chứng kiến sự hình thành và phát triển của
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
nhỏ|409x409px|Bản đồ các thuộc địa châu Mỹ của Tay Ban Nha vào thế kỷ 18. **Thuộc địa Tây Ban Nha ở Châu Mỹ** dùng để chỉ tên tập thể của các thuộc địa thuộc sở
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
**Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha** là xung đột quân sự giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ xảy ra từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1898 liên quan đến vấn đề về
**Đại Colombia** (, ), tên chính thức là **Cộng hòa Colombia**, là tên gọi hiện nay để chỉ một nhà nước bao gồm phần lớn miền bắc Nam Mỹ và một phần miền nam của
**Chiến tranh giành độc lập Chile** là một cuộc xung đột vũ trang giữa người criollo Chile ủng hộ độc lập việc tìm kiếm sự độc lập chính trị và kinh tế từ Tây Ban
**Chiến tranh Độc lập Mozambique** là một xung đột quân sự giữa lực lượng du kích của Mặt trận Giải phóng Mozambique hay FRELIMO, và Bồ Đào Nha. Chiến tranh chính thức bắt đầu vào
**Caudillo** (; tiếng Tây Ban Nha: _cabdillo_, tiếng Latinh _capitellum_, số ít là _caput_ có nghĩa là "lãnh tụ") là một nhóm nhà các chủ sở hữu đất đai, nhà quân sự có quyền lực
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha**, còn gọi là **Cuộc chinh phục Mexico** hay **Chiến tranh Aztec-Tây Ban Nha** (1519-1521) là một trong những sự kiện quan trọng nhất của quá
**Florida thuộc Tây Ban Nha** () là thuộc địa của Đế quốc Tây Ban Nha ở khu vực Bắc Mỹ, là một phần lãnh thổ của Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha, và lãnh
**Fernando VII của Tây Ban Nha** (tiếng Anh: Ferdinand VII; 14 tháng 10 năm 1784 - 29 tháng 9 năm 1833) ông trị vì Vương quốc Tây Ban Nha trong hai lần, lần đầu vào
**Formosa thuộc Tây Ban Nha** là một thuộc địa tồn tại từ năm 1626 đến 1642 của đế quốc Tây Ban Nha ở phía bắc đảo Đài Loan. Mặc dù Đài Loan gần gũi về
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**Cách mạng Đại Tây Dương** (22 tháng 3 năm 1765 – 4 tháng 12 năm 1838) là một chuỗi các cuộc cách mạng ở Châu Mỹ và Châu Âu bắt đầu vào cuối thế kỷ
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Tây Ban Nha thời Franco** () hoặc **Chế độ độc tài Francisco Franco** (), chính thức được gọi là **Quốc gia Tây Ban Nha** (), là thời kỳ lịch sử Tây Ban Nha từ năm
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**Chiến tranh Bán đảo** (1807-1814) là một cuộc xung đột quân sự giữa đế chế của Napoleon và Bourbon Tây Ban Nha (với Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland liên minh với Vương quốc
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Đông Ấn Tây Ban Nha** (; tiếng Filipino: _Silangang Indiyas ng Espanya_) là lãnh thổ Tây Ban Nha tại Châu Á-Thái Bình Dương từ 1565 đến 1899. Bao gồm Philippines, Quần đảo Mariana, the Quần
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha** () là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha trên bình diện quốc tế
**Phi thực thực dân châu Mỹ** là quá trình các quốc gia ở châu Mỹ giành được độc lập khỏi sự chiếm đóng của các nước châu Âu. Phi thực dân hóa bắt đầu với
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha** (1625–1630) là một cuộc chiến do Tây Ban Nha phát động nhằm chống lại Vương quốc Anh và Các tỉnh Liên hiệp. Cuộc xung đột này thuộc một phần của
**Tây Ấn thuộc Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Las Antillas Occidentales_ hoặc _Antillas Españolas_) là tên gọi để chỉ chung các thuộc địa của Tây Ban Nha trong vùng Caribe. Ngày nay khu
**Đế quốc Bồ Đào Nha** () là đế quốc ra đời sớm nhất và kéo dài nhất trong lịch sử những đế quốc thực dân Châu Âu, kéo dài gần 6 thế kỷ, bắt đầu
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc**, hay thường được biết đến với cái tên **Chiến tranh năm 1812**, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ** là tuyên bố được thông qua bởi cuộc họp của Đệ nhị Quốc hội Lục địa tại Tòa nhà bang Pennsylvania (nay là Independence Hall) ở Philadelphia, Pennsylvania
**Buenos Aires** () là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Argentina. Thành phố tọa lạc bên bờ nam của sông La Plata, duyên hải đông nam của Nam Mỹ, đối diện với
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948**, được người Do Thái gọi là **Chiến tranh giành độc lập** và **Chiến tranh giải phóng**, còn người Palestine gọi là **al Nakba** (tiếng Ả Rập: النكبة,
Các liên minh năm 1980. **Chiến tranh Lạnh giai đoạn 1985 tới 1991** bắt đầu với sự nổi lên của Mikhail Gorbachev trở thành lãnh đạo Liên Xô. Nó chấm dứt cùng với sự sụp
**Các cuộc chiến tranh của Napoléon**, hay thường được gọi tắt là **Chiến tranh Napoléon** là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các
thumb|right|upright=1.35|"Độc lập hay là chết", [[Pedro I của Brasil|Vương tử Pedro tuyên bố Brasil độc lập vào ngày 7 tháng 9 năm 1822. Đội cận vệ danh dự của ông hoan hô ủng hộ ông
**_Chiến tranh Trăm Năm thứ hai_** (khoảng 1689 - 1815) là sự phân kỳ lịch sử hoặc thuật ngữ thời đại lịch sử được một số nhà sử học dùng để mô tả một loạt
**Chiến tranh Cisplatina** (Tiếng Bồ Đào Nha: _Guerra da Cisplatina_), còn được gọi là **Chiến tranh Argentina-Brazil** (Tiếng Tây Ban Nha: _Guerra argentino-brasileña_) hoặc trong lịch sử Argentina và Uruguay gọi là **Chiến tranh Brazil**,
nhỏ| Áp phích phim cho _[[Hawai Mare oki kaisen|Hawai Mare oki kaisen của_ Kajiro Yamamoto, (ハ ワ イ ・ マ レ ー 沖 海 戦, _The War at Sea from Hawaii to Malaya_ ), Toho