✨Carlos IV của Tây Ban Nha

Carlos IV của Tây Ban Nha

Carlos IV (Tiếng Anh: Charles IV, Tiếng Tây Ban Nha: Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno José Januario Serafín Diego; sinh 11/11/1748 - mất 20/01/1819) là vua của Vương quốc Tây Ban Nha và Đế quốc Tây Ban Nha từ ngày 14/12/1788 đến ngày 19/03/1808.

Khi Carlos IV kế thừa ngôi vị, Tây Ban Nha được đánh giá là có ít dấu hiệu bất ổn, nhưng trong suốt thời trị vì của ông, Tây Ban Nha đã tham gia một loạt các liên minh bất lợi và chính phủ của ông liên tục phải tìm kiếm tài chính để đổ vào các cuộc chiến tranh. Carlos căm ghét người thừa kế ngai vàng và cũng là con trai của ông - Ferdiand, người đứng đầu Âm mưu El Escorial tuy bất thành nhưng sau đó đã buộc Carlos IV phải thoái vị sau sự kiện Cuộc nổi dậy Aranjuez vào tháng 3/1808, cùng với việc lật đổ Đệ nhất Bộ trưởng (Thủ tướng) Manuel de Godoy. Napoléon Bonaparte đã buộc Ferdiand VII và cả Carlos IV phải thoái vị, mở đường cho anh trai của Napoleon là Joseph Bonaparte trở thành vua của Tây Ban Nha. Triều đại của Carlos IV được xem là một bước ngoặt lớn trong Lịch sử Tây Ban Nha.

Thời trẻ

Carlos IV là con trai thứ hai của Carlos III và vợ Maria Amalia của Saxony. Ông sinh ra tại Napoli (11 tháng 11 năm 1748), trong giai đoạn cha của ông là vua của Vương quốc Napoli và Vương quốc Sicilia. Anh trai của ông Don Felipe đã không được chọn làm người kế vị do bị bệnh tâm thần và động kinh. Tại Napoli và Sicilia, Carlos được gọi là Thân vương của Taranto.

Carlos đã được thừa hưởng một thân hình vạm vỡ và sức khỏe tuyệt vời từ dòng dõi Saxon của mẹ, cháu gái của August II của Ba Lan. Khi còn trẻ ông thích đấu vật với những đồng hương mạnh nhất ông có thể tìm thấy. Trong khi ông được nhiều người xem là trí tuệ chậm chạp và khá cả tin, ông cũng được biết đến đối với hành vi tốt đẹp. Carlos còn có biệt danh là "El Cazador" (có nghĩa là "Thợ săn"), do sở thích thể thao và săn bắn, hơn là giải quyết các công việc chính sự. Ông được đánh giá là người dễ mến nhưng có đầu óc đơn giản.

Vua Tây Ban Nha

thumb|[[Xu bạc: 8 real Tân Tây Ban Nha, với chân dung vua Carlos IV ở mặt trước, đúc năm 1808, năm cuối cùng ông tại vị]] thumb|[[Xu bạc: 8 real Phó vương quốc Peru, với chân dung Carlos IV ở mặt trước, đúc năm 1800]] Năm 1788, Vua Carlos III băng hà, Hoàng tử Carlos Antonio lên kế vị với vương hiệu "Carlos IV", ông đã cai trị đế chế của mình trong 2 thập kỷ tiếp theo. Mặc dù ông luôn thể hiện sự tôn nghiêm với vai trò là một vị vua chuyên chế tuyệt đối trước thần dân của mình, nhưng Carlos IV lại khá buôn thả việc triều chính. Các công việc của chính phủ ông giao lại cho vợ và Manuel de Godoy, người ông bổ nhiệm làm Đệ nhất bộ trưởng (thủ tướng). Phần lớn thời gian của ông sử dụng cho các thú vui săn bắn, cho dù phía bên kia biên giới, Cách mạng Pháp đang diễn ra, người anh em họ Bourbon là vua Louis XVI cùng vợ ông ta đã bị hành quyết và sự nổi lên của Napoléon Bonaparte.

Những ý tưởng về Thời kỳ Khai Sáng đã đến với Tây Ban Nha dưới thời kỳ cai trị của vị vua đầu tiên của Nhà Bourbon Tây Ban Nha - Philip V, cha của Carlos III và ông nội của vị vua đương nhiệm, Carlos IV. Vua Philip V đã theo đuổi một chính sách cải cách tích cực nhằm tìm cách khôi phục Tây Ban Nha về cả mặt chính trị và kinh tế, đưa hệ thống Đế quốc Tây Ban Nha trở nên chặc chẽ và hùng mạnh hơn. Đến thời cha của Carlos IV là vua Carlos III, ông là vị vua năng động, bổ nhiệm nhiều thủ tướng giàu kinh nghiệm để giúp ông đưa ra các quyết định đúng đắn. Ngược lại với vị vua đương nhiệm Carlos IV, được xem là một vị quân chủ không ra gì, với một người vợ độc đoán và một thủ tướng thiếu kinh nghiệm nhưng đầy tham vọng. Tây Ban Nha dưới thời Carlos IV được xem là sự kết hợp giữa một vị vua từ bỏ quyền cai trị, một hoàng hậu buôn thả, dâm dật ngoại tình khắp nơi và một thủ tướng với các chính sách khiến chế độ quân chủ bị thần dân xa lánh và oán ghét.

Khi mới lên ngôi, Carlos IV dự định sẽ vẫn duy trì các chính sách của cha mình, và giữ Bá tước Floridablanca tại ghế Đệ nhất bộ trưởng (Thủ tướng). Năm 1792, Floridablanca bị đẩy khỏi ghế Thủ tướng và Bá tước Aranda được bổ nhiệm thay thế. Tuy nhiên, sau cuộc chiến chống lại Đệ Nhất Cộng hòa Pháp, Bá tước Aranda theo khuyên hướng tự do đã bị hạ bệ, Manuel de Godoy được đưa lên làm Đệ nhất Bộ trưởng, ông ta được cho là người tình của Hoàng hậu Maria Luisa.

Thám hiểm và khoa học

Dưới thời Carlos IV, các cuộc thám khiểm khoa học tiếp tục được tài trợ vởi Hoàng gia Tây Ban Nha, một trong số đó được được bảo trợ bởi vua Carlos III của Tây Ban Nha thời ông còn trị vì. Chuyến thám hiểm thực vật hoàng gia đến New Granada (1783 - 1816), và Chuyến thám hiểm thực vật hoàng gia đến Tân Tây Ban Nha (1787 - 1803), đều được tài trợ bởi hoàng gia Tây Ban Nha dưới thời Carlos IV. Chuyến thám hiểm Malaspina (1789 - 1794), là một cuộc thám hiểm khoa học quan trọng được chỉ huy bởi Alejandro Malaspina. Chuyến thám hiểm Balmis được thực hiện dưới sự bảo trợ hoàng gia Tây Ban Nha nhằm tiêm chủng cho cư dân ở các Lãnh thổ Hải ngoại của Tây Ban Nha chống lại bệnh đậu mùa. Năm 1799, Carlos IV, cho phép nhà khoa học, quý tộc Phổ - Alexander von Humboldt được phép tự do đi lại và thám hiểm các thuộc địa của Tây Ban Nha ở Tân Thế giới, nhà vua của yêu cầu các quan chức hoàng gia hỗ trợ Alexander von Humboldt trong việc điều tra và thám hiểm các khu vực quan trọng của Đế quốc Tây Ban Nha. Tiểu luận Chính trị của Humboldt về "Vương quốc Tân Tây Ban Nha" là ấn phẩm quan trọng trong chuyến du hành kéo dài 5 năm của ông.

Kinh tế

thumb|upright=1.5|Lãnh thổ của [[Đế chế Tây Ban Nha thời đỉnh cao vào năm 1790]] Các vấn đề kinh tế của Tây Ban Nha đã tồn tại từ lâu, nhưng càng trở nên tồi tệ hơn khi Tây Ban Nha bị kéo vào các cuộc chiến tranh mà đồng minh của họ là Pháp theo đuổi. Nhu cầu tài chính đã thúc đẩy chính sách đối nội và đối ngoại của vua Carlos. Các chính sách kinh tế của Godoy làm gia tăng sự bất mãn của người dân lên chế độ của Carlos. Trong một nỗ lực nhằm thực hiện những thay đổi lớn về kinh tế, Gaspar Melchor de Jovellanos, người theo chủ nghĩa Jansenist đã đề xuất cải cách về quyền sở hữu đất đai để thúc đẩy sự hồi sinh của nông nghiệp. Tác phẩm năm 1795 của ông, Informe en el expediente de ley agraria đã lập luận rằng Tây Ban Nha cần nông nghiệp phát triển mạnh để cho phép dân số tăng trưởng và thịnh vượng. Trong phân tích của ông, việc tập trung quyền sở hữu và truyền thống đất đai cũng như các rào cản thể chế là trọng tâm của các vấn đề nông nghiệp. Ông kêu gọi phân chia và bán các khu đất công do các làng nắm giữ, cũng như các vùng lãnh thổ Tây Ban Nha do Mesta kiểm soát (tổ chức của các chủ sở hữu gia súc, những người đã giữ đất chăn thả gia súc để sử dụng làm tài sản cho họ). Jovellanos cũng lập luận về việc bãi bỏ các tài sản có sẵn (mayorazgos), cho phép các điền trang trên đất liền không bị phân chia qua các thế hệ quý tộc, cũng như bán các vùng đất do Giáo hội Công giáo nắm giữ. Mục đích của các chính sách này là tạo ra ở Tây Ban Nha những người nông dân sẽ theo đuổi tư lợi của họ và làm cho đất nông nghiệp trở nên năng suất hơn. Cái giá phải trả là làm suy yếu quyền lực của Giáo hội và tầng lớp quý tộc.

Khi tình hình doanh thu của triều đình gặp khó khăn, năm 1804, nhà vua đã cho áp đặt các biện pháp đẩy mạnh nguồn thu tại các thuộc địa ở châu Mỹ và trong Giáo hội. Những sắc lệnh này bị coi là tệ hại, nó được xem là nhân tố chính tạo ra phong trào đòi độc lập ở Tân Tây Ban Nha (Mexico).

Chính sách đối ngoại

Về chính sách đối ngoại, Godoy tiếp tục chính sách trung lập của Abarca de Bolea, nhưng sau khi Tây Ban Nha phản đối việc xử tử Louis XVI của Pháp, vị vua bị phế truất vào năm 1793, giới cầm quyền Cách mạng Pháp tuyên chiến với Tây Ban Nha. Sau khi tuyên chiến của Pháp được đưa ra, Vương quốc Bồ Đào Nha và Đế quốc Tây Ban Nha đã ký một hiệp ước bảo vệ lẫn nhau chống lại Pháp. Năm 1796, Pháp buộc Godoy tham gia liên minh và tuyên chiến với Vương quốc Anh. Kết quả là, Tây Ban Nha đã trở thành một trong những đế quốc hàng hải đã liên minh với Đệ Nhất Cộng hòa Pháp trong Chiến tranh Cách mạng Pháp.

Tây Ban Nha vẫn là đồng minh của Pháp và hỗ trợ họ Phong tỏa Lục địa cho đến khi hải quân Anh chiến thắng tại Trận Trafalgar, Tây Ban Nha sau đó đã trở thành đồng minh với Anh. Tuy nhiên, sau chiến thắng của Napoléon Bonaparte trước Vương quốc Phổ vào năm 1807, Godoy một lần nữa chèo lái Tây Ban Nha trở lại phe Pháp. Việc chuyển đổi liên minh này làm giảm giá trị vị thế của Vua Carlos, không phe nào xem Tây Ban Nha như một đồng minh đáng tin cậy nữa, nhiều người đã oán ghét Godoy, những người ủng hộ Thái tử Ferdinand và liên minh với Anh tăng mạnh.

Những rắc rối của nền kinh tế, những tin đồn về mối quan hệ tình ái giữa Hoàng hậu và Godoy, và sự không khéo léo của Nhà vua, đã khiến cho chế độ quân chủ bị suy giảm uy tín trong dân chúng. Lo lắng thay cha, và ghen tị với tể tướng, Thái tử Ferdinand đã cố gắng lật đổ Nhà vua trong một cuộc đảo chính bị hủy bỏ vào năm 1807. Ông đã thành công vào năm 1808, buộc cha mình phải thoái vị sau sự kiện Tumult của Aranjuez.

File:2 escudos en or à l'effigie de Charles IV, 1798.jpg|Tiền xu có hình Charles IV của Tây Ban Nha, 1798 File:José Moñino y Redondo, conde de Floridablanca.jpg|Bá tước de Floridablanca, tranh của Goya ca. 1783 File:Pedro Pablo Abarca de Bolea, Count of Aranda.jpg|Bá tước Aranda File:Francisco de Goya - Godoy como general - Google Art Project.jpg|Manuel de Godoy, với tư cách là đại tướng. Tranh của Goya 1801 File:Francisco de Goya y Lucientes - Gaspar Melchor de Jovellanos.jpg|Gaspar Melchor de Jovellanos. Tranh của Goya 1798 File:Fernando de Borbón, príncipe de Asturias.jpg|Thái tử Ferdinand, Tranh của Goya 1800

Tuyên bố thoái vị ở Bayonne

Các cuộc bạo loạn và nổi dậy vào năm 1808 đã buộc Carlos IV phải tuyên bố thoái vị vào ngày 19/03, để ủng hộ con trai mình là Ferdinand lên kế vị ngai vàng

Cuộc sống cuối đời

thumb|Cựu vương Carlos năm 1818 Sau khi Napoléon Bonaparte phế truất vương triều Bourbon, Carlos cùng vợ ông và cựu Thủ tướng Godoy đã bị giam cầm ở Pháp, lúc đầu là tại Château de Compiègne và 3 năm ở Marseille (nơi có một khu phố được đặt theo tên ông). Sau sự sụp đổ của chế độ do Napoléon I dựng lên ở Tây Ban Nha, Ferdinand VII được khôi phục lại ngai vàng. Cựu hoàng Carlos IV cuối cùng định cư ở Rome, trong Palazzo Barberini. Vợ ông qua đời ngày 2/01/1819, chỉ 18 ngày sau thì Carlos cũng qua đời. Ngài Francis Ronalds đã mô tả chi tiết về đám tang trong nhật ký du lịch của mình.

Tính cách

Tốt bụng và ngoan đạo, Carlos IV vấp phải một loạt các cuộc khủng hoảng quốc tế vượt quá khả năng giải quyết của ông.

Vợ và các con

Carlos IV kết hôn với người em họ đầu tiên của mình là Maria Louisa, con gái của Philip, Công tước của Parma, vào năm 1765. Cặp đôi có 14 người con, 6 người trong số đó sống sót đến tuổi trưởng thành:

Gia phả

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Carlos IV** (Tiếng Anh: Charles IV, Tiếng Tây Ban Nha: Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno José Januario Serafín Diego; sinh 11/11/1748 - mất 20/01/1819) là vua của Vương quốc Tây Ban Nha và
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**María Josefa Carmela của Tây Ban Nha, hay Maria Giuseppina Carmela của Napoli và Sicilia** (6 tháng 7 năm 1744 – 8 tháng 12 năm 1801) sinh ra là Vương nữ Napoli và Sicilia. Khi
**Fernando VII của Tây Ban Nha** (tiếng Anh: Ferdinand VII; 14 tháng 10 năm 1784 - 29 tháng 9 năm 1833) ông trị vì Vương quốc Tây Ban Nha trong hai lần, lần đầu vào
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
**María Amalia của Tây Ban Nha hay María Amalia de Borbón y Borbón-Parma** (9 tháng 1 năm 1779 tại Madrid – 22 tháng 7 năm 1798 tại Madrid) là một người con gái của Carlos
**Maria Cristina Isabel của Tây Ban Nha hay María Cristina Isabel de Borbón y Borbón-Dos Sicilias** (tiếng Tây Ban Nha: _Maria Cristina Isabel de España_; 5 tháng 6 năm 1833 – 19 tháng 1 năm
**Luisa Teresa của Tây Ban Nha** (tên đầy đủ: _Luisa Teresa María del Carmen Francisca of Asís de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 11 tháng 6 năm 1824 – 27 tháng 12 năm 1900) là con
**María Cristina của Tây Ban Nha** (Madrid, 5 tháng 1 năm 1854 – Madrid, 8 tháng 1 năm 1854) là con gái của Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha và Phối vương Francisco
Doña **Carlota Joaquina của Tây Ban Nha hay Carlota Joaquina de Borbón** (Carlota Joaquina Teresa Cayetana; 25 tháng 4 năm 1775 - 7 tháng 1 năm 1830), được sinh ra là một Infanta của vương
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3
**María Teresa của Tây Ban Nha**, **Maria Theresia của Áo** hay **María Teresa của Áo và Borbón** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Austria y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Thérèse d'Autriche_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**María Ana của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Ana de España_, tiếng Đức: _Maria Anna von Spanien_; tiếng Anh: _Maria Anna of Spain_; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
thumb|8 reales [[Fernando VI của Tây Ban Nha|Fernando VI,Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha - 1757 MM]] thumb|8 reales [[Carlos III của Tây Ban Nha|Carlos III,Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha - 1778
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
phải|nhỏ|DeSoto tuyên bố Mississippi, như được mô tả trong [[Điện Capitol Hoa Kỳ rotunda]] **Louisiana** () là một khu hành chính của Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha từ 1763 đến 1801. Nó bao
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
**Vương tộc Borbón**, hay **Borbón-Anjou**, là vương tộc hiện đang trị vì Tây Ban Nha, xuất phát từ Vương tộc Bourbon có nguồn gốc từ Pháp, khi Philippe của Pháp, Công tước xứ Anjou trở
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của
**Vua Tây Ban Nha** (), hiến pháp gọi là **Ngôi vua** (la Corona) và thường được gọi **chế độ quân chủ Tây Ban Nha** (Monarquía de España) hoặc **chế độ quân chủ Hispanic** (Monarquía Hispánica)
Đây là **danh sách ­­­­­vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
**Chủ tịch Chính phủ Tây Ban Nha** (), thường được gọi là **thủ tướng Tây Ban Nha**, là người đứng đầu chính phủ của Tây Ban Nha. Chủ tịch Chính phủ bổ nhiệm các bộ
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**João VI** hoặc **John VI** (tiếng Bồ Đào Nha: **João VI**; – ), biệt danh là "the Clement", là vua của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve từ năm 1816 đến năm
**Margarete của Áo** (25 tháng 12 năm 1584 – 3 tháng 10 năm 1611) là Vương hậu Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thông qua cuộc hôn nhân của với Felipe III của Tây
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
_Dom_ **Manuel II của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha phát âm: [mɐnuɛɫ]; tiếng Anh: Emmanuel II, 15 tháng 11 năm 1889 - 2 tháng 7 năm 1932), có biệt danh là **"Người Ái
**Ludovico I của Etruria** (tiếng Tây Ban Nha: _Luis I de Etruria_;tiếng Pháp: _Luis I d'Étrurie_; 5 tháng 7 năm 1773 – 27 tháng 5 năm 1803) là vị vua đầu tiên trong hai vị
**Ferdinando II của Hai Sicilie** (tiếng Ý: Ferdinando Carlo; tiếng Sicilia: Ferdinannu Carlu; tiếng Anh: Ferdinand; 12 tháng 1 năm 1810 - 22 tháng 5 năm 1859) là vua của Vương quốc Hai Sicilia từ
**Maria Carolina Ferdinanda của Hai Sicilie** (29 tháng 11 năm 1820 – 14 tháng 1 năm 1861) là Vương nữ Hai Sicilie, là con gái của Francesco I của Hai Sicilie và María Isabel của
**María Luisa của Parma** (Luisa Maria Teresa Anna; 9 tháng 12 năm 1751 – 2 tháng 1 năm 1819) là vợ của Carlos IV của Tây Ban Nha. Mối quan hệ của María Luisa với
**Francesco I của Hai Sicilia** (tiếng Ý: Francesco Gennaro Giuseppe Saverio Giovanni Battista; 19 tháng 8 năm 1777 – 8 tháng 11 năm 1830) là Vua của Vương quốc Hai Sicilia từ 1825 đến 1830
Dom **Pedro I** (tiếng Việt:Phêrô I; 12 tháng 10 năm 1798 – 24 tháng 9 năm 1834), biệt danh "Người Giải phóng", là người thành lập và nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc Brasil. Với
**Élisabeth của Pháp** hay **Isabelle của Bourbon** (22 tháng 11 năm 1602 – 6 tháng 10 năm 1644) là con gái của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici cũng như là Vương hậu
**Maria Karolina của Áo** (; tên đầy đủ: _Maria Karolina Luise Josepha Johanna Antonia_; 13 tháng 8 năm 1752 – 8 tháng 9 năm 1814) là Vương hậu của Napoli và Sicilia với tư cách
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Carlo Alberto I của Sardegna** (tiếng Anh: _Charles Albert_; 2 tháng 10 năm 1798 - 28 tháng 7 năm 1849) là Vua của Sardinia từ ngày 27 tháng 4 năm 1831 cho đến khi tuyên
**Ferdinando I** (12 tháng 1 năm 1751 – 4 tháng 1 năm 1825) là Vua của Vương quốc Hai Sicilie từ năm 1816, sau khi được khôi phục ngai vàng bởi Đại hội Viên qua
**Carlo Ludovico Ferdinando di Borbone-Parma** (22 tháng 12 năm 1799 – 16 tháng 4 năm 1883), còn được viết là **Charles-Louis** theo tiếng Pháp hoặc **Carlos Luis** theo tiếng Tây Ban Nha, là Vua của
**Hiệp ước Aranjuez (1801)** (tiếng Pháp: _Traité d'Aranjuez_) được ký kết vào ngày 21 tháng 3 năm 1801 giữa Đệ Nhất Cộng hòa Pháp và Vương quốc Tây Ban Nha. Hiệp ước này xác nhận
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
**Madrid** () là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Tây Ban Nha. Dân số thành phố vào khoảng 3,4  triệu người, toàn bộ dân số của vùng đô thị Madrid ước tính