✨Thủ tướng Tây Ban Nha

Thủ tướng Tây Ban Nha

Chủ tịch Chính phủ Tây Ban Nha (), thường được gọi là thủ tướng Tây Ban Nha, là người đứng đầu chính phủ của Tây Ban Nha. Chủ tịch Chính phủ bổ nhiệm các bộ trưởng, chủ trì Hội đồng Bộ trưởng, quyết định các chính sách của Chính phủ và phối hợp hoạt động của các thành viên Nội các. Là người đứng đầu nhánh hành pháp, chủ tịch Chính phủ cũng tư vấn cho quân chủ về việc thực hiện các đặc quyền hoàng gia.

Chức vụ chủ tịch Chính phủ lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1824 trong sắc lệnh của Quốc vương Fernando VII dưới tên gọi quốc vụ khanh, là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Hiện tại, chức vụ chủ tịch Chính phủ được quy định tại Hiến pháp 1978.

Trong trường hợp khuyết chủ tịch Chính phủ thì quân chủ sẽ đề cử một ứng cử viên chủ tịch Chính phủ để Đại hội Đại biểu bỏ phiếu tín nhiệm. Trên thực tế, chủ tịch Chính phủ gần như luôn là lãnh đạo của đảng lớn nhất trong Đại hội Đại biểu. Cung điện Moncloa ở Madrid là nơi ở và làm việc chính thức của chủ tịch Chính phủ.

Tên gọi chính thức

Từ năm 1939, người đứng đầu chính phủ của Tây Ban Nha chính thức được gọi là "chủ tịch Chính phủ" ().

Lịch sử

Từ thế kỷ 15, các quân chủ Tây Ban Nha đã giao quyền hành pháp cho những cá nhân khác nhau mà quan trọng nhất là các sủng thần () và quốc vụ khanh. Sủng thần là người thân tín nhất của các quân chủ và nhân danh quân chủ thực hiện vương quyền, tồn tại từ thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 17. Từ thế kỷ 18, các quốc vụ khanh thay thế các sủng thần như người đứng đầu chính phủ. Cả sủng thần và quốc vụ khanh đều là thủ tướng trên thực tế của Tây Ban Nha; ngay từ thế kỷ 17, sủng thần đã được các cận thần và nhà văn đương thời gọi là "thủ tướng của Tây Ban Nha". Hội đồng Bộ trưởng do bộ trưởng ngoại giao chủ trì khi quân chủ không chủ trì và đóng vai trò là thủ tướng. Hiến pháp 1845, Hiến pháp 1869, và Hiến pháp 1876 đều quy định quyền hạn này của quân chủ. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Adolfo_Su%C3%A1rez,_durante_su_discurso_de_investidura_en_el_Congreso_de_los_Diputados.jpg|trái|nhỏ|[[Adolfo Suárez phát biểu nhậm chức trước Đại hội Đại biểu tại Cung điện Quốc hội, Madrid vào ngày 30 tháng 3 năm 1979.]] Hiến pháp Tây Ban Nha 1931 quy định thủ tướng và các bộ trưởng do tổng thống bổ nhiệm, miễn nhiệm nhưng chịu trách nhiệm trước Quốc hội và có thể bị Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm. Trong Nội chiến Tây Ban Nha, chức vụ người đứng đầu chính phủ của quân Quốc dân được gọi là Người đứng đầu Chính phủ Nhà nước. Từ tháng 1 năm 1938, chức vụ này lấy tên gọi hiện tại là Chủ tịch Chính phủ. Từ năm 1938 đến năm 1973, Francisco Franco giữ chức vụ chủ tịch Chính phủ.

Năm 1973, Francisco Franco từ bỏ chức vụ chủ tịch Chính phủ và tách vai trò nguyên thủ quốc gia khỏi người đứng đầu chính phủ. Adolfo Suárez là thủ tướng dân cử đầu tiên của thời kỳ hậu Franco, ông được Quốc vương Juan Carlos I bổ nhiệm vào ngày 3 tháng 7 năm 1976 và được tái cử trong cuộc tổng tuyển cử Tây Ban Nha 1977.

Quy trình bổ nhiệm

Sau khi quân chủ tổ chức cuộc tổng tuyển cử, các đảng sẽ chỉ định ứng cử viên chủ tịch Chính phủ, thường là lãnh đạo đảng. Chủ tịch Chính phủ đương nhiệm bị miễn nhiệm nhưng tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi chủ tịch Chính phủ mới được bổ nhiệm.

Điều 99 Hiến pháp quy định quy trình bổ nhiệm chủ tịch Chính phủ. Sau mỗi cuộc bầu cử Đại hội Đại biểu và trong những trường hợp khác được quy định tại Hiến pháp, quân chủ sẽ tham khảo ý kiến của các lãnh đạo của các đảng trong Đại hội Đại biểu và chủ tịch Đại hội Đại biểu trước khi đề cử thủ tướng. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Palacio_de_la_Moncloa,_Madrid,_Espa%C3%B1a_edited.jpg|phải|nhỏ|250x250px|Cung Moncloa là nơi ở và làm việc chính thức của thủ tướng. Theo thông lệ chính trị do Juan Carlos I thiết lập kể từ khi Hiến pháp 1978 được phê chuẩn, ứng cử viên chủ tịch Chính phủ thường được quân chủ đề cử trong số các đảng chiếm đa số trong Đại hội Đại biểu, được coi là sự tán thành của quân chủ đối với tiến trình dân chủ.

Trong trường hợp khuyết chủ tịch Chính phủ thì quân chủ sẽ đề cử một ứng cử viên chủ tịch Chính phủ để Đại hội Đại biểu bỏ phiếu tín nhiệm. Trên thực tế, chủ tịch Chính phủ gần như luôn là lãnh đạo của đảng lớn nhất trong Đại hội Đại biểu. Cung điện Moncloa ở Madrid là nơi ở và làm việc chính thức của chủ tịch Chính phủ.]] Sau khi ứng cử viên chủ tịch Chính phủ được bỏ phiếu tín nhiệm, chủ tịch Đại hội Đại biểu sẽ báo cáo với quân chủ. Sau đó, quân chủ chính thức bổ nhiệm chủ tịch Chính phủ và lệnh bổ nhiệm cũng được chủ tịch Đại hội Đại biểu tiếp ký.

Theo thông lệ, buổi lễ tuyên thệ nhậm chức do quân chủ chủ trì và được tổ chức tại Hội trường Triều kiến của Cung điện Zarzuela. Tân chủ tịch Chính phủ sẽ tuyên thệ nhậm chức bằng cách đặt tay phải lên Hiến pháp mở. Từ năm 2014, chủ tịch Chính phủ có thể sử dụng một cuốn Kinh Thánh và một cây khổ hình. Hiện tại, Pedro Sánchez là chủ tịch Chính phủ duy nhất từ chối sử dụng Kinh Thánh. Mariano Rajoy, người tiền nhiệm của Sánchez và một người Công giáo, tuyên thệ nhậm chức bằng cách đặt tay phải lên Hiến pháp và tay trái lên Kinh Thánh. Theo truyền thống, nếu thành viên chính phủ không sử dụng bất kỳ biểu tượng tôn giáo nào thì họ sẽ nói "" ("Tôi cam kết"), trong khi nếu họ sử dụng Kinh Thánh thì họ sẽ nói "" ("Tôi tuyên thệ"). Lời tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ đầu tiên của Chủ tịch Chính phủ José Zapatero vào ngày 17 tháng 4 năm 2004 là:

Nhiệm vụ và quyền hạn

Chương IV Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ. Chính phủ gồm chủ tịch Chính phủ và các bộ trưởng. Chính phủ thay mặt nhân dân, nhân danh quân chủ thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại, quản lý nhà nước về dân sự và quân sự và thống lĩnh Lực lượng Vũ trang Tây Ban Nha. Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và có quyền ban hành văn bản theo luật định.

Điều 64 Hiến pháp quy định chủ tịch Chính phủ và các bộ trưởng chịu trách nhiệm chính trị đối với hành vi của quân chủ và tiếp ký văn bản của quân chủ. Chủ tịch Chính phủ có quyền đề nghị quân chủ trưng cầu ý dân, tổ chức tổng tuyển cử mới hoặc giải tán các viện Quốc hội. Các bộ trưởng không thể buộc thủ tướng từ chức và chủ tịch Chính phủ có quyền đề nghị Đại hội Đại biểu lấy phiếu tín nhiệm. Trong các vấn đề hiến pháp, chủ tịch Chính phủ có quyền đề nghị Tòa án Hiến pháp Tây Ban Nha xem xét nhiệm tính hợp hiến của một đạo luật hoặc một văn bản pháp quy.

Phủ Chủ tịch

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:E.T.S.I._Caminos,_Canales_y_Puertos,_2016_(04),_palacio_Moncloa.jpg|nhỏ|250x250px|Cung Moncloa nhìn từ [[Đại học Kỹ thuật Madrid.]] Phủ Chủ tịch Chính phủ () là bộ máy giúp việc của chủ tịch Chính phủ, giúp chủ tịch Chính phủ thực hiện nhiệm vụ. Phủ Chủ tịch Chính phủ được thành lập vào khoảng năm 1834 khi văn phòng thư ký riêng của chủ tịch Chính phủ bắt đầu được giao biên chế và ngân sách. Hiện tại, Phủ Chủ tịch Chính phủ hoạt động như một cơ quan ngang bộ trên thực tế và có khoảng 2.000 nhân viên.

Cảnh vệ và di chuyển

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Coat_of_Arms_of_the_Spanish_Head_of_Government_Office_Security_Department.svg|nhỏ|162x162px|Biểu trưng Cục An ninh Phủ Chủ tịch Chính phủ. Văn phòng Nội các thuộc Ban Tổng thư ký Phủ Chủ tịch Chính phủ chịu trách nhiệm về các vấn đề an ninh và lễ tân. Cục An ninh Phủ Chủ tịch Chính phủ (DSPG) thuộc Ban Tổng thư ký có nhiệm vụ phối hợp các nỗ lực của Cảnh sát Quốc gia và Vệ binh Quốc dân để bảo vệ chủ tịch Chính phủ và gia đình, cũng như cơ sở hạ tầng và nhân sự của Cung điện Moncloa. Chủ tịch Chính phủ có thể đề nghị Đại hội Đại biểu lấy phiếu tín nhiệm về các chính sách của Chính phủ sau khi thảo luận tại Hội đồng Bộ trưởng. Nếu Đại hội Đại biểu không tín nhiệm Chính phủ thì chủ tịch Chính phủ phải từ chức. Tính đến năm 2023, Adolfo Suárez vào năm 1980 và Felipe González vào năm 1990 là hai chủ tịch Chính phủ duy nhất đề nghị Đại hội Đại biểu lấy phiếu tín nhiệm thành công.

Quyền ưu tiên, đặc quyền và kính ngữ

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Inauguraci%C3%B3n_Tribunal_Constitucional_1980_(1).jpg|nhỏ|Chủ tịch Chính phủ [[Adolfo Suárez (trái) đứng cạnh Quốc vương Juan Carlos I vào năm 1980.]] Chủ tịch Chính phủ là chức danh cao thứ hai của Tây Ban Nha, cao hơn tất cả các chức danh nhà nước khác ngoại trừ các thành viên của vương thất Tây Ban Nha.

Năm 2023, mức lương của chủ tịch Chính phủ là 90.010 euro cộng với mức lương nghị sĩ Đại hội Đại biểu là 13.422 euro, thấp hơn mức lương của những chức danh khác của Tây Ban Nha như thành viên vương thất (Quân chủ là 269.296 euro; Nữ hoàng là 148.105 euro; Hoàng thái hậu là 121.186 euro), chủ tịch Đại hội Đại biểu (230.931 euro), chủ tịch Tòa án Hiến pháp (167.169 euro),

Theo thông lệ, chủ tịch Chính phủ được gọi bằng kính ngữ (nữ được gọi là ). Kính ngữ này được các bộ trưởng sử dụng kể từ ít nhất là thế kỷ 18 và cũng kèm theo tư cách thành viên Huân chương Carlos III mà chủ tịch Chính phủ nhận được khi được bổ nhiệm.

Phó Chủ tịch Chính phủ

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Joaqu%C3%ADn_Mar%C3%ADa_de_Ferrer_y_Cafranga.jpg|nhỏ|Joaquín María Ferrer y Cafranga là phó chủ tịch Chính phủ Tây Ban Nha đầu tiên từ tháng 10 năm 1840 đến tháng 5 năm 1841. Hiến pháp 1978 quy định Chính phủ gồm các phó chủ tịch Chính phủ. Tuy đã tồn tại kể từ năm 1840, chức vụ phó chủ tịch Chính phủ được Luật Tổ chức nhà nước chính thức quy định vào năm 1967. Đạo luật cũng lần đầu tiên cho phép bổ nhiệm hơn một phó chủ tịch Chính phủ. Năm 1974, Chủ tịch Chính phủ Carlos Arias Navarro bổ nhiệm ba phó chủ tịch Chính phủ (José García Hernández, Antonio Barrera de Irimo và Licinio de la Fuente). Kể từ đó, ba chủ tịch Chính phủ khác (Adolfo Suárez, José Luis Rodríguez Zapatero và Pedro Sánchez) đã có hơn một phó chủ tịch Chính phủ . Chính phủ thứ hai của Pedro Sánchez có bốn phó chủ tịch Chính phủ, là chính phủ có nhiều phó chủ tịch Chính phủ nhất. Sở dĩ Sánchez bổ nhiệm bốn phó chủ tịch Chính phủ là để giảm trọng trách chính trị của Phó Chủ tịch Chính phủ thứ hai Pablo Iglesias Turrión, là lãnh đạo đảng thiểu số trong chính phủ liên hiệp.

Kế nhiệm

Điều 101 Hiến pháp quy định Chính phủ từ chức sau khi Quốc hội khóa mới được bầu xong và trong trường hợp chủ tịch Chính phủ từ chức hoặc qua đời hoặc Chính phủ bị bỏ phiếu bất tín nhiệm. Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Đại hội Đại biểu phê chuẩn chủ tịch Chính phủ mới.

Luật Chính phủ 1997 quy định trong trường hợp chủ tịch Chính phủ qua đời thì phó chủ tịch Chính phủ kế nhiệm chủ tịch Chính phủ theo thứ tự của các phó chủ tịch Chính phủ. Nếu khuyết phó chủ tịch Chính phủ thì các bộ trưởng kế nhiệm chủ tịch Chính phủ theo thứ tự ưu tiên của các bộ. Bốn bộ trưởng đầu tiên theo thứ tự là bộ trưởng Bộ Ngoại giao, bộ trưởng Bộ Tư pháp, bộ trưởng Bộ Quốc phòng và bộ trưởng Bộ Tài chính, là những đại chức vụ đầu tiên được Quốc vương Felipe V thành lập vào năm 1714.liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Juan_Bravo_Murillo.jpg|nhỏ|[[:en:Juan Bravo Murillo|Juan Bravo Murillo, chủ tịch Chính phủ từ năm 1851 đến năm 1852, đeo Huân chương Carlos III (tranh năm 1877 của Manuel García Hispaleto).]]

Danh dự và đặc quyền nghỉ hưu

Theo thông lệ, chủ tịch Chính phủ nghỉ hưu sẽ được quân chủ phong tặng một số danh dự. Một nguyên chủ tịch Chính phủ thường sẽ được trao tăng Huân chương Isabella Công giáo, là huân chương dân sự cao quý thứ hai của Tây Ban Nha.

Huân chương Carlos III

Sắc lệnh hoàng gia ngày 11 tháng 10 năm 2002 quy định chủ tịch Chính phủ là thành viên cao thứ hai của Huân chương Carlos III, là huân chương dân sự cao quý nhất của Tây Ban Nha, được Quốc vương Carlos III thành lập vào năm 1771.

Năm 1992, chính phủ cập nhật Quy chế nguyên chủ tịch Chính phủ, bãi bỏ giới hạn thời gian mà nguyên chủ tịch Chính phủ được hưởng các chế độ và bổ sung hỗ trợ ngoại giao ở nước ngoài, chế độ cảnh vệ, một khoản lương cá nhân trong hai năm sau khi hết nhiệm kỳ, quyền sử dụng phương tiện giao thông công cộng miễn phí và một khoản trợ cấp cho chi phí văn phòng.

Từ năm 2004, nguyên chủ tịch Chính phủ nghỉ hưu có quyền tham gia Hội đồng Nhà nước suốt đời. Tính đến năm 2023, chỉ có nguyên chủ tịch Chính phủ José María Aznar López (2005–2006) và José Luis Rodríguez Zapatero (2011–2015) sử dụng đặc quyền này.

Danh sách chủ tịch Chính phủ Tây Ban Nha

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chủ tịch Chính phủ Tây Ban Nha** (), thường được gọi là **thủ tướng Tây Ban Nha**, là người đứng đầu chính phủ của Tây Ban Nha. Chủ tịch Chính phủ bổ nhiệm các bộ
[[Thủ tướng Tây Ban Nha|Thủ tướng đương nhiệm Pedro Sánchez.]] **Danh sách Thủ tướng Tây Ban Nha** là danh sách người đứng đầu chính phủ trong lịch sử Tây Ban Nha, chức vụ còn được
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Tây Ban Nha thời Franco** () hoặc **Chế độ độc tài Francisco Franco** (), chính thức được gọi là **Quốc gia Tây Ban Nha** (), là thời kỳ lịch sử Tây Ban Nha từ năm
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
**Beatriz của Tây Ban Nha** hay **Beatriz de Borbón y Battenberg** (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: _Beatrice of Spain_; tiếng Scotland: _Beatrice o Spain_; tiếng Ý: _Beatrice di Borbone-Spagna_; tiếng Đức:
**Quan hệ Pháp – Tây Ban Nha** (tiếng Anh: _France–Spain relations_ hay _French–Spanish_) hay **quan hệ Pháp – Tây** là quan hệ song phương giữa Pháp và Tây Ban Nha, trong đó cả hai đều
Để đối phó với sự bùng phát ngày càng gia tăng của đại dịch COVID-19, chính phủ Tây Ban Nha đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp và đồng thời áp dụng lệnh phong tỏa
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha** là xung đột quân sự giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ xảy ra từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1898 liên quan đến vấn đề về
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha** () là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha trên bình diện quốc tế
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
**Chiến tranh Pháp-Tây Ban Nha** là một cuộc xung đột quân sự đã đẩy nước Pháp tham chiến trong Chiến tranh Ba mươi năm. Sau khi các đồng minh Đức của Thụy Điển buộc phải
**Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha** (1625–1630) là một cuộc chiến do Tây Ban Nha phát động nhằm chống lại Vương quốc Anh và Các tỉnh Liên hiệp. Cuộc xung đột này thuộc một phần của
**Động từ tiếng Tây Ban Nha** tạo ra một khía cạnh khó của tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Tây Ban Nha là một ngôn ngữ tương đối tổng hợp với một mức độ biến tố
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
**Cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha**, còn gọi là **Cuộc chinh phục Mexico** hay **Chiến tranh Aztec-Tây Ban Nha** (1519-1521) là một trong những sự kiện quan trọng nhất của quá
**Đông Ấn Tây Ban Nha** (; tiếng Filipino: _Silangang Indiyas ng Espanya_) là lãnh thổ Tây Ban Nha tại Châu Á-Thái Bình Dương từ 1565 đến 1899. Bao gồm Philippines, Quần đảo Mariana, the Quần
**Vua Tây Ban Nha** (), hiến pháp gọi là **Ngôi vua** (la Corona) và thường được gọi **chế độ quân chủ Tây Ban Nha** (Monarquía de España) hoặc **chế độ quân chủ Hispanic** (Monarquía Hispánica)
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**Carlos IV** (Tiếng Anh: Charles IV, Tiếng Tây Ban Nha: Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno José Januario Serafín Diego; sinh 11/11/1748 - mất 20/01/1819) là vua của Vương quốc Tây Ban Nha và
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Hôn nhân cùng giới ở Tây Ban Nha** hợp pháp hóa từ ngày 3 tháng 7 năm 2005. Năm 2004, chính phủ của Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Tây Ban Nha vừa mới
**Đại hội Đại biểu Tây Ban Nha** là hạ viện của Quốc hội Tây Ban Nha. Đại hội Đại biểu gồm 350 đại biểu được bầu theo hệ thống phổ thông đầu phiếu theo danh
**Chính phủ Tây Ban Nha** () là cơ quan đứng đầu ngành hành pháp đất nước và chỉ đạo Trung ương. Chính phủ do Đại hội Đại biểu kiểm soát, thông qua sự trao quyền
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
**María del Pilar của Tây Ban Nha** (; 4 tháng 6 năm 1861 – 5 tháng 8 năm 1879) là người con thứ ba cũng như là con gái thứ hai sống qua tuổi ấu
**Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha** (; 25 tháng 9 năm 1808 - 29 tháng 9 năm 1833) là tên gọi chỉ chung các cuộc binh biến diễn ra ở châu
Đây là cuộc tổng tuyển cử được tổ chức vào Chủ nhật, ngày 28 tháng 4 năm 2019, để bầu ra Quốc hội Tây Ban Nha thứ 13 của Vương quốc Tây Ban Nha. Tất
Tiếng Tây Ban Nha có những danh từ diễn tả các vật cụ thể, các nhóm và phân loại của vật, số lượng, cảm xúc và các khái niệm trìu tượng khác. Tất cả các
Giới từ của tiếng Tây Ban Nha—như giới từ trong các ngôn ngữ khác—là bộ các từ nối (như là _con_, _de_ hoặc _para_) có mục dích chỉ mối quan hệ giữa một từ nội
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**Cuộc chinh phục Chiapas của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột quân sự khởi phát bởi những chinh phục tướng công Tây Ban Nha nhằm chống lại các chính thể Trung Bộ
**Ana của Tây Ban Nha, hay Ana của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Ana María Mauricia de Austria y Austria-Estiria_ hay _Ana de España_; tiếng Đức: _Anna von Österreich_; tiếng Bồ Đào Nha: _Ana da
**María Isabel Francisca de Asís của Tây Ban Nha, Isabel của Tây Ban Nha hay Isabel de Borbón y Borbón** (; 20 tháng 12 năm 1851 – 22 tháng 4 năm 1931) là con gái
**María Ana của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Ana de España_, tiếng Đức: _Maria Anna von Spanien_; tiếng Anh: _Maria Anna of Spain_; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5
**Tiếng Tây Ban Nha** (**'), cũng được gọi là **tiếng Castilla** () hay **tiếng Y Pha Nho''' theo lối nói cũ, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Iberia-Rôman của nhóm ngôn ngữ Rôman, và là
phải|[[Allegory của Cộng hòa Tây Ban Nha, được công bố trên một tạp chí châm biếm và tự do]] **Đệ nhất Cộng hòa Tây Ban Nha** là một chính thể từng tồn tại ở Tây
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha hay María de las Mercedes de Borbón y Habsburgo-Lorena** (tiếng Tây Ban Nha: _María de las Mercedes de España_; 11 tháng 9 năm 1880 – 17 tháng
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3