✨Văn học Tây Ban Nha

Văn học Tây Ban Nha

phải|nhỏ|345x345px| [[Don Quijote|Don Quixote của Cervantes được coi là tác phẩm tiêu biểu nhất trong các kinh điển của văn học Tây Ban Nha và một tác phẩm cổ điển của văn học phương Tây.]] Văn học Tây Ban Nha thường đề cập đến các thể loại văn học (thơ, văn xuôi và kịch) tiếng Tây Ban Nha) được viết bằng ngôn ngữ Tây Ban Nha trong lãnh thổ hiện nay tạo thành Vương quốc Tây Ban Nha. Sự phát triển của nó trùng khớp và thường xuyên giao thoa với các truyền thống văn học khác từ các vùng trong cùng lãnh thổ, đặc biệt là văn học Catalan, Galicia giao thoa với các truyền thống văn học Latin, Do Thái và Ả Rập của bán đảo Iberia. Văn học của Tây Ban Nha Mỹ là một nhánh quan trọng của văn học Tây Ban Nha, với những đặc điểm riêng của nó có từ những năm đầu tiên của cuộc chinh phạt châu Mỹ của Tây Ban Nha (xem văn học Mỹ Latinh).

Tổng quan

Cuộc chinh phục và chiếm đóng của La Mã trên bán đảo Iberia bắt đầu từ thế kỷ thứ 3 TCN đã mang một nền văn hóa Latin đến các vùng lãnh thổ Tây Ban Nha. Sự xuất hiện của những kẻ xâm lược Hồi giáo vào năm 711 CE đã mang lại các nền văn hóa ở Trung và Viễn Đông. Trong văn học Tây Ban Nha thời Trung cổ, những ví dụ được ghi lại sớm nhất về văn học dựa trên Lãng mạn bản địa pha trộn văn hóa Hồi giáo, Do Thái và Kitô giáo. Một trong những tác phẩm đáng chú ý là bài thơ sử thi Cantar de Mio Cid, được viết vào năm 1140. Văn xuôi Tây Ban Nha đã trở nên phổ biến vào giữa thế kỷ thứ mười ba. Thơ trữ tình trong thời trung cổ bao gồm những bài thơ phổ biến và thơ lịch sự của các quý tộc. Trong thế kỷ 15, thời kỳ tiền Phục hưng xảy ra và lượng các tác phẩm văn học tăng lên rất nhiều. Trong các chủ đề quan trọng của thời Phục hưng là thơ, văn học tôn giáo và văn xuôi.

Vào thế kỷ 16, các tiểu thuyết đầu tiên của Tây Ban Nha đã xuất hiện, Lazarillo de TormesGuzmán de Alfarache. Trong kỷ nguyên Baroque của thế kỷ 17, các tác phẩm quan trọng là văn xuôi của Francisco de Quevedo và Baltasar Gracián. Một tác giả đáng chú ý là Miguel de Cervantes Saattedra, nổi tiếng với kiệt tác Don Quixote de la Mancha. Trong cuốn tiểu thuyết này, Cervantes đã củng cố hình thức văn học mà tiểu thuyết picaresque đã thiết lập ở Tây Ban Nha thành một câu chuyện hư cấu trở thành khuôn mẫu cho nhiều tiểu thuyết gia trong suốt lịch sử văn học Tây Ban Nha.

Trong kỷ nguyên Khai sáng của thế kỷ 18, các tác phẩm đáng chú ý bao gồm văn xuôi của Feijoo, Jovellanos và Cadalso; lời bài hát của Juan Meléndez Valdés, Tomás de Iriarte và Félix María Samaniego), và nhà hát, với Leandro Fernández de Moratín, Ramón de la Cruz, và Vicente García de la Huerta. Trong chủ nghĩa lãng mạn (đầu thế kỷ 19) các chủ đề quan trọng là: thơ của Jose de Espronceda và các nhà thơ khác; văn xuôi; nhà hát, với Ángel de Saattedra (Công tước Rivas), Jose Zorrilla, và các tác giả khác. Trong Chủ nghĩa hiện thực (cuối thế kỷ 19), pha trộn với Chủ nghĩa Tự nhiên, các chủ đề quan trọng là tiểu thuyết, với Juan Valera, José María de Pereda, Benito Pérez Galdós, Emilia Pardo Bazán, Leopoldo Alas (Clarín), Armando Palacio Valdés, Vicente Blasco Ibáñez; thơ, với Ramón de Campoamor, Gaspar Núñez de Arce, và các nhà thơ khác; nhà hát, với Jose Echegaray, Manuel Tamayo y Baus, và các nhà soạn kịch khác; và các nhà phê bình văn học, đặc biệt là Menéndez Pelayo.

Trong Chủ nghĩa hiện đại, một số dòng chảy xuất hiện: Chủ nghĩa Parnasian, Chủ nghĩa tượng trưng, Chủ nghĩa vị lai và Chủ nghĩa sáng tạo. Sự phá hủy hạm đội của Tây Ban Nha tại Cuba vào năm 1898 đã gây ra một cuộc khủng hoảng ở Tây Ban Nha. Một nhóm các nhà văn trẻ, trong đó có Miguel de Unamuno, Pío Baroja và José Martínez Ruiz (Azorín), đã thay đổi hình thức và nội dung văn học. Vào năm 1914, năm bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ nhất và xuất bản tác phẩm lớn đầu tiên của giọng nói hàng đầu thế hệ, số nhà văn trẻ hơn một chút của Jose Ortega y Gasset đã thiết lập vị trí của riêng mình trong văn hóa Tây Ban Nha. Tiếng nói hàng đầu bao gồm các nhà thơ Juan Ramón Jiménez, các bài nghiên cứu và viết tiểu luận Ramón Menéndez Pidal, Gregorio Maranon, Manuel Azaña, Eugeni d'ORS, và Ortega y Gasset, và những tiểu thuyết gia Gabriel Miró, Ramón Pérez de Ayala, và Ramón Gómez de la Serna. Khoảng năm 1920, một nhóm các nhà văn trẻ, hầu hết các nhà thơ, đã bắt đầu xuất bản các tác phẩm mà từ khi bắt đầu cho thấy mức độ mà các nghệ sĩ trẻ đang tiếp thu thử nghiệm văn học của các nhà văn vào năm 1898 và 1914. Các nhà thơ đã gắn chặt với kinh viện hình thức. Những người viết tiểu thuyết như Stewamín Jarnés, Rosa Chacel, Francisco Ayala và Ramón J. Sender cũng không kém phần thử nghiệm và mang tính học thuật.

Nội chiến Tây Ban Nha đã có một tác động tàn phá đối với văn học Tây Ban Nha. Trong số ít các nhà thơ và nhà văn nội chiến, Miguel Hernández nổi bật. Trong thời kỳ độc tài đầu tiên (1939-1955), với nền văn học đã đi theo tầm nhìn phản động của nhà độc tài Francisco Franco về một thời kỳ hoàng kim thứ hai của Công giáo Tây Ban Nha. Vào giữa những năm 1950, giống như với cuốn tiểu thuyết, một thế hệ mới chỉ trải qua cuộc Nội chiến Tây Ban Nha thời thơ ấu đã đến độ chín. Đến đầu những năm 1960, các tác giả Tây Ban Nha đã tiến tới một thử nghiệm văn học không ngừng nghỉ. Khi Franco qua đời năm 1975, công việc quan trọng của việc thiết lập nền dân chủ đã có tác động ngay lập tức đối với các lá thư Tây Ban Nha. Trong nhiều năm tiếp theo, rất nhiều nhà văn trẻ mới, trong đó có Juan Jose Millás, Rosa Montero, Javier Marías, Luis Mateo Díez, José María Merino, Félix de Azúa, Cristina Fernández Cubas, Enrique Vila-Matas, Carme Riera, sau này Antonio Muñoz Molina và Almudena Grandes, sẽ bắt đầu tạo ra một vị trí nổi bật cho mình trong lĩnh vực văn hóa Tây Ban Nha.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|345x345px| [[Don Quijote|Don Quixote của Cervantes được coi là tác phẩm tiêu biểu nhất trong các kinh điển của văn học Tây Ban Nha và một tác phẩm cổ điển của văn học phương Tây.]]
**Văn hóa Tây Ban Nha** là một nền văn hóa châu Âu chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều nền văn hóa trong lịch sử, bao gồm các nền văn hóa tiền-La Mã, chủ yếu
**Tiếng Tây Ban Nha** (**'), cũng được gọi là **tiếng Castilla** () hay **tiếng Y Pha Nho''' theo lối nói cũ, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Iberia-Rôman của nhóm ngôn ngữ Rôman, và là
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
**Hôn nhân cùng giới ở Tây Ban Nha** hợp pháp hóa từ ngày 3 tháng 7 năm 2005. Năm 2004, chính phủ của Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Tây Ban Nha vừa mới
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Đông Ấn Tây Ban Nha** (; tiếng Filipino: _Silangang Indiyas ng Espanya_) là lãnh thổ Tây Ban Nha tại Châu Á-Thái Bình Dương từ 1565 đến 1899. Bao gồm Philippines, Quần đảo Mariana, the Quần
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha**, còn gọi là **Cuộc chinh phục Mexico** hay **Chiến tranh Aztec-Tây Ban Nha** (1519-1521) là một trong những sự kiện quan trọng nhất của quá
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Tây Ban Nha thời Franco** () hoặc **Chế độ độc tài Francisco Franco** (), chính thức được gọi là **Quốc gia Tây Ban Nha** (), là thời kỳ lịch sử Tây Ban Nha từ năm
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
**María del Pilar của Tây Ban Nha** (; 4 tháng 6 năm 1861 – 5 tháng 8 năm 1879) là người con thứ ba cũng như là con gái thứ hai sống qua tuổi ấu
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha** () là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha trên bình diện quốc tế
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Carlos IV** (Tiếng Anh: Charles IV, Tiếng Tây Ban Nha: Carlos Antonio Pascual Francisco Javier Juan Nepomuceno José Januario Serafín Diego; sinh 11/11/1748 - mất 20/01/1819) là vua của Vương quốc Tây Ban Nha và
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**Động từ tiếng Tây Ban Nha** tạo ra một khía cạnh khó của tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Tây Ban Nha là một ngôn ngữ tương đối tổng hợp với một mức độ biến tố
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**Vua Tây Ban Nha** (), hiến pháp gọi là **Ngôi vua** (la Corona) và thường được gọi **chế độ quân chủ Tây Ban Nha** (Monarquía de España) hoặc **chế độ quân chủ Hispanic** (Monarquía Hispánica)
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha** là xung đột quân sự giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ xảy ra từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1898 liên quan đến vấn đề về
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
**Chủ tịch Chính phủ Tây Ban Nha** (), thường được gọi là **thủ tướng Tây Ban Nha**, là người đứng đầu chính phủ của Tây Ban Nha. Chủ tịch Chính phủ bổ nhiệm các bộ
**Quốc hội Tây Ban Nha** (, ) là cơ quan lập pháp lưỡng viện của Tây Ban Nha. Quốc hội gồm Đại hội Đại biểu và Thượng viện. Quốc hội có quyền làm luật và
**Alfonso XII** (_Alfonso Francisco de Asís Fernando Pío Juan María de la Concepción Gregorio Pelayo_; 28 tháng 11 năm 1857 - 25 tháng 11 năm 1885) còn được gọi là **El Pacificador** (tiếng Tây Ban
**Ana của Tây Ban Nha, hay Ana của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Ana María Mauricia de Austria y Austria-Estiria_ hay _Ana de España_; tiếng Đức: _Anna von Österreich_; tiếng Bồ Đào Nha: _Ana da
**Blanca của Tây Ban Nha** hay **Blanca de Borbón** (7 tháng 9 năm 1868 – 25 tháng 10 năm 1949) là con cả của Carlos María của Tây Ban Nha, người đòi ngai vàng Tây
Tiếng Tây Ban Nha có những danh từ diễn tả các vật cụ thể, các nhóm và phân loại của vật, số lượng, cảm xúc và các khái niệm trìu tượng khác. Tất cả các
**Fernando VII của Tây Ban Nha** (tiếng Anh: Ferdinand VII; 14 tháng 10 năm 1784 - 29 tháng 9 năm 1833) ông trị vì Vương quốc Tây Ban Nha trong hai lần, lần đầu vào
**Ván cờ Tây Ban Nha**, hay cũng thường được gọi là **Khai cuộc Tây Ban Nha** hoặc **Ruy López** là một khai cuộc cờ vua đặc trưng bởi các nước đi sau: :1. e4 e5
**Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha** (; 25 tháng 9 năm 1808 - 29 tháng 9 năm 1833) là tên gọi chỉ chung các cuộc binh biến diễn ra ở châu
**Tiếng Tây Ban Nha Colombia** (tiếng Tây Ban Nha: _Español colombiano_ hoặc _castellano colombiano_) là một nhóm phương ngữ tiếng Tây Ban Nha được nói ở Colombia như là ngôn ngữ quốc gia chính thức
**Felipe VI của Tây Ban Nha (Felipe đệ lục)** (; sinh 30 tháng 1 năm 1968) là vua trị vì Tây Ban Nha từ ngày 19 tháng 6 năm 2014, một ngày sau khi cha
**María de la Paz của Tây Ban Nha** (; 23 tháng 6 năm 1862 – 4 tháng 12 năm 1946) là một Vương nữ Tây Ban Nha, con gái của Isabel II của Tây Ban
Vào ngày 24 tháng 2, sau khi dịch COVID-19 bùng phát ở Ý, Tây Ban Nha đã xác nhận nhiều ca nhiễm bệnh liên quan đến các hành đoàn người Ý, bắt đầu từ một
**María Teresa của Tây Ban Nha**, **Maria Theresia của Áo** hay **María Teresa của Áo và Borbón** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Austria y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Thérèse d'Autriche_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Tiếng Tây Ban Nha México** (_español mexicano_) là một tập hợp giống của tiếng Tây Ban Nha như nói ở México và ở một số bộ phận của Hoa Kỳ và Canada. Tây Ban Nha
**Toà án của Văn phòng điều tra dị giáo** (), thường được gọi là **Toà án dị giáo Tây Ban Nha** (_Inquisición Española_), được các vị vua Công giáo Ferrando II của Aragón và Isabel
**Felipe II của Tây Ban Nha** (21 tháng 5, 1527 – 13 tháng 9, 1598), cũng gọi **Felipe Cẩn Trọng** (Felipe el Prudente), là vua Tây Ban Nha từ năm 1556 đến năm 1598, đồng
**Letizia Ortiz Rocasolano** (; ngày 15 tháng 9 năm 1972) là Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Felipe VI của Tây Ban Nha. Cũng như hầu hết