✨Đồng Sĩ Nguyên

Đồng Sĩ Nguyên

Đồng Sĩ Nguyên (1 tháng 3 năm 1923 – 4 tháng 4 năm 2019), còn được viết là Đồng Sỹ Nguyên, tên thật Nguyễn Hữu Vũ, là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, tướng lĩnh và chính trị gia của Việt Nam. Ông là vị Tư lệnh của Binh đoàn Trường Sơn trong thời gian lâu nhất (1967–1975) và là một trong hai vị tướng Quân đội nhân dân Việt Nam được phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Ông cũng từng giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ), Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Đặc phái viên Chính phủ, Đặc trách Chương trình 327 về bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, Cố vấn Đặc biệt của Thủ tướng chính phủ, tham gia Ban Chỉ đạo Nhà nước về Đường Trường Sơn. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VI, Ủy viên dự khuyết Bộ chính trị khoá V, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IV.

Xuất thân và bước đầu tham gia cách mạng

Ông tên thật là Nguyễn Hữu Vũ, sinh ngày 1 tháng 3 năm 1923, tại làng Trung Thôn, xã Quảng Trung, phủ Quảng Trạch, Quảng Bình, xuất thân trong một gia đình trung lưu. Song thân ông là ông Nguyễn Hữu Khoán và bà Đặng Thị Cấp, đều là những hậu duệ của thủ lĩnh Phong trào Cần Vương. Ông là con thứ 5 trong gia đình. Cha ông mất sớm khi ông mới 10 tuổi.

Thuở nhỏ, ông được cha dạy chữ Hán và theo học chữ Quốc ngữ bậc tiểu học tại Thọ Linh (nay thuộc xã Quảng Sơn, huyện Quảng Trạch). Chịu ảnh hưởng của gia đình, ông sớm đã có tinh thần chống thực dân Pháp. Năm 12 tuổi, ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng dưới sự hướng dẫn của ông Nguyễn Văn Huyên (bí danh là Tế), một cán bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1938, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lấy bí danh là Nguyễn Văn Đồng. Ông cũng là người nhỏ tuổi nhất khi gia nhập Đảng này từ đó đến nay (15 tuổi).

Năm 1940, ông được cử làm Bí thư chi bộ Trung Thôn (mật danh là chi bộ Bình). Cùng năm này, ông theo học bậc trung học tại trường Saint Marie ở thị xã Đồng Hới. Một năm sau, ông được phân công làm Bí thư chi bộ tại trường. Những hoạt động của ông sớm bị chính quyền thực dân theo dõi. Vì vậy, khi đang học năm thứ 3 bậc Thành chung, ông bị thực dân Pháp truy nã và phải chuyển vào bí mật tại Lào và Thái Lan, hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước để gây dựng cơ sở.

Năm 1944, ông bí mật trở về Việt Nam hoạt động, phụ trách Phủ ủy Quảng Trạch, làm chủ nhiệm báo Hồng Lạc và xây dựng chiến khu Trung Thuần, huấn luyện quân sự, tham gia Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng tháng 8, ông được bầu làm Chủ nhiệm Việt Minh, kiêm chỉ huy trưởng bộ đội Quảng Bình. Năm 1946, ông trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I.

Tham gia quân đội

Chiến tranh Đông Dương nổ ra, ông được phân công làm chính trị viên kiêm tỉnh đội trưởng Quảng Bình. Trong thời gian 1947–1948, ông chỉ huy nhiều trận tấn công quân Pháp, vì vậy, để tránh liên lụy đến gia đình, ông dùng tên mới là Đồng Sĩ Nguyên, cái tên về sau gắn bó với ông trong cuộc đời còn lại.

Năm 1950, ông được rút về Việt Bắc học lớp trung cao quân sự, sau đó được điều về Tổng cục Chính trị làm phái viên, biệt phái tham gia Bộ tư lệnh cánh phối hợp Trung Hạ Lào trong chiến dịch Đông Xuân 1953 – 1954.

Sau năm 1954, ông được điều về Bộ Tổng tham mưu, phụ trách Cục Động viên dân quân. Năm 1959, ông được phong quân hàm đại tá. Năm 1961, ông được cử sang Trung Quốc học trường Cao cấp Quân sự Bắc Kinh. Năm 1964, ông về nước và được đề bạt giữ chức vụ Tổng tham mưu phó một thời gian ngắn, sau đó được điều về làm Chính ủy Quân khu 4 năm 1965, sau đó là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Trung – Hạ Lào.

Cuối năm 1965, ông bị thương, phải về Hà Nội điều trị. Đầu năm 1966, ông được cử giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, kiêm Chủ nhiệm Hậu cần tiền phương, dưới quyền ông Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục.

Đầu năm 1967, ông được điều làm Tư lệnh Đoàn 559, thay Đại tá Hoàng Văn Thái. Ông giữ chức vụ này đến năm 1976. Năm 1974, ông được phong vượt cấp từ đại tá lên trung tướng.

Năm 1976, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Quốc phòng, phụ trách Tổng cục Xây dựng kinh tế, rồi Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Năm 1979, ông được điều trở lại quân đội, giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Thủ đô.

Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV.

Chuyển sang ngạch dân sự

Từ năm 1982, ông làm Bộ trưởng Giao thông Vận tải, được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị khóa V, Ủy viên Chính thức Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI (1986–1991), Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Sau khi thôi chức Bộ trưởng, ông được giao nhiệm vụ Đặc phái viên Chính phủ, Đặc trách Chương trình 327 về bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, rồi là Cố vấn Đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ, tham gia Ban Chỉ đạo Nhà nước về quốc lộ Hồ Chí Minh (Quốc lộ Trường Sơn).

Gắn bó với đường Trường Sơn

Cùng với các tướng Đinh Đức Thiện, Phan Trọng Tuệ, Võ Bẩm, Đồng Sĩ Nguyên là một trong những người có vai trò quan trọng trong việc xây dựng Đường mòn Hồ Chí Minh trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, đưa con đường vận tải chiến lược này thành một trong những mấu chốt quyết định thành bại trong chiến tranh.

Trong thời gian ông làm Tư lệnh Đoàn 559, tuyến giao thông chiến lược Trường Sơn từ một con đường mòn nhỏ, trở thành một tuyến giao thông vận tải lớn với cả hệ thống đường được giới truyền thông mệnh danh là "trận đồ bát quái xuyên rừng rậm". Tầm quan trọng của con đường chiến này thể hiện rõ nhất với quân số lúc cao điểm hơn 12 vạn binh sĩ, trong đó có hơn 1 vạn là lực lượng Thanh niên xung phong, phiên chế thành 8 sư đoàn và một sư đoàn cao xạ tên lửa phối thuộc. Hệ thống đường chiến lược này khi ông vào tiếp nhận đã có 5 tiểu đoàn xe với 750 xe tải, chia thành 4 binh trạm; đến năm 1975 đã phát triển thành 2 sư đoàn vận tải với 10.000 xe tải. Đường Trường Sơn không còn những con đường đơn lẻ, mà phát triển thành một hệ thống đường vận tải phức tạp với hơn 16.700 km đường bộ, trong đó có hơn 800 km đường kín, 1.500 km đường rải đá, 200 km đường nhựa. Bên cạnh đó còn có 1.500 km đường ống dẫn xăng dầu, 1.350 km đường dây cáp thông tin, 3.800 km đường giao liên, 500 km đường sông.

Hệ thống đường Trường Sơn không đơn thuần là tuyến đường giao thông, mà thực sự là chiến trường khốc liệt giữa nỗ lực của miền Bắc chi viện cho quân Giải phóng miền Nam và sự đánh phá của lực lượng quân Mỹ và đồng minh. Quân đội Mỹ và đồng minh đã tìm mọi cách từ thô sơ đến hiện đại nhất để nhằm mục đích cắt đứt con đường vận tải chiến lược này. Các khí tài từ những khí tài điện tử lập thành "Hàng rào điện tử MacNamara", cây nhiệt đới, pháo đài bay B-52, vũ khí thời tiết, hóa học... đến các cuộc hành quân càn quét lớn đến biệt kích phá hoại đều được quân đội Mỹ sử dụng. Hàng triệu tấn bom đạn, hàng chục triệu lít chất độc hóa học được Mỹ rải xuống để tìm cách triệt hạ con đường. Trong chiến tranh, phía Quân đội nhân dân Việt Nam có gần 2 vạn người tử trận ngay trên tuyến đường và 3 vạn người bị thương tật vĩnh viễn, chủ yếu do trúng bom của máy bay Mỹ. Nhưng tuyến đường vẫn hoạt động và ngày càng mở rộng.

Vào thời bình, nhu cầu của một con đường Trường Sơn mới, trục xương sống của Việt Nam được đặt ra. Và trong quá trình xây dựng Đường Hồ Chí Minh hay Đường Trường Sơn, Đồng Sĩ Nguyên được Thủ tướng Võ Văn Kiệt xem là người thích hợp nhất để giao nhiệm vụ đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng tuyến đường này.

Qua đời

Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên từ trần vào hồi 11 giờ 42 phút ngày 4 tháng 4 năm 2019 khi đang điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, không lâu sau sinh nhật lần thứ 96.

Lễ tang được tổ chức vào ngày 10 tháng 4 năm 2019 với nghi thức lễ tang cấp Nhà nước. Trưa chiều cùng ngày, linh cữu của ông được an táng tại Nghĩa trang Công viên Vĩnh Hằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

Tặng thưởng

  • không khung|50x50px Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng 13/12/2024).
  • 50x50px Huân chương Sao Vàng.
  • 50x50px Huân chương Hồ Chí Minh. *50x50px Huân Chương Quân công Hạng Nhất.
  • 50x50px Huân chương Chiến công hạng Nhất.
  • 50x50px Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
  • Huân chương Kháng chiến hạng Ba.
  • Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.
  • 50x50px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì.
  • 50x50px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba. *50x50px Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
  • 50x50px Huy chương Quân kỳ Quyết thắng.
  • Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng Và nhiều huân, huy chương khác của Việt Nam, và quốc tế.

    Lịch sử thụ phong quân hàm

    Gia đình

    Cha ông là cụ ông Nguyễn Hữu Khoán, năm sinh không rõ, mất năm 1933, là cháu nội của Nguyễn Trọng Đạm, một chỉ huy Cần vương bị Pháp xử bắn ở Cửa Gianh (Quảng Trạch, Quảng Bình).

Mẹ ông là cụ bà Đặng Thị Cấp, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1882, mất ngày 22 tháng 4 năm 1982, thọ chẵn 100 tuổi. Chồng mất sớm, bà nuôi dạy 7 người con (5 trai 2 gái) nên người. Cả năm người con trai đều tham gia cách mạng. Ngoài người con trai thứ 5 là Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, người con thứ 6 là Thiếu tướng Nguyễn Hữu Anh, nguyên Phó viện trưởng, Bí thư Đảng ủy học viện hậu cần, Cục trưởng Cục đối ngoại Bộ Quốc phòng. Ngoài ra, một người cháu nội là Nguyễn Hữu Cường (con trai của người con thứ 3 –Nguyễn Hữu Lượng) cũng là một Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 4, Đại biểu quốc hội khoá XI.

Ông Đồng Sĩ Nguyên lập gia đình với bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, và có với nhau bốn con trai và hai con gái.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đồng Sĩ Nguyên** (1 tháng 3 năm 1923 – 4 tháng 4 năm 2019), còn được viết là **Đồng Sỹ Nguyên**, tên thật **Nguyễn Hữu Vũ**, là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
**Dòng họ Nguyễn Đông Tác** là một trong những dòng họ định cư lâu đời nhất tại khu vực Thăng Long - Hà Nội liên tục từ thế kỉ 15 cho đến hiện nay. Địa
**Dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu** là một dòng họ có truyền thống văn hiến lâu đời ở Việt Nam, định cư từ thế kỷ 15 ở làng Trường Lưu thuộc tổng Lai Thạch,
Đồng hồ nguyên tử **Đồng hồ nguyên tử** là đồng hồ điều chỉnh thời gian theo trạng thái dao động của nguyên tử. Tần số dao động của nguyên tử là không đổi và có
**Nguyễn Huy Lượng** (chữ Hán: 阮輝諒; 1750 - 1808) là nhà chính trị, danh sĩ nổi tiếng ở cuối đời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn đến đầu đời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Cảnh Toàn** (28 tháng 9 năm 1926 – 8 tháng 2 năm 2017) là một Giáo sư Toán học Việt Nam, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
**Nguyễn Lân** (14 tháng 6 năm 1906 – 7 tháng 8 năm 2003) là một giáo viên, người biên soạn từ điển, nhà văn và nhà nghiên cứu người Việt Nam. Ông là người có
**Nguyễn Hữu Cầu** (1879-1946), hiệu **Giản Thạch**, thường được gọi "Ông Cử Đông Tác" là một nhà nho tiến bộ, đồng sáng lập viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục (viết tắt ĐKNT) năm 1907 tại
**Đồng Sĩ Bình** (22 tháng 9 năm 1904 – 15 tháng 8 năm 1932), còn được viết là **Đồng Sỹ Bình**, là nhà cách mạng nổi tiếng ở miền Trung Việt Nam trong nửa đầu
**Nguyễn Trù** (chữ Hán:阮儔, 1668-1738), tự **Trung Lượng**, hiệu **Loại Phủ**, **Loại Am**, người phường Đông Tác (Trung Tự), huyện Thọ Xương thuộc kinh thành Thăng Long, là một đại thần dưới triều Lê Trung
**[https://lvt.edu.vn/nguyen-lan-dung/ Nguyễn Lân Dũng]**, sinh năm 1938 là một giáo sư tiến sĩ sinh học, Nhà giáo Nhân dân của Việt Nam. Công tác chính của ông là giảng dạy và nghiên cứu tại Viện
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Nguyễn Huy Oánh** (chữ Hán: 阮輝, 1713 - 1789), tự: **_Kinh Hoa_**, hiệu:**_Lưu Trai_**; là đại thần và là nhà văn thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Huy
**Nguyễn Khoa Toàn** (1899-1965) là một quan triều nhà Nguyễn đồng thời là Bộ trưởng Giáo Dục và Thông Tin của quốc gia Việt Nam thời vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều
**Nguyễn Huy Hổ** (chữ Hán: 阮輝琥, 1783 - 1841), tự **Cách Như** (革如), hiệu **Liên Pha** (聯坡), **Hi Thiệu** (熙紹), là một thi sĩ sống ở thời Nguyễn sơ. ## Tiểu sử Nguyễn Huy Hổ
**Nguyễn Huy Tự** (阮輝嗣, 1743-1790): còn có tên là **Yên**, tự **Hữu Chi**, hiệu **Uẩn Trai**; là danh sĩ và là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn
**Nguyễn Sỹ Sách** (20 tháng 1 năm 1907 - 19 tháng 12 năm 1929), bí danh **Phong**, là nhà cách mạng Việt Nam. ## Tiểu sử Ông có hiệu **Tùng Thúc**, sinh tại thôn Tú
Giáo sư Tiến sĩ **Nguyễn Tử Siêm** (sinh năm 1942) là một trong những chuyên gia đầu ngành về đất đồi núi Việt Nam, chủ yếu trong các lĩnh vực bảo vệ đất, chống xói
**Nguyễn Sinh Hùng** (sinh ngày 18 tháng 1 năm 1946) là một chính khách người Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
**Nguyễn Cảnh Huy** (1473-1536) người làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An, là tướng nhà Lê trung hưng, tước Hoàng Hưu tử, Bình Dương hầu. Về sau được gia phong Phúc Khánh Quận
**Nguyễn Sinh Sắc** (chữ Nho: 阮生色, còn gọi là **Nguyễn Sinh Huy** (阮生輝); sách báo thường gọi bằng tên **cụ Phó bảng**; **cụ Sắc**, 1862 – 27 tháng 11, 1929) là cha ruột của Chủ
**Nguyễn Hy Quang** (1634-1692), húy **Vẹ**, tự **Hy Quang**, là một nhà giáo, đại thần nhà Lê trung hưng đã phụ đạo cho Thái phó Lương Mục Công Trịnh Vịnh, đích tôn của chúa Trịnh
**Nguyễn Khoa Đăng** (1690-1725) ông có tài xử kiện cáo, đủ trí xét ngay gian, cho nên được người đời gọi là **Bao Công**, **Bao Thanh Thiên**, **Bao Chửng Đại Việt** là một công thần
**Nguyễn Khoa Chiêm** (阮科占, Kỷ Hợi 1659–Bính Thìn 1736) tự _Bảng Trung_ (榜中), tước _Bảng Trung Hầu_, là công thần trải hai triều chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu và Nguyễn Phúc Chú thời Lê
**Nguyễn Hữu Tảo** (1900-1966), là một nhà giáo Việt Nam trong thế kỉ 20, người đặt nền móng cho bộ môn Tâm lý - Giáo dục học Việt Nam. Ông cũng là thầy dạy của
sỉ nguyên lố 12 hộp sâm vàng THÁI LAN - Xạm da, ngăm, đen, ko đều màu - Khô da - Bị mụn li ti, mụn ẩn - Thâm mụn, sẹo rỗ - Nám, tàn
nhỏ|phải|Nguyễn Lân Trung (thứ 2 từ trái sang), tháng 12 năm 2020 tại Hà Nội **Nguyễn Lân Trung** (sinh năm 1953) là Phó Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Phó Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá
Máy đo huyết áp Arm Style là máy đo huyết áp tự động hoàn toàn,hoạt động trên nguyên tắc đo dao động. Máy đo huyết áp và nhịp tim đơn giản và nhanh chóng, sử
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nghệ sĩ chèo ở Việt Nam** là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu chèo, gồm những nghệ sĩ chuyên nghiệp trong các nhà hát chèo và các nghệ nhân không
**Nguyễn Đình Phúc** (20 tháng 8 năm 1919 – 28 tháng 5 năm 2001) là một nhạc sĩ, họa sĩ và nhà thơ Việt Nam. Nguyễn Đình Phúc là nhạc sĩ thuộc thế hệ đầu
**Nguyễn An Ninh** (15 tháng 9 năm 1900 - 14 tháng 8 năm 1943) là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu tôn giáo và là nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 trong
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Đồng Khánh Đế** (chữ Hán: 同慶 19 tháng 2 năm 1864 – 28 tháng 1 năm 1889), tên húy là **Nguyễn Phúc Ưng Thị** (阮福膺豉) và **Nguyễn Phúc Ưng Đường** (阮福膺禟 ), lên ngôi lấy
**Đông Anh** là một huyện ngoại thành thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Đông Anh nằm ở phía bắc của thủ đô Hà Nội, nằm cách trung tâm thành phố
**Trương Hoàng Xuân Mai** (sinh ngày 5 tháng 1 năm 1995), thường được biết đến với nghệ danh **Xuân Mai**, là một cựu ca sĩ kiêm diễn viên người Việt Nam. Cô bước chân vào
**Nguyễn Văn Chung** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1983) là một nhạc sĩ người Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Văn Chung sinh ngày 12 tháng 4 năm 1983 tại Thành
**Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân", "Nghệ sĩ Ưu tú" tại Việt Nam** là một hội đồng ở Việt Nam có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ
**Nguyễn Xuân Khoát** (11 tháng 2 năm 1910 – 7 tháng 5 năm 1993) là một nhạc sĩ và là Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Ông không chỉ được xem
:''Về vợ của vua Chiêu Thống đời Hậu Lê, xem Nguyễn Thị Kim (hoàng phi) **Nguyễn Thị Kim** ( – ) là nhà điêu khắc và họa sĩ Việt Nam. Bà là nhà điêu khắc
**Nguyễn Sáng** (1 tháng 8 năm 1923 – 16 tháng 12 năm 1988) là một danh họa người Việt Nam. Ông là hoạ sĩ đầu tiên người thiết kế con tem bưu chính cách mạng
**Nguyễn Tấn Dũng** (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1949 tại Cà Mau) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Thủ tướng thứ sáu của nước Cộng hòa xã hội chủ
**Nguyễn Phan Chánh** (阮潘正, 21 tháng 7 năm 1892 – 22 tháng 11 năm 1984) bút hiệu **Hồng Nam** (鴻南), là một danh họa trong nghệ thuật tranh lụa; Đại biểu Quốc hội Việt Nam
**_Dòng máu anh hùng_** (tựa tiếng Anh: **_The Rebel_**) là một bộ phim điện ảnh hành động võ thuật Việt Nam năm 2006 do Chánh Phương Film và Cinema Pictures hợp tác sản xuất. Phim
thumb|Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tá, GS.TS Nguyễn Thiện Thành|206x206pxNguyễn Thiện Thành, còn có bí danh là Nguyễn Minh Nhân, Nguyễn Trà Vinh (30 tháng 9 năm 1919 – 8 tháng 10 năm