✨Đồng Sĩ Bình
Đồng Sĩ Bình (22 tháng 9 năm 1904 – 15 tháng 8 năm 1932), còn được viết là Đồng Sỹ Bình, là nhà cách mạng nổi tiếng ở miền Trung Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX. Mộ ông hiện ở nghĩa trang làng Mậu Tài, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tiểu sử
Đồng Sĩ Bình là chí sĩ cận đại, tên lúc nhỏ là Cơ, tự Mậu Lâm, hiệu Minh Phụng. Ông sinh giờ Dậu, ngày 22-9-1904 (tức ngày 13-8 năm Giáp Thìn), trong một gia đình nghèo làng Mậu Tài, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên (nay là tỉnh Thừa Thiên Huế). Ông được nhắc đến trong INDOCHINE S.O.S (Đông Dương cấp cứu) của Andrée Viollis; Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến; "Từ Hà Tĩnh đến nhà đày Kon Tum" của Ngô Đức Đệ; "Tuấn, chàng trai đất Việt" của Nguyễn Vỹ; "De la Mélanésie au Vietnam"; "Từ châu Đại Dương trở về Việt Nam" của Đồng Sỹ Hứa và ký ức của nhiều người cùng thời. Ông mất ngày 15-8-1932 (14-7 năm Nhâm Thân).
Với thiên tư đặc biệt, 9 tuổi ông mới được học chữ Hán, nhưng ông học rất giỏi, bị thầy đồ phản đối kịch liệt khi sau 4 năm học ông chuyển sang học chữ quốc ngữ. Chương trình 6 năm nhưng ông chỉ học trong 2 năm rưỡi đã thi đỗ bằng Sơ Đẳng Tiểu học (Certificat d'Études Primaire Franco-Indigène) và sau 4 năm học cao đẳng tiểu học ở trường Quốc học Huế đã đỗ Thành chung (Diplôme d'Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène), xếp thứ 2. Vì nhà nghèo, phải lo cho cha mẹ già yếu, các em còn nhỏ nên ông thi vào làm ở văn phòng của đại lý Tòa Khâm sứ Trung kỳ bên cạnh Hội đồng Thượng thư của triều đình Huế, rồi bị điều làm thông phán ở Tòa Sứ Quy Nhơn. Sau đó từ chức, dấn thân vào các hoạt động yêu nước, bị đày ải ở nhiều nhà tù, ông mất vì bệnh tật chỉ 25 ngày sau khi ra tù lần cuối.
Quá trình hoạt động yêu nước
Năm 1924, ông thi vào ngạch Phán sự làm việc cho Tòa Khâm sứ Trung kỳ bên cạnh Viện Cơ Mật của triều đình Huế. Làm ở đó, tận mắt thấy sự thối nát của bộ máy cai trị, cái nhục mất nước, nên ngay từ giữa 1924 ông đã bí mật gia nhập Đảng Tân Việt. Tháng 10-1924 ông bị đổi vào Quy Nhơn. Ông là Bí thư Đảng Tân Việt các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Ông cùng với Phan Đăng Lưu là nòng cốt trong việc tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc thời bấy giờ ở miền Trung. Ông bắt đầu bằng việc vận động học sinh trường cao đẳng tiểu học. Ông tình nguyện mở lớp buổi tối hướng dẫn một số học sinh năm thứ nhất và năm thứ hai. Những học sinh của ông sau này phần lớn đã tham gia cách mạng như Hoàng Phương Thảo. Nhưng một số người lại theo hướng khác như Cao Hữu Thưởng. Ông đã tổ chức viếng mộ Mai Xuân Thưởng – lãnh tụ phong trào kháng Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định – với bức trướng viết:
Bại trận nhi bất hàng, hùng tâm phiêu vũ trụ, đáo để chiến công lực kiệt, binh tận thế cô, túng sử quốc vận phương long, chí sỹ hồ cam hàm hận huyết
Đoạn đầu du năng tiếu, nghĩa khí quán càn khôn, tự lai chuyên chế vân loa, nhân vong sự một, ná thử thế tâm mạc đạm, hậu sanh phụng vị hích kỳ danh.
Việt Nam cách mạng nguyên niên
Mạnh đông nhật,
Hậu sanh đồng chí Đồng Sĩ Bình huy luỵ khốc.
Hai trụ biểu của mộ Mai Xuân Thưởng có đôi vế đối, mỗi vế năm chữ: "Hùng tâm phiêu vũ trụ/ Nghĩa khí quán càn khôn" trích từ bức trướng trên.
Cuối năm 1926 ông xin từ chức để làm báo và hoạt động cách mạng. Ông cùng với Bửu Đình viết bài bằng tiếng Việt đăng trên báo Tân Thế Kỷ, bằng tiếng Pháp cho tờ La Cloche Fêlée, (Cái Chuông Rè) – 2 tờ này xuất bản ở Sài Gòn, và L’ Argus Indochinois – xuất bản ở Hà Nội, công kích một số chính sách đàn áp, bóc lột của thực dân Pháp và bọn quan lại Nam Triều. Các sách báo đó đã tác động mạnh mẽ và cổ vũ phong trào đấu tranh của học sinh. Khi nghe tin Phan Châu Trinh mất, ông làm lễ truy điệu tại nhà, có một số học sinh trường Trung học Quy Nhơn tham dự. Gặp lúc cha ốm nặng sắp chết, ông ra Huế để lo việc cho cha.Tết năm Đinh Mão (20-2-1927), nhân dịp học sinh và các nhân sĩ trí thức lên dốc Bến Ngự chúc thọ cụ Phan Bội Châu, ông cùng với Bửu Đình nhảy lên bục diễn thuyết bằng tiếng Pháp, hô hào cách mạng, chống thực dân Pháp và đả kích việc nhà Nguyễn đưa Vĩnh Thụy lên ngôi. Ngày 2-3-1927, cha chết. Hai hôm sau, lúc đang làm lễ phát tang cho cha thì bị bắt, ông bị khiêng bằng cái trạc giải lên Huế trong trang phục đại tang làm thơ viếng:
KHÓC ĐỒNG SĨ BÌNH
_Đồng Sĩ Bình ơi! Đồng chí Sĩ Bình_
Một người yêu nước đã hy sinh
Thương ai tuổi trẻ gan bằng đấu
Xét kẻ lòng son chí chửa thành
Cô Trúc mây lồng, trăng vặc vặc
_Mịch Hà_ sóng gợn, nước xanh xanh
Thân anh dù nát, anh đâu nại
Trách nhiệm mong tròn lũ hậu sanh.
Một số truyền kể về Đồng Sĩ Bình
Ông là người nổi tiếng, có uy tín, được nhiều người mến phục, đến độ có khả năng cảm hóa người khác, kể cả người đang làm việc cho thực dân Pháp chịu trách nhiệm giám sát mình, được truyền kể như giai thoại.
Chuyện thứ nhất
Khi kết thúc lễ đặt thi hài cha vào quan tài, thấy người đến bắt, ông mặc lại đại tang, không chịu để chúng dẫn đi thầm lặng bằng thuyền. Ông biện luận theo phong tục tập quán, một người con, nhất là con cả, chỉ có thể rời thi hài cha mình khi bị cưỡng bức. Thế là tay bị trói, những người bị trưng dụng để khiêng ông long lanh nước mắt. Một tiểu đội lính dõng mang vũ khí đi theo "hộ tống". Chúng đưa ông đi qua các làng Mậu Tài, Thanh Tiên, Thế Vinh và Tiên Nộn, qua sông Hương, đến thị trấn Bao Vinh, vào Huế. Từ đó đoàn người theo sau dọc theo sông Đông Ba, đường Paul Bert, nay là đường Trần Hưng Đạo (hồi đó và nay vẫn là phố thương mại sầm uất nhất của thành phố). Và sau khi qua cầu Tràng Tiền (người Pháp gọi là Clémenceau), đoàn người vào phố Jules Ferry, nay là phố Lê Lợi. Ở đó có khách sạn Morin lớn nhất thành phố, tòa nhà của Ngân hàng Đông Dương, các sở và các biệt thự của các công chức cao cấp xứ Trung Kỳ, của tỉnh Thừa Thiên và của thành phố Huế đến nhà tù tỉnh ở phố cạnh đó. Suốt đoạn đường ông bị khiêng đi, chừng 6 – 7 km, người ta nhìn theo người thanh niên mặc y phục đại tang ấy, hai tay bị trói chặt và ngồi trên một cái trạc chuyển phân. Kẻ thì ái ngại, kẻ thì ý thức phản đối bắt đầu trỗi dậy.
Chuyện thứ hai
Quan Tổng đốc Bình Phú (Bình Định – Phú Yên) Nguyễn Đình Hiến vì mến tài Đồng Sĩ Bình mà gần như "công khai" biệt đãi người chí sĩ yêu nước trẻ tuổi này. Ấy là vào năm 1926, ông mới 22 tuổi, chuyển từ Huế vào làm thông phán để cách ly chuyện làm "xằng bậy", tránh ảnh hưởng không tốt trong dư luận quần chúng.
=== Chuyện thứ ba
Thơ khác
Cháu gái ông (bà Trần Thị Hạnh, hiện ở Sài Gòn, con của ông Trần Thiếu Du và bà Đồng Thị Xuân Lan), còn thuộc lòng bài thơ của ông:
Chim ơi da diết kêu chi
Lòng ta huống những nặng vì nước non
Chim ơi một tấm lòng son
Sá gì mưa nắng mà mòn hỡi Chim ?
Mặt sầu tiền lộ vô tri kỉ
Chim mầy ơi mầy rầu rĩ kêu chi!
Trong thế gian nào hiếm những chung kỳ
Ta bước trước rồi thì người phò tá
Cố kim sở vị anh hùng giả
Thương đao cung kiếm bất ly thân
Ta nhỏ máu ra để rửa nhục cho muôn dân
Trừ gian tặc cho muôn dân đều an lạc
Chữ trung nghĩa lòng ta đều ghi tạc
Ta nghiến răng ta bước, bước gian truân
Coi chừng thế sự xoay vần
Chớ thừa cơ hôi mà lầm nấc thang
Dặn lòng, lòng hỡi cho ngoan.
………..
Khi từ Ban Mê Thuột về, ông mang theo hai bản dịch bằng thơ 2 vở kịch của văn hào Pháp Pierre Corneille, trong đó có bi kịch "Horace". Sinh thời, em ông là Đồng Sỹ Hiền còn nhớ 2 câu: "Chết vì tổ quốc/ Đó là số phận đẹp nhất, đáng yêu nhất". Ông làm nhiều thơ, viết nhiều bài báo. Hầu hết các bài viết của ông hiện thất lạc chưa tìm thấy.
Gia đình
Gia đình ông có truyền thống yêu nước, ông nội là Đồng Sĩ Thiết, đội trưởng, bị thương trong trận chống quân Pháp đánh chiếm cửa Thuận An. Khi ông bị đày ở Buôn Mê Thuột, mẹ và 2 người em là Đồng Thị Xuân Lan, Đồng Sỹ Hứa, cũng bị bắt giam do trong nhà có thư của một tù chính trị. Bà Lan được tha do mù chữ, còn 2 mẹ con bị tra hỏi ở nhà tù Huế ròng rã cả tháng trời. Bà Lan sau lấy nhà cách mạng Trần Thiếu Du. Đồng Sỹ Hứa (1915-2004) là người lãnh đạo khởi nghĩa ở Tân Đảo (Vanuatu), sau làm ở Ban Quốc tế của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, dịch sách, viết văn…; em trai Đồng Sỹ Hiền (1918-2010) bị toà án của thực dân Pháp kết án tử hình (vắng mặt) trong phiên toà ngày 4-8-1948 ở Sài Gòn về các hoạt động cách mạng trong những năm 1944-1945, là Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, là một trong những chuyên gia đầu ngành lâm nghiệp. Ông còn một người em trai khác là Đồng Sỹ Hộ, rất thông minh nhưng bị tai nạn mất sớm.
Ông đã có hôn thê ở Huế nhưng chưa kịp làm lễ cưới. Bà chăm sóc ông cho đến khi ông mất và ở vậy suốt đời.
Tưởng niệm
Năm 1957, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã đặt bia ở mộ ông tại nghĩa trang làng Mậu Tài, Phú Mậu, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Trên bia ghi "VNCH phụng lập Minh Phụng Liệt sĩ Đồng Sĩ Bình Chi Mộ". Năm 1955 (ở Sài Gòn), đường 47 được đổi tên là đường Minh Phụng (dài khoảng 1977 mét, lộ giới 30 mét từ bến Phan Văn Khỏe đến đường Bình Thới, chạy qua quận 6,11).
Năm 1998, nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết "về hoạt động của anh Đồng Sĩ Bình thì tôi có biết và tôi xác nhận đó là sự thật. Anh Đồng Sĩ Bình đáng được công nhận là liệt sĩ".
Ghi nhận công lao của ông, năm 2010, tên ông đã được Hội đồng nhân dân Thừa Thiên Huế đặt cho một con đường ở thị trấn Thuận An. Các huyện A Lưới, Phú Lộc của tỉnhThừa Thiên – Huế cũng có đường Đồng Sĩ Bình. Ở thành phố Buôn Ma Thuột đường Đồng Sỹ Bình nối đường Giải Phóng với Hẻm 155 Đồng Mai Hắc Đế.