✨Kỵ binh

Kỵ binh

Kỵ binh Pháp ngày 8 tháng 5 năm [[2005]] Kỵ binh (tiếng Anh: Cavalry) là binh lính giáp chiến trên lưng ngựa. Từ này thường không dùng cho lính cưỡi các loại thú chuyên chở khác như lạc đà hay lừa. Kỵ binh ban đầu là những người lính cưỡi ngựa và chiến đấu dưới đất khi đã tới chiến trường, sau này mới hình thành nên nghệ thuật chiến đấu trên lưng ngựa và trở thành những kỵ binh đúng nghĩa. Bộ binh di chuyển trên lưng ngựa (Bộ - Kỵ binh) nhưng khi chiến đấu thì xuống ngựa trước đây ở thế kỷ 17 - 18 thường được gọi là long kỵ binh tuy nhiên với sự tiến bộ trong kỹ thuật dần dần binh chủng này đã có thể chiến đấu trên lưng ngựa mà không cần xuống, do đó sau này đã được ghi nhận lại như một binh chủng kỵ binh chuyên nghiệp.

Kỵ binh thường được dùng trong nhiều công tác khác nhau: do thám, vu hồi, dẫn dụ, bọc hậu, hộ tống. Có thể chia làm hai loại Kỵ binh: trọng kỵ binh, và khinh kỵ binh.

Nguyên thủy

Trước thời đại đồ sắt, các chỉ huy quân sự thường dùng loại xe hai bánh do ngựa kéo, loại xe này bắt nguồn từ văn hóa Sintashta-Petrovka ở châu Á theo các nhóm du mục Ấn - Ba Tư. Ngoài sử dụng trong quân đội, loại xe kéo này được coi như một báu vật dành cho vua chúa, nhất là các vị pharaon thời Ai Cập cổ đại và các triều đại của Đế quốc Assyria và Babylon. Mặc dù có khả năng di chuyển nhanh, nhưng loại chiến xa này bất lợi ở chỗ không thể huy động lực lượng lớn, và ngựa thời này nhỏ con, không đủ sức mang giáp nặng.

Xưa kia, Vương quốc Lydia (nay là miền Tây Bộ Thổ Nhĩ Kỳ) đã xây dựng được một lực lượng Kỵ binh vũ trang, họ trở thành những chiến binh xuất sắc qua việc cầm giáo chiến đấu trên lưng ngựa. Đây là lực lượng quan trọng nhất trong Quân đội Lydia. Vào năm 547 trước Công Nguyên, Quốc vương Kroisos thân chinh đánh nước Ba Tư hùng mạnh, nhưng sau đó do phải đối mặt với quân Ba Tư đông đảo hơn, ông phải rút quân về cố thủ đất nước. Vị Hoàng đế kiệt xuất của Ba Tư là Cyrus Đại Đế, phải đối mặt với lực lượng Kỵ binh Lydia, đã dùng mưu dựa vào một điểm yếu của chiến mã Lydia là sợ hình dáng, mùi và tiếng kêu của lạc đà: ông cho lực lượng Bộ binh Ba Tư núp sau đoàn quân cưỡi lạc đà. Thế rồi quân Lydia đại bại, sau đó Hoàng đế Cyrus Đại Đế xông lên và cướp luôn được nước Lydia từ tay vua Kroisos.

Cùng thời, Vương quốc của người Massagetae ở Trung Á đã xây dựng một lực lượng Kỵ binh tinh nhuệ. Vào năm 530 trước Công Nguyên, theo nhà sử học Herodotos, Nữ hoàng của người Massagetae là Tomyris đánh tan tác quân xâm lược Ba Tư của Hoàng đế Cyrus Đại Đế trong một trận đánh khốc liệt. Tuy Herodotos không thể giải thích rằng vì sao người Massagetae lại có thể thắng được quân tinh nhuệ Ba Tư dù ban đầu hai bên giáp chiến bất phân thắng bại, theo Tiến sĩ Kaveh Farrokh, có lẽ lực lượng Kỵ binh Massagetae đã đóng vai trò quyết định trong trận đánh này. Kỵ binh Massagetae thời đó được trang bị rất tốt, và theo phân tích của Farrokh, có thể Tomyris đã truyền lệnh cho Thiết Kỵ binh Massagetae đã xông pha lên chọc thủng Bộ binh Ba Tư. Vị vua bách chiến bách thắng Cyrus Đại Đế cũng thiệt mạng trong trận đánh ác liệt này.

Thời kỳ cận đại

Lực lượng Thiết Kỵ binh và Long Kỵ binh kết hợp lại thành một đội quân linh động của vị Tổng tư lệnh trên chiến trường. Ông vua lỗi lạc nước Phổ - Brandenburg là Friedrich II Đại Đế thân chinh đánh tỉnh Silesia của nước Áo vào năm 1740, mở đầu hai cuộc chiến tranh Silesia. Quân Áo phản công, và trong trận đánh mở đầu tại Mollwitz (1741), lực lượng Kỵ binh Phổ bị thua, Sau chiến thắng tại Mollwitz, nhà vua ra sức huấn luyện cho lực lượng Kỵ binh Phổ. Trong trận đánh lớn tại Hohenfriedberg (1745), chỉ một đơn vị Long Kỵ binh Bayreuth đã diệt sạch sành sanh năm Trung đoàn Bộ binh Áo. và tương truyền nhà vua còn sáng tác "Bản hành khúc Hohenfriedberg" để ban thưởng cho Trung đoàn Long Kỵ binh tinh nhuệ này sau đại thắng. Sau đó, trong trận đánh lớn tại Kesselsdorf cùng năm, những chiến binh Phổ trên lưng ngựa đã đấu tranh dũng mãnh, góp phần không nhỏ giúp Quân đội Phổ đại phá tan tành liên quân Áo - Sachsen. Đại bại tại Kesselsdorf góp phần không nhỏ khiến Nữ hoàng nước Áo là Maria Theresia phải chấp nhận chiến bại, nhường đất đai cho Quốc vương nước Phổ.

Nữ hoàng Maria Theresia thiết lập liên minh với Pháp để báo thù, và Quốc vương Friedrich II Đại Đế ra tay trước, mở đầu cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763). Vào năm 1757, dưới sự chỉ huy của danh tướng Friedrich Wilhelm von Seydlitz, lực lượng Kỵ binh tinh nhuệ Phổ, kết hợp với lực lượng Pháo binh và gần như không có sự hỗ trợ của lực lượng Bộ binh, đã làm nên một chiến thắng lẫy lừng cho vua Friedrich II Đại Đế trong trận đánh tại Rossbach. Dù có lợi thế lớn lao về quân số, Liên quân Áo - Pháp đại bại trong trận đánh đầy ý nghĩa này. Sau đó, vị vua Phổ bách chiến bách thắng lại hành binh về tập kết quân đội tại tỉnh Silesia, và trong trận đánh lớn tại Leuthen (1757), lực lượng Kỵ binh Phổ do viên tướng giỏi Georg Wilhelm von Driesen đã đóng vai trò không nhỏ, giúp nhà vua đại phá tan tác quân Áo trong trận thắng lớn nhất trong suốt những cuộc chiến tranh của ông. Năm sau, Quốc vương Friedrich II Đại Đế hành binh đi đánh quân Nga xâm lược, và trong trận đánh khốc liệt tại Zorndorf, lúc lực lượng Bộ binh Phổ đang yếu thế thì Kỵ binh Phổ của danh tướng Seydlitz đã xông lên chiến đấu anh dũng, làm xoay chuyển tình thế. Trận chiến ác liệt này được xem là một trận đánh huy hoàng của lực lượng Kỵ binh Phổ hùng hậu.

Kỵ binh trong lịch sử Việt Nam

thumb|Kỵ binh Đàng Ngoài, View of 17th century Vietnam, Samuel Baron Hình ảnh kỵ binh xuất hiện sớm nhất trong huyền thoại Việt Nam là Thánh Gióng: đầu đội nón sắt, tay cầm gậy sắt, cưỡi ngựa sắt ra trận đánh giặc.

Nỗ lực xây dựng lực lượng kỵ binh được ghi chép sớm nhất trong sử sách Việt Nam là dưới triều nhà Lý. Năm 1017, nhà vua cho xây Xạ đình (trường bắn) ở Nam Hoàng Thành. Ngoài học kinh vở, binh pháp, 1 nội dung bắt buộc trong hệ thống giáo dục cho con em quý tộc thời Lý là luyện tập cưỡi ngựa bắn cung. Tập tục này trở thành chuẩn mực cho các triều đại về sau. Trong các kỳ thi tiến sĩ võ, ban võ nghệ đầu tiên được thao diễn bao giờ cũng là cưỡi ngựa. Thời Lê Thánh Tông, trong 66 Ty ở Kinh đô, có 7 Ty cung nỏ, trong đó có Ty Kỵ Xạ, Ty Du Nỗ, Tráng Nỗ, Kính Nỗ, Thần Tý. Trong 51 Vệ ở kinh đô, có Vệ Kỵ Xạ chia làm 5 sở, lại có 4 vệ Mã Bế. Mỗi vệ có 20 đội, mỗi đội 20 người,vậy chỉ riêng Vệ kỵ xạ ở kinh thành bao gồm 2000 quân cưỡi ngựa bắn cung. Khi hỏa khí xuất hiện, kỵ xạ cũng dần dần mai một bởi hỏa khí dễ sử dụng, dễ chế tạo và có sức công phá vượt trội. Lê Quý Đôn ghi lại rằng nhà Lê Trung Hưng từ năm 1724 trở về sau vẫn còn có môn cưỡi ngựa bắn cung trong thi Bác Cử. Nhưng trong Thượng Kinh Phong Vật Chí, ông cho biết thời đại ông người ta đã bãi bỏ cưỡi ngựa bắn cung, và thay bằng nội dung cưỡi ngựa bắn súng trong khoa cử.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ tục biên ghi nhận thời chiến tranh Lê-Mạc, quân nhà Lê trung hưng có lực lượng kỵ binh khá mạnh. Thời Lê Thế Tông, tiết chế Trường quốc công Trịnh Tùng từng sử dụng 400 quân thiết kỵ làm trợ chiến để đẩy lùi cuộc xâm lấn của quân Mạc. Năm 1592 ông huy động tới 5000 thiết kỵ binh, trang bị giáp sắt phủ kín cả ngựa để vây hãm Đông Kinh của nhà Mạc.

William Dampier, một nhà du hành đến Đàng Ngoài năm 1688 có ghi nhận là quân đội vua Lê-chúa Trịnh có chừng 70.000-80.000 quân thường trực, trong số đó hầu hết là bộ binh trang bị súng tay, ở kinh thành chúa có thường trực voi chiến 200 thớt, ngựa chiến 300 con, nuôi béo khỏe. Ngựa trung bình cao 140 cm đến vai, kích thước tương đương các nòi ngựa dùng để cưỡi hiện đại.

Một ghi chép của người phương Tây về lực lượng quân sự Đàng Ngoài dưới thời Thanh Đô vương Trịnh Tráng cho rằng vào năm 1640 nhà chúa có dưới trướng hơn ba mươi vạn bộ binh, hai ngàn thớt voi trận và một trăm lẻ hai ngàn quân kỵ(!). Con số này đáng nghi vấn. Tuy nhiên ghi chép này cũng cho người đời sau thấy được ấn tượng của những người ngoại quốc về 1 quân đội Đại Việt hùng cường toàn diện, từ thủy binh, bộ binh đến kỵ, tượng binh.

Một số lực lượng kỵ binh nổi tiếng

Kỵ binh Hetairoi của Macedon Kỵ binh Ba Tư *Kỵ binh Byzantine

  • Kỵ binh Hung Nô
  • Kỵ binh Khiết Đan
  • Kỵ binh Mông Cổ *Kỵ binh Teuton
  • Kỵ binh Ba Lan
  • Kỵ binh Phổ
  • Kỵ binh Pháp
  • Kỵ binh Ả Rập
  • Kỵ binh Ottoman
  • Kỵ binh da đỏ
  • Kỵ binh Cossack
  • Kỵ binh Tây Ban Nha
  • Kỵ binh Quan Ninh
  • Kỵ binh Liêu Đông
  • Kỵ binh Phật Tháp
  • Kỵ binh Bát Kỳ
  • Kỵ binh Thiết Diêu Tử
  • Kỵ binh Dương Gia Tướng
  • Kỵ Binh Nhạc Phi

Hình ảnh

File:Tiger hunt.jpg|Chạm gỗ đình Hạ Hiệp thế kỷ 17. Xạ thủ hỏa mai chiến đấu song song với kỵ xạ. File:VN lancer.jpg| Khắc gỗ thời Trần tk 13: tập võ, bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh. Kỵ binh đâm thương bằng cả hai tay thay vì kẹp thương dưới nách như kỵ sĩ châu Âu.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Kỵ binh Pháp ngày 8 tháng 5 năm [[2005]] **Kỵ binh** (tiếng Anh: Cavalry) là binh lính giáp chiến trên lưng ngựa. Từ này thường không dùng cho lính cưỡi các loại thú chuyên chở
nhỏ|phải|Cảnh sát kỵ binh ở Mông Cổ **Cảnh sát kỵ binh** (tiếng Anh: Mounted police) là những cảnh sát thực hiện việc tuần tra bằng cách cưỡi ngựa (hoặc lạc đà). Ngày nay, chức năng
**Chiến thuật kỵ binh** là một loại chiến thuật quân sự của lực lượng kỵ binh với tính năng cơ động cao, tác chiến nhanh. Đây là lực lượng cơ động trong chiến tranh trên
thumb|Cung thủ kỵ binh Mông Cổ trong tư thế chuẩn bị bắn. **Sóng biển** là một chiến thuật kỵ binh của quân Mông Cổ vào thế kỷ 13, chiến đấu theo cách bao vây đội
**Cuộc tấn công của Lữ đoàn Khinh Kỵ binh** là cuộc tiến công của lực lượng Kỵ binh Anh vào Pháo binh Nga ở trận Balaclava vào năm 1855 và theo Bộ Tham mưu của
nhỏ|phải|Long kỵ binh phải|nhỏ|Lính đầu rồng của [[Pháp]] nhỏ|Long Kỵ binh của [[Phổ]] **Long kỵ binh** () là đơn vị lính cưỡi ngựa thuộc bộ binh, lập ra từ thế kỷ 17. Nguyên thủy ở
thumb|Kỵ binh hạng nhẹ Ba Lan-Litva trong [[trận Orsha năm 1514, tranh vẽ bởi Hans Krell]] thumb|Tranh vẽ [[Cuộc tấn công của Lữ đoàn Kỵ binh nhẹ|Lữ đoàn Kỵ binh nhẹ, trong trận Balaclava năm
nhỏ|Zieten Hussars in 1775. **Trung đoàn Kỵ binh nhẹ "von Zieten"** (), còn được biết đến với cái tên "Trung đoàn kỵ binh nhẹ Zieten (Brandenburg) số 3" (_Husaren-Regiment von Zieten (Brandenburgisches) Nr. 3_), là
nhỏ|Kürassiere des Regiments im Juli und August 1809 **Kỵ binh giáp "Hoàng đế Nikolai I của Nga"** là một lực lượng kỵ binh của quân đội Hoàng gia Phổ.
nhỏ|Preussisches Bosniaken-Regiment 1786 **Bosniak** là một đơn vị kỵ binh thuộc quân đội Phổ.
là một niên hiệu của Nhật Bản bắt đầu từ ngày 8 tháng 1 năm 1989, một ngày sau khi Thiên hoàng Chiêu Hòa (huý Hirohito) băng hà, được đánh dấu bằng sự kiện Thái
**Sư đoàn Kỵ binh số 1** (_1st Cavalry Division_) là một trong những đơn vị chiến đấu nổi tiếng của quân đội Hoa Kỳ. Còn được biết đến với tên gọi **Sư đoàn Không kỵ
**Trung đoàn 7 Kỵ binh** là một lực lượng thuộc quân đội Hoa Kỳ thành lập từ giữa thế kỷ 19, thường được gọi là **"Garry Owen"** vì binh lính dùng bài hát cùng tên
**Kỷ Bình công** (chữ Hán: 杞平公; trị vì: 535 TCN-518 TCN), tên là **Tự Úc**, là vị vua thứ 14 của nước Kỷ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Hộ Kỵ binh Hoàng gia Anh** (tiếng Anh: _Household Cavalry_ - HCAv) là quân đoàn kỵ binh cao cấp nhất và lâu đời trong Quân đội Anh, có nguồn gốc từ năm 1660. Hộ Kỵ
nhỏ|phải|Một kỵ xạ ở Tây Tạng **Kỵ xạ** hay còn gọi là **Cưỡi ngựa bắn cung** (_Mounted archery_) hay** Mã cung thủ** (chữ Hán:弓騎兵) là một kỵ sĩ hay kỵ binh được trang bị một
**Thượng tướng Kỵ binh** (tiếng Đức: _General der Kavallerie_) là một cấp bậc tướng lĩnh cao cấp trong lịch sử quân sự của Áo và Đức. Cấp bậc này bắt đầu từ tước hiệu Chỉ
right|thumb|Lạc đà của quân đội [[Đế quốc Ottoman|Ottoman tại Beersheba trong cuộc công chiếm Suez lần thứ nhất trong chiến tranh thế giới thứ nhất, 1915.]] **Kỵ binh lạc đà** hay còn gọi là **kỵ
**Đài tưởng niệm Kỵ binh Ba Lan**, còn được gọi là **Đài tưởng niệm Kỵ binh Ba Lan thiên niên kỷ**, là một bức tượng nằm ở Vòng xoay Kỵ binh Ba Lan (Rondo Jazdy
phải|_Cuộc tấn công của Lữ đoàn Kỵ binh nhẹ_ qua nét vẽ của [[Richard Caton Woodville.]] "**Cuộc tấn công của Lữ đoàn Kỵ binh nhẹ**" là một truyện thơ do Alfred, Huân tước Tennyson viết
**Lữ đoàn Kỵ binh 4** được quân đội Úc hình thành trong thế chiến thứ hai. Lữ đoàn được thành lập vào tháng 9 năm 1939, thuộc biên chế Sư đoàn Kỵ binh 1 Úc.
**Lữ đoàn Kỵ binh 6** được quân đội Úc hình thành trong thế chiến thứ hai. Lữ đoàn được thành lập vào tháng 9 năm 1939, biên chế thuộc Sư đoàn Kỵ binh 2 Úc.
Đại dịch Covid-19 xuất hiện làm xáo trộn mọi thứ liên quan đến kinh doanh nói chung và khởi nghiệp nói riêng. Các doanh nghiệp đều phải thay đổi những cách thức cũ, thậm chí
Đại dịch Covid-19 xuất hiện làm xáo trộn mọi thứ liên quan đến kinh doanh nói chung và khởi nghiệp nói riêng. Các doanh nghiệp đều phải thay đổi những cách thức cũ, thậm chí
Đại dịch Covid-19 xuất hiện làm xáo trộn mọi thứ liên quan đến kinh doanh nói chung và khởi nghiệp nói riêng. Các doanh nghiệp đều phải thay đổi những cách thức cũ, thậm chí
Combo Startup Trong Thời Kỳ Bình Thường Mới , Bầu Trời Không Chỉ Có Màu Xanh và Chỉ Có Niềm Đam Mê -sổ tay 3 cuốn Bầu Trời Không Chỉ Có Màu Xanh Tự Truyện
Combo Startup Trong Thời Kỳ Bình Thường Mới , Bầu Trời Không Chỉ Có Màu Xanh và Chỉ Có Niềm Đam Mê -sổ tay 3 cuốn Bầu Trời Không Chỉ Có Màu Xanh Tự Truyện
Tẩy da chết giúp cho việc tái tạo da mới được thực hiện nhanh hơn chu kỳ bình thường, lấy đi 4 – 5 lớp tế bào da chết từ lớp sừng và hình thành
**Lục quân Hoa Kỳ** là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm với các chiến dịch quân sự trên bộ. Đây là một trong những quân chủng lâu đời và lớn
Nội chiến Hoa Kỳ diễn ra ở nhiều nơi trong hai vùng chiến lược chính, Mặt trận miền Đông và Mặt trận miền Tây. Ngoài ra còn có mặt trận vùng sông Mississippi, bờ biển
**Bình Nguyên Lộc** (7 tháng 3 năm 1914 - 7 tháng 3 năm 1987), tên thật là **Tô Văn Tuấn**, còn gọi là **Năm Tuấn**, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa Nam Bộ
**Bát kỳ** hay **Bát kỳ Mãn Châu** (, ) là một chế độ tổ chức quân sự đặc trưng của người Mãn Châu và nhà Thanh (sau này), đặc trưng của Bát kỳ là mỗi
thumb|Bản đồ thế giới các nước tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất. Khối Hiệp ước màu xanh, [[Liên minh Trung tâm màu cam, và các nước trung lập màu xám.]] **Hội nghị Hòa
Vào ngày 7 tháng 5 năm 2024, Bộ Quốc phòng Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức một chương trình kỷ niệm
Nội chiến Hoa Kỳ diễn ra tại nhiều nơi trong hai vùng chiến lược chính, Mặt trận miền Tây và Mặt trận miền Đông. Ngoài ra còn có mặt trận vùng sông Mississippi, bờ biển
phải|Quân [[Liên bang miền Bắc Hoa Kỳ|Liên bang miền Bắc xung phong]]Trong 4 năm của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ quân Liên bang miền Bắc và quân Liên minh miền Nam đánh nhau trong nhiều
:_Xem nghĩa khác của từ Bộ binh_ :_Đừng nhầm lẫn với Bộ binh cơ giới_nhỏ|Bộ binh cơ giới hóa của [[Quân đội Hoa Kỳ xuống từ xe bọc thép chở quân M113 trong cuộc huấn
**Nội chiến Hoa Kỳ** (, 12 tháng 4 năm 1861 – 9 tháng 5 năm 1865, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau), là một cuộc nội chiến diễn ra ở Hoa
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vấn đề **bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ** được đặt ra. Tuy nhiên đến hai mươi năm sau, tức ngày 11
**Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước** (hay còn gọi gọn là **Diễu binh kỷ niệm 50 năm thống nhất Việt Nam**, cũng được
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế
**Binh đoàn Bắc Virginia** là đội quân chủ lực của Liên minh miền Nam tại Mặt trận phía Đông thời Nội chiến Hoa Kỳ. Binh đoàn này thường đối đầu với Binh đoàn Potomac của
**Binh chủng Thiết giáp Kỵ binh Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) (, **VNACC**) - còn gọi là **Thiết Kỵ** - trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là lực lượng xung kích tác chiến
**Binh đoàn Potomac** (tiếng Anh: _Army of the Potomac_) là binh đoàn chủ lực của quân đội Liên bang miền Bắc tại Mặt trận miền Đông thời Nội chiến Hoa Kỳ. ## Lịch sử Binh
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
Bản đồ thể hiện sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trên thế giới, năm 2007. Màu càng đậm nghĩa là ảnh hưởng quân sự càng nhiều, màu càng nhạt thì sự ảnh hưởng
**Binh đoàn Tennessee** là một binh đoàn chủ lực của quân đội Liên minh miền Nam thời Nội chiến Hoa Kỳ (tiếng Anh: _Army of Tennessee_, lấy tên theo tiểu bang Tennessee). Quân Liên bang
**Chi Bình vôi** hay **chi Thiên kim đằng** (danh pháp khoa học: **_Stephania_**) là một chi thực vật có hoa trong họ Biển bức cát (Menispermaceae), có nguồn gốc ở miền đông và nam châu
Trong Lục quân Hoa Kỳ (USA), Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (USMC), Lực lượng Không quân Hoa Kỳ (USAF) và Lực lượng Vũ trụ Hoa Kỳ (USSF), **Đại úy** (viết tắt "CPT" ở Hoa
**Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: _corps expéditionnaire du Tonkin_) là một bộ chỉ huy quân sự quan trọng của Pháp ở miền Bắc Việt Nam (Bắc Kỳ) từ tháng 6 năm 1883