✨Nguyễn Khoa Chiêm

Nguyễn Khoa Chiêm

Nguyễn Khoa Chiêm (阮科占, Kỷ Hợi 1659–Bính Thìn 1736) tự Bảng Trung (榜中), tước Bảng Trung Hầu, là công thần trải hai triều chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu và Nguyễn Phúc Chú thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là tác giả bộ sách Nam triều công nghiệp diễn chí, được soạn vào năm Kỷ Hợi (1719).

Dòng tộc

Trong bộ Quý hương tiên nguyên dã sử của làng Triệu Tường, tỉnh Thanh Hóa có đoạn chép về dòng họ Nguyễn Khoa như sau: :''Ông Nguyễn Ư Kỳ, nguyên thái phó triều Lê và là cậu ruột của tướng Nguyễn Hoàng. Năm Mậu Ngọ 1557 ông Ư Kỳ theo Nguyễn Hoàng vào trấn miền Nam. Khi đi ông có dẫn theo một người con nuôi mới lên sáu tuổi, tên là Nguyễn Đình Thân (1553-1633), vốn là người ở làng Trạm Bạc, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là tỉnh Hải Dương).

Ông Thân làm tướng trải hai triều chúa là Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên. Kể từ đó, con cháu ông thay nhau làm quan cho các chúa Nguyễn: *Nguyễn Đình Khôi* (1594-1678) con ông Thân, tước Thuần Mỹ nam. Năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ chúa từ vùng Bắc Thuận Hóa về làng Kim Long (huyện Hương Trà, nay thuộc huyện Phong Điền, Thừa Thiên), ông Khôi cũng đến nhập tịch ở huyện ấy và được phép chúa Nguyễn cho đổi thành họ Nguyễn Khoa Nguyễn Khoa Danh* (1632-1697), con ông Khôi, tước Cảnh Lộc bá. Nguyễn Khoa Chiêm chính là người con duy nhất của ông Danh và bà Lê Thị Am.

Sự nghiệp

Sách Đại Nam liệt truyện Tiền biên chép: :Nguyễn Khoa Chiêm, tiên tổ người Hải Dương...Chiêm ban đầu làm Thủ hạp. Năm Tân Tỵ (1701), tức năm thứ 10 đời Hiển Tông Hoàng đế (tức chúa Nguyễn Phúc Chu), mùa xuân, Chiêm cùng Văn chức Trần Đình Khánh các viên Cai cơ ngoại tả Tôn Thất Diệu và Nội hữu Tổng Phúc Tài đi Quảng Bình để đốc suất các quân đắp chính lũy. Canh Dần năm thứ 19 (1710) thăng (Chiêm) làm Cai hạp kiêm tri bạ.'' :Trần Đình Ân (sau này là cha vợ ông Chiêm) từng nói trước mặt chúa rằng Chiêm là người có tài. Chúa bèn tin dùng. Giáp Ngọ năm thứ 23 (1714), Chiêm cùng Ký lục Nguyễn Đăng Đệ bàn việc chuyên chở bằng thuyền và định múc thu tô thuế hàng năm để sung việc chi dùng của nhà nước. Ất Mùi năm thứ 24 (1715) thăng chức Câu kê kiêm Tri bạ, được dự bàn việc quân cơ. Mậu Tuất năm thứ 27 (1718) thăng chức Cai bạ phó đoán sự. Giáp Thìn năm thứ 33 (1724) thăng chức Tham chính Chánh đoán sự. :Đến khi tuổi già, Chiêm về trí sĩ ở quê nhà. Một hôm tắm gội, mặc triều phục trông về phía cửa khuyết (phủ chúa) lạy hai lạy rồi lên giường nằm mà mất (năm 1736, thời chúa Nguyễn Phúc Chú)...Sau khi mất, được tặng hàm Đại lý Thượng khanh, được ban tên thụy là Thuần Hậu.

Tác phẩm chính

Năm thứ 22 đời chúa Nguyễn Phúc Chu (Kỷ Hợi 1719), Nguyễn Khoa Chiêm soạn Nam triều công nghiệp diễn chí (còn gọi là Trịnh Nguyễn diễn chí, Việt Nam khai quốc chí truyện, Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp diễn chí, Nam Việt chí, và Công nghiệp diễn chí). Bộ sách có Dương Thận Trai đề tựa, Nguyễn Giản viết lời bạt và Dương Công Tòng nhuận chính. Sách gồm 2 tập, mỗi tập 8 quyển, gồm 30 hồi. Nội dung thuật lại sự nghiệp khai phá Đàng Trong của các chúa Nguyễn khởi từ Đoan quốc công Nguyễn Hoàng đem quân vào Thuận Hóa vào năm Mậu Ngọ (1558) và kết thúc khi chúa Nguyễn Phúc Trăn mất vào năm Tân Mùi (1691).

Thê tử và gia quyến

Nguyễn Khoa Chiêm lấy Trần Thị Mận (1670- 1743) là con gái Cai bạ Trần Đình Ân làm vợ. Ông bà có cả thảy 12 người con, gồm 8 trai và 4 gái.

Trong số đó có người con trai thứ ba tên Nguyễn Khoa Đăng là viên quan giỏi, bởi tài xử kiện cáo, đủ trí xét ngay gian, cho nên được người đời gọi là "Bao công". Công lao nổi bật của ông là đã diệt được bọn cướp hung tợn ở truông Nhà Hồ và trừ được sóng dữ ở phá Tam Giang.

Mộ phần

Mộ Nguyễn Khoa Chiêm và vợ là bà Trần Thị Mận Mộ Nguyễn Khoa Chiêm nằm kề bên mộ vợ (song táng), tọa lạc tại đất nội táng (vườn giữa) của dòng họ Nguyễn Khoa, thuộc thôn Tứ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế. Mộ ông hình chữ nhật, quay về hướng Nam, xung quanh la thành và phần mộ xây bằng gạch vồ, nguyên liệu xây dựng chủ yếu bằng vôi, mật mía, keo da trâu tạo thành một hợp chất như xi măng. La thành mộ dài 7,17m; rộng 4,80m; chỗ cao nhất cao 1,40m, giữa thành thấp nhất cao 0,94m. Cách mộ ông khoảng 18m là mộ cải táng của Nguyễn Khoa Đăng.

Toàn thể khu mộ này đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận di tích theo quyết định số 57/VH-QĐ ngày 18 tháng 1 năm 1993.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Khoa Chiêm** (阮科占, Kỷ Hợi 1659–Bính Thìn 1736) tự _Bảng Trung_ (榜中), tước _Bảng Trung Hầu_, là công thần trải hai triều chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu và Nguyễn Phúc Chú thời Lê
**Nguyễn Khoa Đăng** (1690-1725) ông có tài xử kiện cáo, đủ trí xét ngay gian, cho nên được người đời gọi là **Bao Công**, **Bao Thanh Thiên**, **Bao Chửng Đại Việt** là một công thần
**Nguyễn Khoa Toàn** (1899-1965) là một quan triều nhà Nguyễn đồng thời là Bộ trưởng Giáo Dục và Thông Tin của quốc gia Việt Nam thời vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Khoa Nam** (23 tháng 9 năm 1927 – 1 tháng 5 năm 1975) nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Nguyễn Như Đổ** (chữ Hán: 阮如堵; 1424 - 1526), biểu tự **Mạnh An** (孟安), hiệu **Khiêm Trai** (謙齋), là nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà thơ, nhà giáo dục thời Lê sơ trong lịch
**Nguyễn Thiến** (chữ Hán: 阮倩; 1495 - 1557) là một chính trị gia đời nhà Mạc và nhà Lê trung hưng sau này. Ông cũng là một Trạng Nguyên đời vua Mạc Thái Tông. ##
**Nguyễn Quan Quang** (chữ Hán: 阮觀光, 1222-?), có tài liệu ghi là **Nguyễn Quán Quang** hay **Trần Quán Quang**, là một danh thần thời nhà Trần. Ông được biết nhiều với giai thoại đỗ Tam
**Lăng Nguyễn Đình Chiểu** là nơi an táng và thờ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, cùng với vợ ông là bà Lê Thị Điền và con gái là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Khu di
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Nguyễn Văn Nhơn** () hay **Nguyễn Văn Nhân**, tục gọi là **Quan lớn Sen** (1753-1822), là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) trong lịch sử Việt Nam.
**Chảy máu sản khoa** là chảy máu trong thai kỳ xảy ra trước, trong hoặc sau khi sinh. Chảy máu trước khi sinh là xảy ra sau 24 tuần mang thai. Nguyên nhân gây chảy
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
Công nữ **Nguyễn Phúc Ngọc Khoa** (chữ Hán: 公女阮福玉誇), không rõ sinh mất năm nào, là con gái thứ ba của chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên. Theo _Nguyễn Phước tộc Thế phả_, bà được gả
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Chiêm tinh học** là một hệ thống huyền học, hay ngụy khoa học dự đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương
**Chiêm tinh học phương Tây** là hệ thống chiêm tinh phổ biến nhất ở các quốc gia phương Tây. Chiêm tinh học phương Tây có nguồn gốc lịch sử từ tác phẩm _Tetrabiblos_ của Ptolemy
**Nguyễn Đáng** (16 tháng 11 năm 1925 - 8 tháng 4 năm 1984), tên thường dùng là **Nguyễn Văn Trung**, tên thường gọi là **Năm Trung** hay **Năm Đáng,** là nhà hoạt động Cách mạng
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Thái Nguyên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Nguyên, nằm bên bờ sông Cầu, là một trong những thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam. Thành phố Thái Nguyên là trung
nhỏ|430x430px|BrdU (màu đỏ), thể hiện quá trình neurogenesis trong trung khu dưới hạt (SGZ) của vùng DG hồi hải mã. Hình ảnh minh họa này của Faiz và cộng sự, năm 2005. **Khoa học thần
Vị trí vùng Tây Nguyên trên bản đồ Việt Nam [[Lâm Đồng]] [[Đắk Lắk]] **Tây Nguyên** hay **vùng cao nguyên Nam Trung Bộ** là khu vực địa lý với địa hình cao nguyên thuộc miền
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
**Nguyễn Đức Chung** (sinh ngày 3 tháng 8 năm 1967) là một cựu Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông là cựu Chủ tịch Ủy ban
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
Chiêm tinh học bao gồm một số hệ thống niềm tin được cho rằng có một mối quan hệ giữa các hiện tượng thiên văn và các sự kiện hay đặc điểm nhân cách trong
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XIV** diễn ra vào ngày 22 tháng 5 năm 2016 thông qua biểu quyết trước đó của Quốc hội vào ngày 24 tháng 11 năm 2015. Qua đó,
**Vụ ném bom nguyên tử Hiroshima và Nagasaki** là sự kiện hai quả bom nguyên tử được Quân đội Hoa Kỳ, theo lệnh của Tổng thống Harry S Truman, sử dụng trong Chiến tranh thế
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Quốc hội Việt Nam khóa XIV** (nhiệm kỳ 2016-2021) là nhiệm kỳ thứ 14 của Quốc hội Việt Nam, được bầu vào ngày 22 tháng 5 năm 2016 với 496 đại biểu. ## Kết quả
**Quản lý tài nguyên thiên nhiên** là việc quản lý các nguồn lực tự nhiên như đất,nước, thực vật, động vật và tập trung chủ yếu về các tác động đến chất lượng cuộc sống
**Lê Chiêm** (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1958) là một sĩ quan cấp cao của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng và chính trị gia người Việt Nam. Ông là nguyên
**Nguyễn Thị Thanh Tuyền**, thường được biết đến với tên gọi **Nguyễn Phương Hằng** (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1971), là một nữ doanh nhân người Việt Nam. Bà là Tổng Giám đốc và
**Nguyễn Chánh Thi** (1923-2007) nguyên là một cựu tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ một trường Võ bị Địa phương do
**Nguyễn Quyện** (chữ Hán: 阮倦; 1511-1593) là danh tướng trụ cột của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam, tước Văn Phái hầu sau được phong làm Thường quận công, Chưởng