✨Lịch sử Campuchia (1979–1993)
Giai đoạn này của lịch sử Campuchia bắt đầu từ ngày 7 tháng 1 năm 1979, khi chính quyền Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ bị lật đổ do Chiến dịch phản công biên giới Tây Nam của Việt Nam.
Tại hàng trăm ngôi làng Campuchia, quân đội Việt Nam được chào đón với sự mừng vui và khó tin là đã được cứu thoát. Khoảng 300 ngàn dân từ các tỉnh phía Tây và từ Phnom Penh bị buộc phải đi cùng quân Khmer Đỏ rút lui vào rừng. Đối với phần còn lại của Campuchia, người ta xem như đã được hồi sinh. Nhưng Campuchia giờ đây là một đất nước không có tiền tệ, thị trường, bưu điện hay trường học. Cả nước đầy rẫy những khu mộ tập thể và nhà chứa hài cốt. Những người dân yếu ớt còn sống sót đang đối mặt với nạn đói. Thay vì được hoan nghênh do đã lật đổ một chế độ mà cả thế giới lên án, Việt Nam phải chịu sự chỉ trích của quốc tế. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia chỉ được một số ít nước công nhận, trong khi Khmer Đỏ dù bị nhiều nước lên án nhưng vẫn được thừa nhận là thành viên hợp pháp của Liên Hợp Quốc.
Sau khi Quân đội Việt Nam rút toàn bộ khỏi Campuchia năm 1989, và các nỗ lực khôi phục hòa bình và hòa giải dân tộc diễn ra sau đó, thời kì Cộng hòa Nhân dân Campuchia chấm dứt, Campuchia trở thành quốc gia quân chủ lập hiến.
Khmer Đỏ rút chạy và sự hậu thuẫn của Trung Quốc - Thái Lan
Khmer Đỏ rút chạy về phía Tây, hướng biên giới với Thái Lan, và chốt lại tại các căn cứ gần biên giới. Ieng Sary chạy khỏi Phnom Penh trên chuyến tàu cuối cùng sáng ngày 7 tháng 1, ra đến biên giới Thái Lan ngày 11 tháng một trong tình trạng đói, kiệt sức và mất dép. Trực thăng Thái đưa đoàn của Ieng Sary cùng Đài phát thanh của Khmer Đỏ đến sân bay Đôn Mường rồi từ đó đoàn bay tiếp đến Trung Quốc.
Ngày 13 tháng 1, Ieng Sary gặp Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình phê phán chiến dịch thanh trừng của Khmer Đỏ hơi quá đáng và quá rộng về phạm vi, gây cho Trung Quốc những sự bất tiện và mang lại nhiều kết quả xấu. Ông khuyên Khmer Đỏ nếu muốn được Trung Quốc giúp đỡ thì nên giữ Sihanouk ở vị trí đứng đầu chính phủ, Pol Pot làm thủ tướng tổng tư lệnh chịu trách nhiệm về quốc phòng. Cùng ngày hôm đó, Ủy viên Bộ chính trị Cảnh Biểu (耿飚), thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Hàn Niệm Long, cùng một vài thành viên trong Bộ tổng tham mưu quân đội Trung Quốc bay đến Bangkok bắt đầu bàn bạc về cách thức hợp tác giữa Trung Quốc và Thái Lan trong cuộc chiến tại Campuchia để hỗ trợ Khmer Đỏ.
Thái Lan đồng ý cho Khmer Đỏ sử dụng lãnh thổ của mình cho các công tác hậu cần, đồng ý cung cấp các phương tiện giao thông vận tải phục vụ Khmer Đỏ, đồng ý để các lãnh đạo Khmer Đỏ đi qua đất Thái Lan khi ra nước ngoài.
Ngày 16 tháng 1, Đài Campuchia Dân chủ bắt đầu phát sóng trở lại từ trong lãnh thổ Trung Quốc.
Về phần Thái Lan, mất Campuchia làm vùng đệm với Việt Nam, theo truyền thống trong lịch sử thì Thái Lan sẽ đem quân vào Campuchia để đánh quân Việt Nam. Nhưng trong thời hiện đại khả năng can thiệp trực tiếp đã bị loại bỏ tại một cuộc tranh luận nảy lửa đầu năm 1979 vì lý do không có chính danh ("Chúng ta nhảy vào với danh nghĩa gì? Khmer Đỏ ư?") Nhưng nhờ có hoạt động quân sự bền bỉ của Khmer Đỏ và quyết tâm của Trung Quốc trong việc tước bỏ sức mạnh của Việt Nam, chính cuộc xung đột kéo dài tại Campuchia đã có tác dụng như một vùng đệm mà Thái Lan muốn giữ.
Để hỗ trợ Khmer Đỏ, liên minh không chính thức giữa Bắc Kinh và Bangkok đã thiết lập một tuyến đường bí mật trên đất Thái tiếp tế cho Khmer Đỏ. Tàu Trung Quốc chở vũ khí đạn dược đến các cảng Sattahip và Klong Yai, từ đó, quân đội Thái chuyển hàng đến cho các trại đóng quân của Khmer Đỏ dọc theo biên giới Thái Lan - Campuchia. Sứ quán Trung Quốc tại Bangkok phối hợp với các thương gia người Thái gốc Hoa cùng quân đội Thái chịu trách nhiệm cung cấp lương thực, thuốc men, và hàng dân dụng cho Khmer Đỏ. Đổi lại, Trung Quốc trả phí vận chuyển cho quân đội Thái và cho phép quân đội Thái giữ lại một phần vũ khí. Trung Quốc cũng chuyển giao cho Thái công nghệ chế tạo vũ khí chống tăng với điều kiện một phần sản lượng sẽ được chuyển cho Khmer Đỏ.
Sihanouk đến Trung Quốc
Ngày 9 tháng 1 năm 1979, Sihanouk được Khmer Đỏ đưa đến New York với tư cách đại diện tối cao của Campuchia Dân chủ tại Liên Hợp Quốc. Trả lời báo chí, ông lên án Việt Nam đã xâm lược Campuchia, đồng thời gọi Pol Pot là "một tên đồ tể coi nhân dân Campuchia như gia súc dành cho lao động cưỡng bức hay như lợn dành cho lò mổ"
Ngày 13 tháng 1, Sihanouk bí mật đề nghị và được Mỹ giúp thoát khỏi sự giam lỏng và kiểm soát của Khmer Đỏ và Trung Quốc. Ông muốn được tị nạn chính trị để thoát khỏi Khmer Đỏ. Mỹ từ chối do lo ngại ảnh hưởng xấu tới quan hệ giữa nước này và Trung Quốc. Pháp đồng ý nhưng với điều kiện ông bỏ hoàn toàn mọi hoạt động chính trị. Việt Nam gửi thông điệp qua đại sứ một nước không liên kết rằng ông được hoan nghênh trở về Phnom Penh giữ vị trí đứng đầu chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Bắt đầu cuộc sống tại Bắc Kinh từ tháng 2 năm 1979, Sihanouk được Trung Quốc cung cấp một cuộc sống rất tiện nghi, nhưng quan hệ giữa hai bên ngày càng xấu đi. Trái với lời hứa của Đặng Tiểu Bình tại Washington, Trung Quốc nhanh chóng bắt đầu gây áp lực để Sihanouk nhận vị trí lãnh đạo một mặt trận liên minh. Ông liên tiếp từ chối, thậm chí còn kêu gọi loại bỏ Campuchia Dân chủ khỏi Liên Hợp Quốc và bỏ trống ghế của Campuchia cho đến khi một chính quyền đại diện được thành lập.
Tái thiết Campuchia
Được Việt Nam hậu thuẫn, ngày 8 tháng 1 năm 1979 Hội đồng Nhân dân Cách mạng nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập.
Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia về danh nghĩa là đảng cầm quyền tại Campuchia. Nhưng tổ chức này mới được thành lập nên chưa đủ sức đảm nhận công việc vực dậy và đưa hoạt động của đất nước về trạng thái bình thường, lại càng chưa thể bảo vệ chính phủ mới khỏi trước sức mạnh quân sự của Khmer Đỏ. Hệ thống chuyên gia Việt Nam được thiết lập. A-40 là ban chuyên gia cao cấp gồm một số ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có trách nhiệm giữ liên lạc giữa hai đảng và cố vấn tất cả các vấn đề quan trọng. Nhóm B-68 gồm các chuyên gia trung cấp làm việc tại các bộ trong chính phủ Campuchia và tham gia việc ra quyết định hằng ngày. Nhóm A-50 gồm các chuyên gia làm việc với chính quyền cấp tỉnh. Ở các vùng nông thôn, chuyên gia Việt Nam từ các tỉnh kết nghĩa cũng làm việc tại các công sở cấp tỉnh. Dưới cấp tỉnh, hoạt động chuyên gia do quân tình nguyện Việt Nam đảm nhận.
Nhà nước Campuchia phát hành đồng riel mới năm 1980, sau thời kỳ thị trường vận hành bằng gạo và vàng. Thị trường phát triển mạnh nhờ buôn lậu quy mô lớn tại biên giới Thái Lan. Sự giúp đỡ của quốc tế giúp đẩy lui nạn đói. Campuchia nhanh chóng hồi sinh. Nhưng Việt Nam vẫn phải chịu chỉ trích của thế giới về sự can thiệp vào Campuchia, tiếp theo là những lệnh cấm vận kinh tế. Do đó, các chính sách ngoại giao của Việt Nam đã đặt ưu tiên hàng đầu cho mục tiêu hợp pháp hóa chính quyền Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Chính quyền Pol Pot nay chỉ còn là một nhóm du kích trong rừng nhưng lại được bầu là đại diện hợp pháp duy nhất của nhân dân Campuchia.
Từ đây, cuộc đấu tranh ngoại giao tại Liên Hợp Quốc đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia để giành quyền tự quyết cho người Campuchia đã tạo ra một liên minh gồm hơn 100 quốc gia hỗ trợ Khmer Đỏ - chính thế mà nhiều nước trong số đó đã và vẫn đang lên án mạnh mẽ. Việc Liên Hợp Quốc tiếp tục công nhận Khmer Đỏ đồng nghĩa với việc Việt Nam tiếp tục bị cô lập về chính trị.
Trên trường quốc tế, tuy Khmer Đỏ vẫn giữ được ghế tại Liên Hợp Quốc nhờ các nỗ lực liên minh của Mỹ-ASEAN-Trung Quốc, sự hỗ trợ quốc tế có nguy cơ giảm dần. Từ năm 1980, báo chí phương Tây được mở rộng cửa vào Campuchia, tự do đi lại lấy tin tức. Các phóng sự và phim của họ đã làm toàn thế giới rùng mình và dẫn đến việc Anh và Úc rút sự thừa nhận đối với chính phủ Campuchia Dân chủ. Mùa thu năm 1980, ngoại trưởng Mỹ Edmund Muskie đã muốn dùng phiếu trắng cho cuộc bỏ phiếu tín nhiệm đối với Campuchia Dân chủ tại Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, do sức ép mạnh mẽ từ Trung Quốc, từ các đại sứ Mỹ tại các nước ASEAN, và từ Brzezinski, Muskie đồng ý bỏ phiếu thuận. Các vận động hành lang của liên minh Mỹ-Trung Quốc-ASEAN đã giúp đạt được 97 phiếu thuận cho nghị quyết Liên Hợp Quốc kêu gọi Việt Nam rút quân.
Liên minh các phái Campuchia chống Việt Nam
Việc Việt Nam nhanh chóng đánh bại Khmer Đỏ khiến Thái Lan lo ngại, và Thái Lan đồng ý cho lực lượng đối lập Campuchia thiết lập căn cứ tại vùng biên giới để tạo thành một vùng đệm giữa Việt Nam và Thái Lan. Hoa Kỳ thoạt đầu tuyên bố trung lập, nhưng Trung Quốc tích cực hỗ trợ Khmer Đỏ với ngân khoản 80 triệu dollar hàng năm, và vận động Hoa Kỳ viện trợ cho các phe đối lập. Hoa Kỳ tiếp tục tiến hành cấm vận kinh tế với Việt Nam, và từ khi quân Việt Nam tiến vào Phnom Penh, hủy bỏ đàm phán bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Các khoản viện trợ cho Việt Nam và chính quyền Phnom Penh đều bị ngưng lại. Hoa Kỳ và đồng minh gây áp lực để cả Ngân hàng phát triển châu Á (Asian Development Bank) và Ngân hàng thế giới (World Bank) ngưng các khoản vay cho chính phủ Hà Nội và Phnom Penh.
Căn cứ các lực lượng chống đối 1979-1984 Tháng 7 năm 1981, dự thảo nghị quyết Hội nghị Quốc tế về Campuchia ICK do ASEAN đề xuất (Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu là người viết chính) có nội dung mang xu hướng hòa giải với Việt Nam. Dự thảo phản ánh quan điểm đồng thuận của ASEAN rằng chính sách của Trung Quốc làm Việt Nam chảy máu không phục vụ lợi ích chung của khối; một nước Việt Nam suy yếu và sự khôi phục quyền lực của chính quyền Khmer Đỏ thân Trung Quốc sẽ đảo lộn nghiêm trọng cân bằng trong khu vực; việc thiết lập một chính phủ độc lập và không liên kết tại Campuchia qua bầu cử sẽ giải quyết các mối quan ngại về an ninh của Thái Lan và Việt Nam, và làm cho Trung Quốc không còn lý do can thiệp vào vùng Đông Nam Á lục địa. Bản dự thảo còn hứa hẹn sau khi giải quyết vấn đề Campuchia sẽ có hỗ trợ quốc tế cho việc tái thiết nước Việt Nam đã bị chiến tranh tàn phá. Dự thảo cũng yêu cầu sau việc Việt Nam rút quân là việc giải giáp vũ khí của tất cả các lực lượng Khmer cùng với một cơ chế chính thể chuyển tiếp để tổ chức bầu cử tự do.
Ngay khi cuộc hội thảo bắt đầu tại Liên Hợp Quốc ngày 13 tháng 7, bản dự thảo của ASEAN bị Trung Quốc và Khmer Đỏ phản đối mạnh mẽ. Ý định mời Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia tham dự hội nghị bị hủy bỏ. Các câu chữ thừa nhận mối quan ngại chính đáng của Việt Nam về an ninh bị rửa trôi. Các nước ASEAN cố gắng đấu tranh đòi giữ nội dung về giải giáp vũ khí Khmer Đỏ và thành lập chính phủ chuyển tiếp. Đang cần xoa dịu Trung Quốc sau sự kiện Tổng thống Ronald Reagan tuyên bố về quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan, Mỹ đứng về phía Trung Quốc gây sức ép buộc các nước ASEAN thỏa hiệp. Chịu khuất phục áp lực của Trung Quốc và Mỹ, các nước ASEAN chấp thuận để bản nghị quyết có ngôn ngữ thỏa hiệp ở mức tương đương với việc từ bỏ hai nội dung quan trọng nói trên.
Sau nhiều đàm phán, cuối cùng một Chính phủ liên hiệp Campuchia Dân chủ cũng được thành lập vào ngày 22 tháng 6 năm 1982, với Sihanouk làm tổng thống, Son Sann là thủ tướng, Khieu Samphan giữ chức phó tổng thống kiêm ngoại trưởng. Các điều khoản của liên minh có vẻ thiên về hướng có lợi cho Khmer Đỏ: chấp nhận 4 điều kiện của họ về cấu trúc 3 phái, không bên nào được giữ ưu thế, ra quyết định theo đồng thuận, và giữ nguyên quốc ca quốc kì. Khmer Đỏ cũng tiếp tục giữ quyền đảm nhiệm các hoạt động ngoại giao như trước. Ngoài ra, Khmer Đỏ còn có quyền rút ra khỏi liên minh mang theo cái tên Campuchia Dân chủ, điểm này chấm dứt hy vọng của các phái phi cộng sản về cơ hội lấy được tính hợp pháp của cái tên Campuchia Dân chủ từ Khmer Đỏ.
Sự ra đời của chính quyền liên minh đã làm tăng vị thế quốc tế của ASEAN và đem lại sức sống mới cho các phái Campuchia chống Việt Nam. Từ năm 1982, Việt Nam ngừng thách thức uy tín của Campuchia Dân chủ tại Liên Hợp Quốc. Số nước bỏ phiếu ủng hộ nghị quyết do ASEAN đưa ra chống Việt Nam đăng từ 91 năm 1979 lên con số kỉ lục 114 vào năm 1985. ASEAN và Mỹ phát triển một chương trình viện trợ kinh tế, quân sự, và đào tạo cho các phái phi cộng sản trong Chính phủ Liên hiệp. Ngoài hỗ trợ khổng lồ mà Bắc Kinh dành cho Khmer Đỏ, Trung Quốc và Triều Tiên cũng cung cấp viện trợ cho các phái phi cộng sản. Nhờ đó, lực lượng quân sự của các phái này phát triển lên gần 30 ngàn. Trong khi đó, phe ủng hộ Son Sann thì phản đối Sihanouk, còn Sihanouk thì nhiều lần đe dọa từ chức. Thiệt hại lớn nhất của liên minh ba phái là vào năm 1985, khi chiến dịch truy quét quy mô lớn kéo dài 5 tháng của Quân tình nguyện Việt Nam chấm dứt khái niệm ảo về lãnh thổ của Campuchia Dân chủ. Liên minh mất toàn bộ các căn cứ trên đất Campuchia, trong đó có thủ đô lâm thời đặt tại một ngôi làng có tên Phum Thmei trong rừng sát biên giới Thái Lan. Khmer Đỏ rút một phần về Thái Lan, một phần chia nhỏ và ẩn trong nội địa. Hai phe Sihanouk và Son Sann rút hẳn vào trong lãnh thổ Thái Lan. Mâu thuẫn giữa hai phái Sihanouk và Son Sann lên đỉnh điểm vào tháng 12 năm 1985, ASEAN phải can thiệp và quyền chỉ huy lực lượng KPNLF (mặt trận giải phóng quốc gia của nhân dân Campuchia) chuyển sang cho quân đội Thái đảm nhiệm.
Hoạt động quân sự của Việt Nam
Việt Nam hy vọng có thể nhanh chóng truy quét và tiêu diệt tàn quân Khmer Đỏ trước khi mùa khô 1979-1980 kết thúc. Nhưng kết cục không được như ý muốn của họ, và cuộc xung đột trên đất Campuchia kéo dài trong tiếp 12 năm sau đó. Tháng 9 năm 1979, quân Việt Nam bắt đầu tiến về biên giới phía tây Campuchia nhằm truy quét các lực lượng tàn quân Khmer Đỏ rải rác trong các trại tị nạn dọc biên giới Thái Lan-Campuchia. Quân Khmer Đỏ cố gắng tập hợp lực lượng, nhưng khả năng chống trả của Khmer Đỏ chỉ giới hạn trong phạm vi các cuộc chạm trán lẻ tẻ.
Trong thời gian đó, các lực lượng kháng chiến Campuchia phi-cộng sản (NCR) cũng thành lập, như MOLINAKA, hay phe của cựu thủ tướng Son Sann, do tướng Dien Del tổ chức và tuyển mộ với tên gọi KPNLFA, rồi đổi tên thành KPNLF với khoảng 8-9 ngàn quân, nhưng lực lượng này không phải là mối đe dọa với chính quyền Phnom Penh được Việt Nam bảo trợ." Hoàng thân Sihanouk cũng thành lập lực lượng kháng chiến bảo hoàng với tên gọi FUNCINPEC.
phải|Căn cứ-trại tị nạn các lực lượng chống đối Campuchia Từ năm 1979 đến giữa năm 1985, quân đội Việt Nam thực hiện các chiến dịch quân sự truy quét đánh phá các căn cứ của Khmer Đỏ. Tháng 1 năm 1980, chiến dịch quân sự nhằm vào Khmer Đỏ tại Phnom Chhat bắt đầu. Các cuộc đụng độ giữa các lực lượng NCR và quân Việt Nam cũng diễn ra và lan sang cả lãnh thổ Thái Lan. Về phần mình, Khmer Đỏ cũng tiến hành các hoạt động quân sự nhắm vào các mục tiêu là các đơn vị quân sự lớn hơn, chủ yếu quanh Xiêm Riệp và đường số 6. Họ cũng mở rộng địa bàn hoạt động về phía đông quanh Phnom Malai, nằm khoảng 20 km về phía nam thị trấn Aranyaparthet-Poipet, tỉnh Battambang. Việc Khmer Đỏ sử dụng mìn bẫy gây ra rất nhiều thương vong.
Lực lượng Việt Nam và chính phủ Phnom Phênh tiếp tục truy đuổi và giáng những đòn nặng nề vào các nhóm chống đối. Năm 1982, trong một chiến dịch dữ dội nhất kể từ khi quân Việt Nam tiến vào lật đổ Khmer Đỏ, sư đoàn 7 Việt Nam đánh vào trại Sokh San của KPNLF, buộc họ phải bỏ chạy vào Thái Lan cùng 9.000 dân. Tới tháng 7 năm 1982, các bộ trưởng ba nước Đông Dương tuyên bố Việt Nam sẽ rút quân từng phần khỏi Campuchia đơn phương và vô điều kiện.
Tình hình quân sự tại Campuchia trong năm 1983 trở nên xấu đi. Chiến dịch mùa khô năm 1983 kéo dài hơn, dữ dội hơn và tàn khốc hơn giao chiến trong suốt 4 năm trước đó. Tháng 1 năm 1983, các đơn vị nhỏ của KPNLF tấn công các đồn tiền tiêu của quân Việt Nam. Để trả đũa, tới 31 tháng 1, khoảng 4.000 quân Việt Nam, được pháo hạng nặng và xe tăng hỗ trợ, mở cuộc hành quân sáu ngày càn vào căn cứ Nong Chan của KPNLF, khiến cho 30 ngàn dân trong trại này bỏ chạy sang đất Thái. Trại này là một căn cứ quan trọng của KPNLF, bị đánh phá nặng nề. Tới 31 tháng 3, quân Việt Nam lại đánh vào các căn cứ Phnom Chhat và Chamkar Kor là các căn cứ chỉ huy của Khmer Đỏ, khiến 30 ngàn dân tại trại này bỏ chạy sang Thái Lan.
Tiếp đó, quân Việt Nam quay sang đánh vào một căn cứ của KPNLF, khiến 50 ngàn dân Campuchia tại căn cứ này chạy sang Thái Lan, hàng trăm người bỏ mạng trước khi tới được biên giới. Trong lúc giao tranh diễn ra, quân Việt Nam truy kích quân Khmer Đỏ qua biên giới và lần đầu tiên giao chiến với quân Thái Lan. Giữa tháng 2, khoảng 30 ngàn quân Việt Nam tiến công căn cứ Phnom Malai, được khoảng 10 ngàn quân Khmer Đỏ phòng ngự (ước tính khác cho biết khoảng 36 ngàn quân Việt Nam và 17 ngàn quân Khmer Đỏ). Chỉ sau hai ngày giao chiến, căn cứ này thất thủ, hơn 30 ngàn dân sống tại trại này tràn sang đất Thái Lan chạy trốn chiến sự. Số quân Khmer Đỏ tại trại này tản mát theo hướng ngược lại, tiến sâu vào nội địa Campuchia để phối hợp với chừng 30 ngàn quân Khmer Đỏ tiến hành chiến tranh du kích. Tới tháng 3, căn cứ Green Hill cũng thất thủ, 3000 quân Sihanouk rút sang Thái. Như vậy trong một loạt chiến dịch bắt đầu từ tháng 11 năm 1984 cho tới giờ, quân Việt Nam đánh chiếm hết căn cứ này tới căn cứ khác của lực lượng chống đối Campuchia, đẩy khoảng 230 ngàn dân trong các căn cứ này qua biên giới Thái Lan và cắt đường tiếp tế cho các lực lượng du kích chống đối trong nội địa Campuchia. Tuy nhiên giành được thắng lợi, quân Việt Nam không triệt để tiêu diệt được quân Khmer Đỏ, và khi quân Việt Nam rút đi, quân Khmer Đỏ lại chiếm đóng các vị trí cũ và tái xây dựng lại khu căn cứ. Do rất nhiều khu căn cứ của quân NCR bị đánh chiếm và phá hủy, Son Sann đề xuất liên hợp lực lượng KPNLF của mình với lực lượng của Sihanouk.
Sau các chiến dịch 1984-85 của Việt Nam, lực lượng đối lập bị nhiều tổn thất. Phe KPNLF với lực lượng ước tính từ 12-15 ngàn lính mất khoảng 1/3 lực lượng do thương vong và đào ngũ. Kể từ năm 1986, lực lượng NCR quyết định không đương đầu với quân Việt Nam tại các căn cứ biên giới nữa mà xâm nhập sâu vào nội địa Campuchia để hoạt động. Tới năm 1986, tình hình trở nên rõ ràng là không có bên nào có thể giành chiến thắng quyết định trong cuộc xung đột, và biên giới Thái Lan-Campuchia trở nên yên tĩnh trở lại, với các bên tham chiến ngưng các chiến dịch quân sự dọc biên giới.
Ngày 16 tháng 8 năm 1985, thông cáo của cuộc họp các bộ trưởng ngoại giao ba nước Đông Dương tại Phnom Penh tuyên bố Việt Nam sẽ rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia, quá trình rút quân sẽ hoàn thành năm 1990.
Tuyên bố rút quân đơn phương này là một thay đổi lớn so với chính sách trước đó của Việt Nam là "sẽ xem xét việc rút quân khi không còn mối đe dọa từ Trung Quốc".
Tuy nhiên, 1985 vẫn là năm bế tắc trong ngoại giao. Các phái Campuchia chống Việt Nam từ chối đàm phán với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Việt Nam ủng hộ, còn Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Campuchia không chấp nhận sự tham gia của Khmer Đỏ. Tuyên bố rút quân đơn phương của Việt Nam bị lờ đi và riễu là không thành thực.:
-
Về mặt bội độ của Campuchia: Hội đồng Dân tộc tối cao Campuchia trao tất cả quyền lực cần thiết cho LHQ thi hành hiệp định LHQ đưa một lực lượng, trong đó có bộ phận quân sự vào Campuchia kiểm soát ngừng bán, rút quân nước ngoài, chấm dứt viện trợ quân sự nước ngoài Với lý do bảo đảm cho Tổng tuyển cử được tự do và công bằng LHQ trực tiếp kiểm soát 5 bộ: Quốc phòng, Nội vụ, Ngoại giao, Tài chính, Thông tin và một số cơ quan, tổ chức khác nếu xét thấy có thể trực tiếp ảnh hưởng tới kết quả bầu cử LHQ là người tổ chức Tổng tuyển cử theo tỷ lệ hàng tỉnh LHQ tiến hành giải ngũ 70% quân đội các bên, kiểm soát số lượng cảnh sát được phép giữ lại, số 30% quân đội còn lại sẽ được giải ngũ trước Tổng tuyển cử hoặc chính phủ mới quyết định số quân này vào quân đội quốc gia hay giải thể nốt *Hội đồng Dân tộc tối cao Campuchia chỉ đưa ra những khuyến nghị với đại diện Tổng thư ký LHQ về các hoạt động ở Campuchia, còn quyền quyết định tối hậu thuộc về đại diện đặc biệt của TTK LHQ
-
Về mặt quốc tế: Nước ngoài rút quân khỏi Campuchia, các nước cam kết chấm dứt viện trợ quân sự cho các bên Campuchia Nhà nước Campuchia trong tương lai sẽ thi hành một chính sách trung lập, không có quân đội (trên thực tế Campuchia tái lập quân đội năm 1993), không có căn cứ quân sự nước ngoài, quan hệ hữu nghị với tất cả các nước *Các nước cam kết tôn trọng quy chế trung lập đó của Campuchia