✨Không chiến tại Anh Quốc
Cuộc Không chiến tại Anh Quốc () là tên thường gọi của một cuộc không chiến dai dẳng giữa Đức Quốc xã và Anh Quốc vào mùa hè-thu năm 1940 trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi xâm chiếm Pháp thành công, Lãnh tụ Đế chế Đức Adolf Hitler và Bộ Tư lệnh Tối cao Đức đã mở một chiến không quân tấn công Anh, nhằm mục tiêu giành lấy ưu thế trên không trước Không quân Hoàng gia Anh, nhất là đối với lực lượng tiêm kích, mục đích là làm suy yếu sức kháng cự của Anh, mở đường cho cuộc đổ bộ của hải quân và lính dù Đức trong Chiến dịch Sư tử biển theo sau đó, buộc Anh phải đầu hàng hoặc ít nhất xin ký hòa ước và rút ra khỏi chiến trường châu Âu. Nhất là từ sau những thắng lợi ban đầu của lực lượng Không quân Đức, người Đức đã tin rằng điều này nhất thiết sẽ diễn ra. Và, dù có những mất mát lớn, nước Anh đã giành chiến thắng trong chiến dịch này, làm nên một bước ngoặt cho nước Anh trong cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai.
Trận chiến nước Anh là chiến dịch quân sự lớn đầu tiên được thực hiện hoàn toàn bằng lực lượng không quân. Trước đó, chưa bao giờ có cuộc oanh tạc và đụng độ trên không lâu dài và ác liệt như thế. Từ tháng 7 năm 1940, những đoàn tàu vận tải duyên hải và trung tâm hàng hải, như Portsmouth là những mục tiêu chính; nhưng một tháng sau đó Luftwaffe đã chuyển hướng tấn công vào các sân bay và cơ sở hạ tầng của không quân Anh. Đến khi cuộc giằng co kéo dài, Luftwaffe nhằm cả vào những nhà máy sản xuất máy bay và cơ sở hạ tầng trên mặt đất. Cuối cùng Luftwaffe quay sang các khu vực có ý nghĩa chính trị để tiến hành chiến thuật ném bom khủng bố, mở cuộc oanh tạc rầm rộ vào thủ đô và các thành phố lớn của đối phương.
Không quân Đức sau cùng đã phải bỏ dở chiến dịch, sức mạnh chiến đấu của không quân Anh và sức chịu đựng dũng cảm của nhân dân Anh đã được thể hiện. Nền Đệ tam Đế chế Đức đã không thể hoàn thành được mục tiêu của mình: ít ra thì nước Anh vẫn tiếp tục chiến đấu. Nước Anh xem đây là một thắng lợi quyết định, và thực chất thì chiến thắng này quả là quyết định đối với họ, nước Anh đã thoát khỏi nguy cơ bị quân Đức đổ bộ xâm chiếm. Mặt khác, chỉ trích Bộ Tư lệnh Tiêm kích Đức với thất bại lớn này là điều khó, bởi lẽ tình hình cho thấy họ không dễ gì ra quyết định cả. Chiến thắng này còn dẫn đến sự tiếp tục tham chiến của nước Anh trong Trận chiến Đại Tây Dương và vai trò quan trọng của Anh trong Trận Normandie vào năm 1944..
Bối cảnh
phải|nhỏ|upright|Thủ tướng Anh [[Winston Churchill]] Trong giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, các cuộc tiến công của Đức trên lục địa đã giành nhiều thắng lợi với sự hỗ trợ đắc lực của lực lượng không quân Luftwaffe hùng hậu. Ngày 10 tháng 5, Đức Quốc xã bắt đầu cuộc xâm chiếm nước Pháp, và cùng ngày hôm đó Winston Churchill lên nhận chức thủ tướng Anh. Bộ tư lệnh Tiêm kích RAF lúc này vô cùng thiếu thốn các phi công có kinh nghiệm và máy bay, nhưng bất chấp phản đối của tư lệnh không quân Hugh Dowding là nên giữ không quân phòng thủ trong nước để bảo toàn lực lượng, Churchill vẫn phái các đội bay tiêm kích tới hỗ trợ các chiến dịch tại Pháp, và tại đó RAF đã chịu thiệt hại nặng nề. ông ta hy vọng có thể đàm phán hòa bình với nước Anh, và đã không tiến hành chuẩn bị cho cuộc tấn công đổ bộ lên bờ biển đối phương khi tin rằng nước Anh, đã bị đánh bại trên lục địa và không còn đồng minh ở châu Âu, sẽ nhanh chóng đi đến thỏa hiệp. Mặc dù Bộ trưởng ngoại giao Huân tước Halifax và một bộ phận công chúng Anh cùng những cảm tính chính trị thiên về một cuộc đàm phán hòa bình với nước Đức, Winston Churchill, người mới nhận chức Thủ tướng, cùng đa số thành viên nội các của ông ta đã từ chối việc xem xét đình chiến với Hitler. Thay vào đó, Churchill, với tài hùng biện của mình, đã vận động tinh thần dân chúng chống lại sự thỏa hiệp, và chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh lâu dài.
Ngày 11 tháng 7, Đại Đô đốc Erich Raeder, tổng tư lệnh Hải quân Đức Quốc xã (Kriegsmarine), đã nói với Hitler rằng một cuộc xâm lược chỉ có thể tính đến như một phương sách cuối cùng, và chỉ khi có ưu thế tuyệt đối trên không. Hải quân Đức gần như bị tê liệt sau chiến dịch Na Uy, với rất nhiều tàu thuyền bị đánh đắm hay hư hỏng, trong khi Hải quân Hoàng gia Anh vẫn còn hơn 50 tàu khu trục, 21 tàu tuần dương và 8 tàu chiến thuộc Hạm đội Nhà của Anh. Lực lượng hải quân suy yếu của Đức có rất ít cơ hội ngăn cản sự can thiệp của Hải quân Anh. Lựa chọn duy nhất là sử dụng các máy bay ném bom bổ nhào và máy bay phóng ngư lôi của không quân Đức để giành lấy ưu thế trên không nhằm tiến hành chiến dịch có hiệu quả.
Ngày 16 tháng 7, dù đã đồng ý với Raeder, Hitler vẫn ra lệnh chuẩn bị một kế hoạch xâm lược nước Anh; ông ta hy vọng những thông tin về sự chuẩn bị này sẽ uy hiếp được người Anh tiến hành đàm phán hòa bình. Trích "Chỉ thị số 16; Về việc chuẩn bị chiến dịch đổ bộ chống Anh":
Do nước Anh, bất chấp tình thế quân sự tuyệt vọng của mình, vẫn không có dấu hiệu chuẩn bị cho đàm phán, tôi quyết định chuẩn bị một chiến dịch đổ bộ chống lại Anh và, nếu cần thiết, sẽ tiến hành nó. Mục tiêu của chiến dịch này là loại bỏ chính quốc Anh như một căn cứ cho cuộc chiến tranh tiếp diễn chống lại nước Đức...
2) Trong những chuẩn bị này có việc đem lại những điều kiện tiên quyết mà giúp cho cuộc đổ bộ lên đất Anh trở nên khả thi;
a) _Không lực Anh phải bị hạ gục cả về phương diện tinh thần lẫn thực tế sao cho nó không thể tập hợp sức mạnh để tiến hành cuộc tấn công đáng kể nào chống lại Đức._ (phần in nghiêng được thêm vào)Toàn bộ công cuộc chuẩn bị phải được thực hiện cho đến giữa tháng 8.
Về vấn đề bảo mật, chỉ thị này chỉ được ban hành cho cấp Tổng tư lệnh, nhưng Hermann Göring đã chuyển nó cho các viên tư lệnh tập đoàn quân không quân của Luftwaffe bằng thông điệp radio mã hóa, và đã bị người Anh bắt sóng và giải mã thành công tại khu Hut 6 thuộc Công viên Bletchley.
Hải quân Đức Kriegsmarine đã xây dựng một kế hoạch dự thảo để đánh chiếm một mũi đất hẹp trên bờ biển gần Dover, nhưng ngày 28 tháng 7 lục quân trả lời rằng họ muốn đổ bộ lên toàn bộ bờ biển phía Nam nước Anh. Hitler đã tổ chức một cuộc họp giữa các chỉ huy lục quân và hải quân ngày 31 tháng 7 tại dinh thự Berghof của mình, và đến ngày 1 tháng 8, OKW (Oberkommando der Wehrmacht - "Bộ tự lệnh Tối cao Các Lực lượng Vũ trang") đã đưa ra kế hoạch của mình. Kế hoạch này, mang mật danh Unternehmen Seelöwe ("chiến dịch Sư tử biển"), đã được Bộ tư lệnh Tối cao Các lực lượng Vũ trang Đức - Oberkommando der Wehrmacht hay OKW - đệ trình và ấn định thời gian vào giữa tháng 9 năm 1940. Kế hoạch này nhằm tiến hành các cuộc đổ bộ tại bờ biển phía nam nước Anh, với sự hỗ trợ của một cuộc tấn công không vận. Cả Hitler lẫn OKW đều tin rằng không thể thực hiện cuộc đổ bộ thành công lên đất Anh cho đến khi lực lượng Không quân Hoàng gia Anh (RAF) bị vô hiệu hóa. Raeder tin rằng lợi thế về không quân có thể đem lại khả năng đổ bộ thắng lợi mặc dù đó sẽ là một chiến dịch mạo hiểm, và yêu cầu phải có "ưu thế tuyệt đối trên Eo biển của không lực chúng ta".
Ngược lại, Đại Đô đốc Karl Dönitz tin rằng chỉ ưu thế về không quân là "không đủ". Ông tuyên bố rằng "chúng ta không có được quyền kiểm soát trên không hay trên biển; cũng không có điều kiện để giành được nó". Một số sử gia, như Derek Robinson, đã đồng ý với Dönitz. Robinson chỉ ra rằng hải quân Anh lúc bấy giờ mạnh hơn hải quân Đức rất nhiều, sẽ khiến cho chiến dịch Sư tử biển trở thành một thảm họa và Luftwaffe không thể ngăn chặn được sự can thiệp có tính quyết định của các chiến hạm Anh, ngay cả khi có được ưu thế trên không. Williamson Murray cũng cho rằng nhiệm vụ mà quân Đức phải đối mặt trong mùa hè năm 1940 là vượt quá khả năng của họ. Ba quân chủng của Đức đều không đủ sức giải quyết những vấn đề của cuộc xâm chiếm quần đảo Anh. Murray lập luận rằng hải quân Đức đã bị loại khỏi vòng chiến một cách có hiệu quả do những thiệt hại nặng nề trong chiến dịch Na Uy. Ông phát biểu rằng khả năng của Kriegsmarine và Luftwaffe trong việc ngăn cản Hải quân Hoàng gia Anh tấn công hạm đội tàu xâm lược là rất đáng nghi ngờ.
Luftwaffe không có đại diện tại Berghof, nhưng Göring đã tự tin rằng chiến thắng trên không là điều hoàn toàn có thể. Giống như nhiều viên tư lệnh không quân khác, kể cả của RAF, ông ta bị thuyết phục bởi quan điểm của Giulio Douhet rằng "Máy bay ném bom sẽ luôn luôn vượt qua" và nếu các cuộc tấn công vào những mục tiêu quân sự bị thất bại, việc ném bom dân thường có thể buộc chính phủ Anh phải đầu hàng.
Lực lượng hai bên
Không quân Đức đã phải đối mặt với một đối thủ mạnh nhất mà họ từng phải đối mặt, cả về quy mô, khả năng phối hợp cao, được cung cấp tốt, và tính hiện đại.
Máy bay tiêm kích
nhỏ|phải|Máy bay [[Messerschmitt Bf 109E-4.]] Những chiếc Messerschmitt Bf 109E và Bf 110C của không quân Đức đối đầu với máy bay Hurricane Mk I và một số lượng ít hơn các máy bay Spitfire Mk I của Anh. Loại máy bay Bf 109E có tốc độ lên cao tốt hơn và nhanh hơn từ 16 đến 48 km/h so với Hurricane Mk II, tùy thuộc vào độ cao. Trong mùa xuân và mùa hè năm 1940, các máy bay tiêm kích của RAF đã có lợi thế khi lượng nhiên liệu Octan 100 sẵn có tăng lên, cho phép các động cơ Merlin tạo ra nhiều hơn đáng kể năng lượng thông qua việc sử dụng một Năng lượng Chiến tranh Khẩn cấp. Trong tháng 9 năm 1940, những chiếc Hurricane Mk IIa loại 1 đã bắt đầu đi vào phục vụ dù chỉ với số lượng nhỏ. Phiên bản này có thể đạt tốc độ tối đa 550 km/h, nhanh hơn so với phiên bản Mk I khoảng từ 40 đến 48 km/h.
Thành tích của các máy bay Spitfire trong cuộc sơ tán tại Dunkirk đã khiến cho lực lượng tiêm kích của Luftwaffe (Jagdwaffe) phải bất ngờ, dù các phi công Đức vẫn tin chắc rằng Bf 109 là loại máy bay tiêm kích ưu việt. Tuy nhiên, những chiếc Bf 109E có vòng hồi chuyển lớn hơn nhiều so với cả Hurricane lẫn Spitfire, động cơ phun nhiên liệu của nó cho phép vượt thoát khỏi đối phương tấn công dễ dàng hơn so với các máy bay sử dụng bộ chế hòa khí của Anh. Cả hai loại tiêm kích của Anh đều được trang bị 8 súng máy Browning 303 (7,7 li), còn hầu hết máy bay Bf 109E có 2 súng máy 7,92 li và thêm 2 pháo cánh 20 li. Súng của Đức tỏ ra hiệu quả hơn so với loại Browning 303 của Anh, vốn chỉ phù hợp cho thời kỳ đầu của kỷ nguyên không chiến. Có rất nhiều máy bay Đức trở lại căn cứ khi đã bị trúng nhiều phát đạn từ súng Browning 303 mà vẫn không bị phá hủy. Bf 109E và Spitfire chiếm ưu thế lẫn nhau trong các khía cạnh chủ chốt; thí dụ, với một số độ cao, loại Bf 109 có thể vượt lên trên các tiêm kích Anh. Tuy vậy, nhìn chung, như Alfred Price đã viết trong Câu chuyện Spitfire (The Spitfire Story):
Máy bay Bf 109 còn được sử dụng làm kiểu mẫu máy bay tiêm kích-ném bom hỗn hợp E-4/B và E-7, có thể mang một quả bom 250 kg bên dưới thân máy bay. Máy bay Bf 109, không giống như loại Stuka, có thể chiến đấu trong cùng điều kiện với các tiêm kích của RAF, sau khi đã thả hết cơ số bom của nó.
Vào thời điểm bắt đầu cuộc chiến, máy bay Messerschmitt Bf 110 hai động cơ tầm xa Zerstörer ("Khu trục") cũng được huy động để tiến hành các cuộc giao tranh không đối không trong khi hộ tống hạm đội ném bom của Luftwaffe. Mặc dù Bf 110 nhanh hơn Hurricane và gần đuổi kịp Spitfire, nó vẫn thiếu tính linh hoạt và gia tốc để đóng vai trò một máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa. Trong các ngày 13 và 15 tháng 8, 13 và 30 máy bay này đã bị mất, tương đương một Nhóm (Gruppe) đầy đủ, và là loại máy bay bị thiệt hại nhiều nhất trong chiến dịch. Chiều hướng này vẫn tiếp tục với thêm 8 và 15 chiếc bị mất trong các ngày 16 và 17 tháng 8. Göring đã ra lệnh cho các đơn vị Bf 110 phải hoạt động "tại những nơi mà tầm bay của các cỗ máy một động cơ không thể với tới".
Đóng vai trò thành công nhất trong các loại Bf 110 của trận này là Schnellbomber (máy bay ném bom nhanh). Bf 110 thường dùng đòn bổ nhào thấp để oanh tạc mục tiêu rồi tẩu thoát bằng tốc độ cao. Một đơn vị, Erprobungsgruppe 210, đã cho thấy rằng Bf 110 có thể đạt hiệu quả đối với các mục tiêu nhỏ hay đòi hỏi sự chính xác cao.
Máy bay Boulton Paul Defiant của RAF có được một số thành công ban đầu tại Dunkirk do giống với Hurricane; các máy bay tiêm kích của Luftwaffe tấn công từ sau lưng đã bị bất ngờ trước những tháp súng hiếm có của nó. Thế nhưng, trong Trận chiến nước Anh, loại máy bay một động cơ hai chỗ ngồi này tỏ ra bị lép vế một cách vô vọng. Do nhiều nguyên nhân, Defiant không có bất kỳ hình thức vũ khí nào bắn về phía trước và pháo hạng nặng cũng như phi công lái phụ, có nghĩa là nó không thể vượt qua về tốc độ và tính cơ động so với cả Bf 109 lẫn Bf 110. Đến cuối tháng 8, sau những thiệt hại khủng khiếp, loại máy bay này đã được rút khỏi các công tác ban ngày.
Đã có những lời chỉ trích quyết định tiếp tục sử dụng các máy bay này (cùng với Fairey Battle thuộc Bộ tư lệnh Ném bom RAF) thay vì cho ngừng hoạt động và thải hồi chúng, để cho các động cơ Merlin của chúng chuyển sang máy bay tiêm kích và các phi công được tái đào tạo trên những chiếc Hurricane, nhờ đó giải phóng được một số lượng lớn các phi công Hurricane có thâm niên và nhiều kinh nghiệm chiến đấu sang cho loại máy bay Spitfire.
Các đội hình tiêm kích
nhỏ|trái|Hình ảnh trong đoạn phim quay từ máy bay cho thấy đường đạn từ một chiếc Supermarine Spitfire Mark I thuộc đội bay số 609 của RAF, do J. H. G. McArthur lái, bắn trúng mạn phải một máy bay [[Heinkel He 111, ngày 25 tháng 9 năm 1940.]]
Cuối thập niên 1930, Bộ tư lệnh Tiêm kích dự tính rằng sẽ chỉ phải đối phó với các máy bay ném bom trên không phận Anh quốc, chứ không xét đến các máy bay tiêm kích một động cơ. Theo tư duy đó, một loạt các "chiến thuật chiến đấu khu vực" đã được xây dựng và tuân thủ một cách cứng nhắc, dẫn đến một chuỗi những cuộc diễn tập nhằm tập trung hỏa lực của một đội bay để bắn hạ các máy bay ném bom: không có mối lo rõ rệt nào về các máy bay tiêm kích hộ tống, các phi công tiêm kích của RAF bay theo những đội hình 3 máy bay theo hình chữ V chặt chẽ. Điều này hạn chế các đội bay trong các cơ cấu 12 máy bay gồm 4 đội bay theo các chữ "V" khác nhau. Với kiểu cơ cấu này, chỉ có chỉ huy đội bay ở phía trước là có thể tự do quan sát đối phương; những phi công khác phải tập trung chú ý để giữ đúng đội hình. Các bài tập luyện của máy bay tiêm kích của RAF cũng nhấn mạnh vào việc tấn công theo lý thuyết bằng cách tách rời ra theo thứ tự. Bộ tư lệnh Tiêm kích đã sớm nhận ra điểm yếu của cấu trúc xơ cứng này trong cuộc chiến, nhưng họ thấy rằng quá mạo hiểm khi thay đổi chiến thuật giữa chừng, do những phi công thay thế – thường chỉ có thời gian bay tối thiểu – không thể dễ dàng mà huấn luyện lại, và những phi công RAF không có kinh nghiệm cần có sự điều khiển vững vàng ở trên không mà chỉ có những cơ cấu xơ cứng mới đem lại được. Phi công Đức đã đặt tên đội hình của RAF là Idiotenreihen ("những dãy hàng ngu ngốc") vì các đội bay của họ ở vào tư thế rất dễ bị tổn thương khi tấn công.
Ngược lại, Luftwaffe triển khai một đội bay lỏng lẻo với 2 máy bay (biệt hiệu là Rotte), dựa vào một người hướng dẫn (Rottenführer) theo sau với khoảng cách khoảng 183 mét bằng máy bay yểm trợ (biệt hiệu Rottenhund hay Katschmareks) mà bay hơi cao hơn và được huấn luyện để luôn luôn bay cùng với người hướng dẫn của mình. Trong khi hướng dẫn viên tự do săn tìm máy bay đối phương, và có thể che phủ "vùng mù" của máy bay yểm trợ, thì máy bay yểm trợ có thể tập trung vào việc theo dõi khoảng không nằm trong vùng mù của người hướng dẫn, ở phía sau và bên dưới. Máy bay tấn công có thể bị kẹp giữa 2 chiếc Bf 109. Đội hình này được phát triển dựa trên những nguyên tắc được công thức hóa bởi viên phi công xuất sắc thời chiến tranh thế giới thứ nhất là Oswald Boelcke vào năm 1916. Từ năm 1934, Không lực Phần Lan đã triển khai những đội hình tương tự, gọi là partio (1 đội tuần tra; 2 máy bay) và parvi (2 đội tuần tra; 4 máy bay) vì những lý do tương tự, tuy vậy những phi công của Luftwaffe (tiêu biểu là Günther Lützow và Werner Mölders trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha) nói chung vẫn được biết đến nhiều hơn.
Trong các đội hình của Luftwaffe, các cặp máy bay cho phép Rottenführer tập trung vào nhiệm vụ tiêu diệt đối phương. Tuy nhiên, khía cạnh thứ hai này đã gây nên một số bất bình trong hàng ngũ sĩ quan cấp thấp vì họ cảm thấy rằng thành tích cao của một số Rottenführer phải trả giá bằng sự hy sinh của các Katschmareks. Trong Trận chiến nước Anh, một phi công bắn hạ được 20 máy bay sẽ được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Kỵ sĩ (Ritterkreuz), gắn thêm Lá sồi, Thanh gươm và Kim cương cho mỗi 20 máy bay thêm sau đó. Những phi công mà tỏ ra khao khát có được phần thưởng này bị nói là đang bị viêm họng (Halsweh), một sự ám chỉ có tính quy ước về việc đeo huân chương ở cổ. Chỉ một số ít máy bay yểm trợ trong đội hình tiêm kích của Luftwaffe có thể bắn hạ máy bay đối phương, trong khi những máy bay hướng dẫn thì ghi điểm rất cao.
Hai trong số những đội hình bay này thường được hợp thành một Schwarm (phi đội), trong đó toàn bộ các phi công có thể quan sát được những gì diễn ra xung quanh họ. Mỗi Schwarm trong một Staffel (phi đoàn) bay ở những độ cao thay đổi và cách nhau 183 mét, tạo nên đội hình khó phát hiện ở khoảng cách xa hơn và cho phép họ có tính linh hoạt rất lớn. Những đội hình đáng chú ý này thường thành công trong việc thu hút các máy bay tiêm kích của RAF mà thỉnh thoảng vẫn bị các máy bay Bf 109 bay cao "dồn ép". Điều này đã dẫn đến câu chuyện thêu dệt được nhắc đi nhắc lại rằng các máy bay Bf 110 được hộ tống bởi máy bay Bf 109. Phương pháp tấn công thành công nhất của máy bay Bf 110 là "dồn ép" từ phía trên.
Các phi công mặt trận của RAF đã nhận thức được sâu sắc về những khiếm khuyết cố hữu trong chiến thuật của mình. Một sự thỏa hiệp đã được thông qua, theo đó các đội bay sẽ sử dụng những đội hình bay lỏng lẻo hơn nhiều với 1 hoặc 2 máy bay bay ngay phía trên và phía dưới để tăng cường khả năng quan sát cũng bảo vệ sau lưng; vị trí này dành cho những người có ít kinh nghiệm nhất, và thường bị bắn hạ đầu tiên trong khi các phi công khác thậm chí còn không thấy họ bị tấn công. Trong cuộc chiến này, đội bay số 74 của RAF dưới quyền chỉ huy của Adolph Malan đã áp dụng một biến thể của đội hình máy bay Đức với "bốn máy bay ở tuyến sau", là một cải tiến lớn so với đội hình chữ V 3 máy bay cũ. Đội hình của Malan sau này đã được Bộ tư lệnh Tiêm kích sử dụng rộng rãi.
Máy bay ném bom
phải|nhỏ|Bức ảnh tuyên truyền của Đức cho thấy một máy bay Spitfire I bay rất gần một chiếc Dornier 17Z. Bốn loại máy bay ném bom chính của Luftwaffe là Heinkel He 111, Dornier Do 17, Junkers Ju 88 cho đòn ném bom rải thảm, và Junkers Ju 87 Stuka với kiểu tấn công bổ nhào. Máy bay Heinkel He 111 được sử dụng với số lượng lớn hơn các loại khác và được biết đến nhiều hơn, một phần là do hình dạng cánh khác biệt của nó. Mỗi loại máy bay ném bom rải thảm đều có một số ít được dùng làm công tác do thám trong trận chiến.
Mặc dù rất thành công trong các cuộc chiến trước đó của Luftwaffe, máy bay Stuka đã phải chịu những thiệt hại nặng nề trong Trận chiến nước Anh, đặc biệt là vào ngày 18 tháng 8, do tốc độ chậm và dễ bị máy bay tiêm kích chặn đánh sau khi thực hiện đòn ném bom bổ nhào. Do những thiệt hại cũng như giới hạn về trọng tải và tầm bay, các đơn vị Stuka phần lớn đã bị rút ra khỏi các hoạt động trên bầu trời Anh quốc và tập trung vào việc vận tải cho đến khi được tái triển khai tại Mặt trận phía Đông năm 1941. Chúng chỉ trở lại vào một số dịp, như cuộc tấn công ngày 13 tháng 9 tại sân bay Tangmere.
Ba loại máy bay ném bom còn lại có khác biệt về khả năng; máy bay Heinkel 111 là loại chậm nhất; Ju 88, một khi đã thả hết tải trọng bom chính của nó, là loại nhanh nhất, và Do 17 có tải trọng bom nhỏ nhất. Cuối cuộc chiến, khi mà việc ném bom ban đêm trở nên thường xuyên hơn, cả ba loại máy bay này đều được sử dụng. Tuy nhiên, do tải trọng bom hạn chế nên Do 17 ít được dùng đến hơn He 111 và Ju 88 cho nhiệm vụ này.
Về phía Anh, ba loại máy bay ném bom được sử dụng chủ yếu trong các hoạt động ban đêm nhằm chống lại các mục tiêu như nhà máy, các bến cảng địch và trung tâm đường xe lửa là Armstrong Whitworth Whitley, Handley-Page Hampden và Vickers Wellington được RAF phân vào loại máy bay ném bom hạng nặng, mặc dù máy bay Hampden là máy bay ném bom hạng trung tương tự như He 111. Cả máy bay hai động cơ Bristol Blenheim lẫn máy bay một động cơ kiểu cũ Fairey Battle đều là máy bay ném bom hạng nhẹ; máy bay Blenheim là loại được trang bị nhiều nhất cho Bộ tư lệnh Ném bom RAF và được dùng để tấn công các tàu thuyền, bến cảng, sân bay và nhà máy trên lục địa cả ngày lẫn đêm. Các đội bay Fairey Battle, vốn đã chịu những thiệt hại nặng nề trong những công tác ban ngày trong Trận chiến nước Pháp, được bổ sung lực lượng bằng các máy bay dự bị và tiếp tục hoạt động trong các cuộc tấn công đêm tại các bến cảng của đối phương cho đến khi bị rút khỏi mặt trận Anh Quốc vào tháng 10 năm 1940.
Phi công
Trước chiến tranh, quá trình lựa chọn những ứng viên tiềm năng của RAF quan tâm nhiều về địa vị xã hội hơn là năng lực thực tế. Nhưng đến năm 1936, RAF đã cho tiến hành những biện pháp nhằm lựa chọn ra những ứng viên tiềm năng từ đủ mọi tầng lớp xã hội qua Lực lượng Dự bị Tình nguyện của RAF vốn "...được thiết kế để lôi cuốn, tới...những người trẻ tuổi...không phân biệt tầng lớp..." Tuy các đội bay cũ của Không lực Phụ trợ Hoàng gia Anh vẫn giữ lại một số đặc quyền của tầng lớp trên Cho đến mùa hè năm 1940, đã có khoảng 9.000 phi công trực thuộc RAF với xấp xỉ 5.000 máy bay, hầu hết là máy bay ném bom. Bộ tư lệnh Tiêm kích không hề thiếu phi công, tuy nhiên, vấn đề thiếu hụt các phi công tiêm kích đã qua huấn luyện toàn diện vẫn diễn ra, do sự thiếu hiệu quả của công tác huấn luyện và phân công, và vấn đề này đã trở nên hóc búa cho đến giữa tháng 8 năm 1940.
Trong toàn cuộc chiến, các phi công trẻ "hầu như chẳng có chút cơ hội nào" để sống sót trong 5 lần xuất kích đầu tiên, không chỉ vì thiếu kinh nghiệm chiến đấu mà còn do họ phải nhận lái các máy bay hỏng hóc nhiều nhất và ít đáng tin cậy nhất, chưa kể họ chỉ phù hợp với vị trí xạ thủ ở đuôi máy bay trong đội hình và như thế rất dễ bị tổn thương. Đối với những người sống sót, tỉ lệ sống sót tăng thêm 15 phi vụ tiếp theo cùng với kĩ năng và sự tự tin của họ. Tuy nhiên, sau 20 phi vụ thì tỉ lệ đó lại một lần nữa tụt xuống bằng 0.
Trong khi sản lượng máy bay là 300 chiếc mỗi tuần, thì chỉ có 200 phi công được đào tạo trong cùng khoảng thời gian đó. Bù lại, số phi công được phân phối cho các đội bay nhiều hơn số máy bay hiện có, cho phép các đội bay duy trì sức mạnh tác chiến cho dù có bị thương vong và vẫn có thể cho phi công nghỉ phép. Một vấn đề khác là chỉ có khoảng 30% trong số 9.000 phi công được điều về các đội bay tác chiến; 20% số phi công được tham gia vào khóa huấn luyện phi công chỉ huy, và thêm 20% trải qua khóa huấn luyện nâng cao, giống như những phi công RAF đến từ Canada và Nam Rhodesia trong số những phi công thuộc Khối thịnh vượng chung Anh, mặc dù đã đủ năng lực chuyên môn. Phần còn lại được xếp vào các vị trí tham mưu, do chính sách của RAF quy định rằng chỉ các phi công mới có khả năng tham mưu và ra quyết định chỉ huy tác chiến, ngay cả với những vấn đề kỹ thuật. Vào đỉnh điểm của cuộc chiến, mặc dù Churchill ra sức vận động, nhưng chỉ có 30 phi công được giải phóng khỏi nhiệm vụ hành chính để đưa ra tiền tuyến.
Vì những nguyên nhân này, cũng như vì tổn thất 435 phi công trong Trận chiến nước Pháp và những thiệt hại khác trong chiến dịch Na Uy, RAF có ít phi công có kinh nghiệm chiến đấu hơn Đức vào đầu cuộc chiến, và thiếu thốn những phi công đã qua huấn luyện trong những đội bay chiến đấu, hơn là thiếu máy bay, điều này trở thành mối quan tâm lớn nhất của Thống chế Không quân Hugh Dowding, tư lệnh Bộ tư lệnh Tiêm kích. Lấy từ lực lượng chính quy của RAF, Không lực Phụ trợ Hoàng gia và lực lượng dự bị tình nguyện, người Anh đã tập hợp được 1.103 phi công tiêm kích vào ngày 1 tháng 7. Các phi công thay thế ít được đào tạo bay và thường không có huấn luyện tác xạ, đã phải chịu tỉ lệ thương vong rất cao.
Nhờ công tác đào tạo hiệu quả hơn, Luftwaffe có thể tập hợp được một số lượng lớn hơn (1.450) các phi công tiêm kích nhiều kinh nghiệm. Các khóa huấn luyện của Luftwaffe cũng ngăn cấm chủ nghĩa anh hùng, nhấn mạnh tầm quan trọng tuyệt đối của việc chỉ tấn công khi nào phi công có được lợi thế. Thế nhưng các đội hình tiêm kích của Lufwaffe không có được lực lượng phi công dự bị đầy đủ để cho phép bù đắp các thiệt hại Trong đó bao gồm 145 người Ba Lan, 127 người New Zealand, 112 người Canada, 88 người Tiệp Khắc, 28 người Bỉ, 32 người Úc, 25 người Nam Phi, 13 người Pháp, 10 người Ireland, 7 người Mỹ, và Jamaica, Palestine, Nam Rhodesia mỗi nơi thêm 1 người.
Phe Trục
Có một bộ phận Không lực Hoàng gia Ý (Regia Aeronautica) gọi là Quân đoàn Không quân Ý (Corpo Aereo Italiano hay CAI) lần đầu tiên hoạt động vào cuối tháng 10 năm 1940. Nó đã tham gia vào giai đoạn sau của cuộc chiến, nhưng chỉ thu được những kết quả hạn chế. Đơn vị này đã được tái triển khai vào đầu năm 1941.
Chiến lược của Không quân Đức
Không quân Đức trước giờ vốn được sử dụng để tiến hành hỗ trợ về chiến thuật cho lục quân trên chiến trường. Trong các chiến dịch chiến tranh chớp nhoáng ở Ba Lan, Đan Mạch và Na Uy hay tại Pháp, Hà Lan và Bỉ, Luftwaffe đã có được sự phối hợp hoàn hảo với Wehrmacht. Thế nhưng trong Trận chiến nước Anh, Luftwaffe lại phải đóng một vai trò chiến lược vốn không phù hợp. Nhiệm vụ chính của không quân Đức là phải đảm bảo ưu thế trên không ở miền đông nam Anh, mở đường cho hạm đội tiến hành xâm lược.
Luftwaffe đã được tái tổ chức sau Trận chiến nước Pháp thành 3 Tập đoàn quân Không quân (Luftflotte) tại hai mặt trận miền nam và miền bắc nước Anh. Tập đoàn quân Không quân số 2, do Thống chế Albert Kesselring chỉ huy, chịu trách nhiệm oanh tạc miền đông nam Anh và khu vực London. Tập đoàn quân Không quân số 3 dưới quyền thống chế Hugo Sperrle nhằm vào miền Tây Nam (West Country), xứ Wales, miền trung (Midlands) và tây bắc xứ Anh. Tập đoàn quân Không quân số 5 của thượng tướng Hans-Jürgen Stumpff đặt tổng hành dinh tại Na Uy có mục tiêu là miền bắc xứ Anh và Scotland. Khi cuộc chiến leo thang, phân công mục tiêu có thay đổi, Tập đoàn quân Không quân số 3 phụ trách thêm việc oanh tạc ban đêm trong khi nhiệm vụ chiến đấu ban ngày chuyển bớt sang cho Tập đoàn quân Không quân số 2.
Ban đầu Không quân Đức ước tính rằng cần 4 ngày để đánh bại Bộ tư lệnh Tiêm kích RAF ở miền nam nước Anh. Sau đó là cuộc tấn công kéo dài 4 tuần lễ với các máy bay ném bom và máy bay tiêm kích tầm xa sẽ phá hủy toàn bộ cơ sở quân sự và tàn phá nền công nghiệp máy bay của Anh quốc. Chiến dịch này được lên kế hoạch sẽ bắt đầu bằng đòn tấn công vào các sân bay gần bờ biển, rồi dần dần tiến sâu vào nội địa để tấn công vành đai các sân bay bảo vệ London. Sau đó Luftwaffe đánh giá lại là phải mất 5 tuần lễ từ ngày 8 tháng 8 đến 15 tháng 9 để thiết lập ưu thế trên không tạm thời tại Anh. Để đạt được mục tiêu này, Bộ tư lệnh Tiêm kích phải bị tiêu diệt, cả trên không lẫn trên bộ, trong khi Không quân Đức vẫn phải được bảo toàn sức mạnh để có thể hỗ trợ cuộc tấn công sau đó; có nghĩa là Luftwaffe cần phải duy trì một "tỷ lệ tiêu diệt" cao trước các tiêm kích của RAF. Lựa chọn duy nhất để đạt ưu thế trên không là một chiến dịch ném bom khủng bố nhằm vào thường dân, nhưng nó chỉ được coi là một phương sách cuối cùng và đã bị Hitler tuyệt đối ngăn cấm trong giai đoạn này của cuộc chiến. Ông ta đôi khi dường như bị ám ảnh về việc duy trì quyền lực các nhân của mình trong Luftwaffe và giữ mãi một niềm tin đã lỗi thời về không chiến, mà sau này đã dẫn đến những sai lầm về chiến thuật và chiến lược.
Chiến thuật
nhỏ|phải|[[Messerschmitt Bf 109E]] Chiến thuật của Luftwaffe chịu ảnh hưởng từ các máy bay tiêm kích của họ. Máy bay Bf 110 tỏ ra rất dễ bị tổn thương trước những chiếc tiêm kích một động cơ nhanh nhẹn của RAF. Điều này có nghĩa là phần lớn nhiệm vụ hộ tống của máy bay tiêm kích được dành cho loại Bf 109. Các chiến thuật tiêm kích gặp rắc rối khi các phi hành đoàn ném bom đòi hỏi sự bảo vệ chặt chẽ hơn. Sau những trận đánh ác liệt trong các ngày 15 và 18 tháng 8, Göring đã có cuộc gặp với chỉ huy các đơn vị. Cuộc họp này đã nhấn mạnh sự cần thiết phải cho các máy bay tiêm kích hội ngộ kịp thời với các máy bay ném bom. Nó cũng quyết định là một Nhóm (Gruppe) ném bom chỉ được bảo vệ đầy đủ khi có nhiều Nhóm máy bay Bf 109 hộ tống. Ngoài ra Göring đã quy định rằng cần có càng nhiều máy bay tiêm kích còn rảnh tay càng tốt để thực hiện nhiệm vụ Freie Jagd ("Săn tự do") - một "đòn quét tiêm kích" lưu động đi trước nhằm cố gắng đánh tan quân phòng thủ dọn đường cho cuộc tấn công chính. Các đơn vị Ju 87, vốn đã chịu những tổn thất nặng nề, sẽ chỉ được huy động trong điều kiện thuận lợi. Vào đầu tháng 9, do các phi hành đoàn ném bom không ngừng khiếu nại rằng các máy bay tiêm kích của RAF dường như có thể xuyên qua các vòng hộ tống, Göring đã ra lệnh tăng cường chặt chẽ hơn nhiệm vụ hộ tống. Quyết định này đã ràng buộc nhiều máy bay Bf 109 với các máy bay ném bom, và, mặc dù thành công hơn trong việc bảo vệ lực lượng ném bom, thiệt hại về máy bay tiêm kích tính ra lại chiếm phần lớn vì chúng buộc phải bay và tác chiến với tốc độ hạn chế.
Luftwaffe đã liên tục thay đổi chiến thuật trong nỗ lực nhằm chọc thủng tuyến phòng thủ của RAF. Họ đã tung ra rất nhiều đội máy bay Freie Jagd để thu hút các tiêm kích của RAF. Thế nhưng các nhà quản lý tiêm kích RAF thường vẫn có thể phát hiện ra điều đó cũng như vị trí của các đội bay để tránh chúng, theo đúng kế hoạch của Dowding là bảo toàn sức mạnh tiêm kích cho những đội hình máy bay ném bom. Luftwaffe cũng đã thử sử dụng các đội hình ném bom nhỏ làm mồi, và bảo vệ chúng bằng một lượng nhỏ máy bay hộ tống. Chiến thuật này có thành công hơn, nhưng nhiệm vụ hộ tống buộc các máy bay tiêm kích phải bay với tốc độ chậm của máy bay ném bom khiến chúng gặp nhiều nguy hiểm hơn.
Đến tháng 9, những chiến thuật đột kích tiêu chuẩn đã được kết hợp lại để trở thành một phương pháp hỗn hợp. Một chiếc Freie Jagd sẽ đi trước đội hình tấn công chính. Các máy bay ném bom sẽ bay ở độ cao từ 4.900 đến 6.100 mét, được hộ tống chặt chẽ bởi các máy bay tiêm kích. Máy bay hộ tống được chia làm hai phần (thường gọi là Nhóm - Gruppen), một số hoạt động chặt chẽ với máy bay ném bom, số khác bay cách vài trăm thước và cao hơn một chút. Nếu đội hình bị tấn công từ bên phải, cánh phải sẽ giao chiến với quân tấn công, phần đầu sẽ di chuyển sang bên phải và cánh trái sẽ chuyển lên vị trí đầu. Nếu bị tấn công vào mạn trái thì hệ thống phản ứng ngược lại. Các tiêm kích Anh đến từ phía sau sẽ bị chặn đánh bởi bộ phận sau lưng và hai cánh bên ngoài sẽ cùng di chuyển ra phía sau. Nếu mối đe dọa đến từ bên trên, phần đầu sẽ ứng chiến trong khi hai cánh lấy độ cao để có thể đuổi theo các tiêm kích Anh khi chúng bỏ đi. Khi bị tấn công, tất cả các bộ phận sẽ bay theo những vòng tròn phòng thủ. Chiến thuật này đã được khéo léo gây dựng và tiến hành, và rất khó để chống lại.
Adolf Galland, viên chỉ huy thành công của phi đội 3, Không đoàn Tiêm kích 26 của Đức. Adolf Galland cho rằng:
Bất lợi lớn nhất mà các phi công Bf 109 phải đối mặt là nếu không có các thùng nhiên liệu phụ trợ tầm xa (chỉ được sử dụng với số lượng hạn chế vào thời kỳ cuối của cuộc chiến), thường có dung lượng 300 lít, máy bay Bf 109 chỉ có thể bay trong vòng 1 tiếng đồng hồ, và, với loại 109E, trong một giới hạn 600 km. Một khi đã vào không phận Anh, một phi công Bf 109 cần phải để mắt chú ý đến đèn hiệu màu đỏ báo hết nhiên liệu trên bảng đồng hồ: khi nó đã bật sáng thì họ buộc phải quay đầu trở lại Pháp. Với hai lượt bay dài qua biển, và tầm bay xa bị giảm đáng kể khi hộ tống các máy bay ném bom hay phải chiến đấu, các phi công tiêm kích Đức (Jagdflieger) đã gọi đó là Kanalkrankheit ("Eo biển bệnh tật").
Tình báo
Luftwaffe đã hoạt động một cách kém hiệu quả do thiếu thông tin về hệ thống phòng thủ của Anh. Ngành tình báo Đức đã bị đối phương chia rẽ và ngăn cản; thể hiện của họ chỉ ở mức "nghiệp dư". Đến năm 1940, có rất ít tay sai của Đức hoạt động tại Anh và một số ít các nỗ lực nhằm cài gián điệp vào quốc gia này đã bị thất bại.
Nhờ việc chặn bắt tín hiệu radio, người Đức bắt đầu nhận ra rằng các máy bay tiêm kích của RAF đang được điều khiển bởi các phương tiện trên mặt đất, trong tháng 7 và tháng 8 năm 1939, ví dụ như khí cầu Graf Zeppelin, có mang theo trang thiết bị để nghe trộm tín hiệu radio và radar của RAF, bay gần bờ biển nước Anh. Mặc dù Luftwaffe hiểu đúng được những thủ tục kiểm soát mặt đất mới này, họ lại đánh giá sai lầm rằng nó cứng nhắc và không hiệu quả. Hệ thống radar của Anh được không quân Đức biết đến từ những thông tin tình báo thu thập được trước chiến tranh, nhưng "Hệ thống Dowding" phát triển cao kết nối với ban chỉ huy tiêm kích vẫn được giữ bí mật an toàn. Ngay cả khi có được thông tin tốt, như đánh giá tháng 11 năm 1939 của cơ quan tình báo quân sự Đức (Abwehr) về sức mạnh và khả năng của Bộ tư lệnh Tiêm kích của đơn vị Abteilung V, nó vẫn bị bỏ qua nếu không phù hợp với những dự kiến thông thường.
Ngày 16 tháng 7 năm 1940, đơn vị tình báo Abteilung V do trung tá "Beppo" Schmid chỉ huy đã trình một bản báo cáo về RAF và khả năng phòng thủ của Anh và được các tướng lĩnh mặt trận tiếp nhận làm nền tảng cho những kế hoạch tác chiến của họ. Một trong những khuyết điểm rõ rệt nhất của bản báo cáo là thiếu thông tin về hệ thống radar của RAF cũng như năng lực kiểm soát hệ thống của họ; nó cho rằng hệ thống này là cứng nhắc và không linh hoạt, khi mà các tiêm kích của RAF bị ràng buộc với những căn cứ ở trong nước. Một kết luận lạc quan đến mức sai lầm đã được đưa ra như sau:
Tuyên bố này, được củng cố thêm bởi một bản báo cáo khác chi tiết vào hơn ngày 10 tháng 8, đã tạo ra một tư duy trong các đội ngũ của Không quân Đức rằng RAF sẽ bị cạn kiệt máy bay tiêm kích ở tiền tuyến. Nhiều lần, giới lãnh đạo tin rằng sức chiến đấu của Bộ tư lệnh Tiêm kích đã sụp đổ, để rồi cuối cùng nhận ra rằng RAF vẫn có thể vực dậy hệ thống phòng thủ của mình theo ý muốn.
Trong suốt cuộc chiến này, Luftwaffe đã phải tiến hành rất nhiều phi vụ trinh sát để bù đắp cho sự yếu kém về mặt tình báo. Máy bay trinh sát (ban đầu hầu hết là loại Dornier Do 17, sau đó có thêm Bf 110) đã dễ dàng trở thành con mồi cho tiêm kích Anh, do chúng ít có khả năng được hộ tống bằng máy bay Bf 109. Thế là Luftwaffe phải tác chiến "mò mẫm" trong phần lớn cuộc chiến, không xác định được sức chiến đấu, khả năng và sự triển khai thực tế của đối phương. Nhiều sân bay của Bộ tư lệnh Tiêm kích đã không hề bị tấn công, thay vào đó các cuộc tập kích nhằm vào sân bay được giả định là tiêm kích lại rơi vào cơ sở của máy bay ném bom hoặc phòng thủ bờ biển. Kết quả của những cuộc ném bom và không chiến trước sau đều được thổi phồng, do những yêu sách quá hăng hái và khó khăn của việc xác thực thông tin trên lãnh thổ địch. Trong không khí thoải mái về chiến thấng đạt được, giới lãnh đạo Luftwaffe ngày càng trở nên xa rời thực tế. Việc thiếu hụt khả năng của lãnh đạo và tin tức tình báo vững chắc khiến cho người Đức không thể áp dụng một chiến lược nhất quán, ngay cả khi RAF rơi vào thế cùng đường. Hơn nữa, họ không hề đặt trọng điểm tấn công một có hệ thống vào một loại mục tiêu (như căn cứ không quân, trạm radar, hay nhà máy sản xuất máy bay), do đó những kết quả may mắn đạt được lại càng bị giảm bớt hơn nữa.
Hỗ trợ về hàng hải
Trong khi người Anh đang sử dụng hệ thống radar phòng không một cách hiệu quả hơn là người Đức có thể nhận ra, thì không quân Đức cũng đã cố gằng tận dụng ưu thế tấn công của mình với các hệ thống radio hàng hải tân tiến mà ban đầu Anh không phát hiện ra. Một trong số đó là hệ thống Knickebein ("chân cong"), được sử dụng vào ban đêm trong những cuộc đột kích cần độ chính xác cao. Nhưng hiếm khi nó được sử dụng trong Trận chiến nước Anh.
Giải cứu không-biển
Luftwaffe đã được chuẩn bị tốt hơn so với RAF về công tác giải cứu không-biển, với đơn vị Seenotdienst (quân chủng giải cứu biển) được trang bị thủy phi cơ Heinkel He 59 được đặc biệt giao nhiệm vụ cứu vớt những phi hành đoàn bị bắn rơi tại biển Bắc, biển Manche và eo biển Dover. Ngoài ra, các máy bay của Luftwaffe còn được trang bị xuồng cứu sinh và các phi hành đoàn có dự phòng thêm những gói hóa chất fluorescein mà khi phản ứng với nước sẽ tạo ra một mảng lớn màu xanh lá cây sáng dễ nhìn thấy.
Theo quy định của Công ước Genève, các máy bay He 59 không có trang bị vũ khí và phải sơn màu trắng với những ký hiệu đánh dấu đăng ký dân sự và chữ thập màu đỏ. Tuy vậy, máy bay của RAF vẫn tấn công các máy bay này, do đôi khi chúng vẫn được máy bay Bf 109 hộ tống.
Sau khi nhiều chiếc He 59 đi lẻ bị tiêm kích Anh ép phải hạ cánh xuống biển trong các ngày 1 và 9 tháng 7, một mệnh lệnh gây nhiều tranh cãi đã được ban hành đối với RAF vào ngày 13 tháng 7; quy định rằng từ ngày 20 tháng 7, các máy bay của đơn vị Seenotdienst phải bị bắn hạ. Một trong những lý do mà Churchill đưa ra là:
Bộ Hàng không đã chuyển một thông cáo đến chính phủ Đức vào ngày 14 tháng 7:
Những chiếc He 59 trắng chẳng mấy chốc đã được sơn lại thành màu ngụy trang và trang bị súng máy phòng thủ. Mặc dù sau đó có 4 chiếc He 59 khác đã bị máy bay RAF bắn hạ, đội Seenotdienst đã tiếp tục giải cứu các phi hành đoàn bị rơi của Luftwaffe và đồng minh của nó trong suốt cuộc chiến, và đã được Adolf Galland khen ngợi về lòng dũng cảm của họ.
Chiến lược của Không quân Anh
Hệ thống Dowding
Yếu tố quyết định trong việc phòng thủ nước Anh là hệ thống cơ sở hạ tầng liên hợp nhằm phát hiện, chỉ huy, và kiểm soát để điều khiển trận đánh. Đó là "Hệ thống Dowding", đặt theo tên người sáng tạo chủ yếu ra nó, Thống chế Không quân Hugh Dowding, người đứng đấu Bộ tư lệnh Tiêm kích RAF. Hệ thống này dựa trên nền tảng hệ thống phòng không độc đáo được thiếu tướng Edward Ashmore xây dựng nên từ năm 1917. Dowding đã kế thừa và hiện đại hóa nhiều tính năng mà Ashmore đã đi tiên phong, trong đó có việc sử dụng radio hai chiều và Quân đoàn Quan sát phòng không Hoàng gia (ROC). Tuy nhiên, phần cốt lõi của hệ thống Dowding là do chính Dowding thực hiện: việc sử dụng radar là theo chỉ thị của ông, và việc sử dụng nó, cùng với những thông tin hỗ trợ từ ROC, đã là điều mấu chốt đối với khả năng đánh chặn có hiệu quả các máy bay Đức đang tiến đến. Ông cũng kiên quyết cần phải có sự kết nối qua đường điện thoại (có dây dẫn được đặt sâu dưới lòng đất với lớp bảo vệ chống bom bằng bê tông) giữa những người điều khiển radar với trung tâm chỉ huy tác chiến: sở chỉ huy Bộ tư lệnh Tiêm kích đặt tại tu viện Bentley. Trong cuộc chiến này nhiều đơn vị thuộc Bộ tư lệnh Duyên hải và Binh chủng Không lực Hải quân đã được đặt dưới quyền của Bộ tư lệnh Tiêm kích.
Các đội nhóm
Không phận Anh quốc được chia thành 4 Nhóm: Nhóm 10 phòng thủ xứ Wales và vùng West Country do phó Đô đốc Không quân Sir Quintin Brand chỉ huy. Nhóm 11 bảo vệ miền đông nam xứ Anh và các hướng tiếp cận trọng yếu dẫn đến London do phó Đô đốc Không quân New Zealand Keith Park chỉ huy. Phòng tác chiến của Bộ tư lệnh Tiêm kích Nhóm 11 đóng tại một boongke ngầm ở RAF Uxbridge, là một trong các boongke Trận chiến nước Anh. Nhóm 12 phụ trách vùng Midlands và Đông Anglia do phó Đô đốc Không quân Trafford Leigh-Mallory chỉ huy. Nhóm 13 phòng thủ miền bắc xứ Anh, Scotland và Bắc Ireland do phó Đô đốc Không quân Richard Saul chỉ huy.
Hệ thống chỉ huy
nhỏ|Ranh giới bảo vệ hệ thống ra-đa Chain Home, các căn cứ và các nhóm không quân Anh Thông thường những dấu hiệu đầu tiên của một cuộc không kích sắp đến sẽ được các cơ sở radar Chain Home đặt tại bờ biển ghi nhận. Trong hầu hết các trường hợp, radar có thể bắt được đội hình máy bay của Luftwaffe ngay khi họ còn đang tiến hành tổ chức trên không phận các sân bay. Một khi các máy bay tấn công đã tiến vào nội địa Anh Quốc, thì những đội hình đó còn bị xác định bởi Quân đoàn Quan sát phòng không Hoàng gia. Thông tin từ radar và Quân đoàn Quan sát phòng không sẽ được chuyển qua cho các phòng tác chiến chính thuộc Tổng hành dinh Bộ tư lệnh Tiêm kích đặt tại tu viện Bentley. Các biểu đồ được lập ra để xác định xem các máy bay đó là "thù địch" hay "thân thiện". Nếu là thù địch, thông tin sẽ được chuyển đến "phòng tác chiến" chính, nằm trong một boongke lớn ngầm dưới đất.
Tại đây dòng thông tin về mỗi cuộc tấn công sẽ được WAAF (Không lực Phụ trợ của nữ) tính toán, họ nhận thông tin qua một hệ thống điện thoại. Tin tình báo còn được cung cấp thêm từ các trạm sóng của ban "Y", có nhiệm vụ theo dõi việc truyền tín hiệu radio của đối phương, và trung tâm giải mã "Ultra" đặt tại công viên Bletchley. Các thẻ màu đại diện cho mỗi cuộc tấn công được đặt trên một chiếc bàn lớn, có trải một tấm bản đồ nước Anh và kẻ các ô vuông theo Hệ thống dữ liệu mạng lưới quốc gia Anh. Màu thẻ sử dụng cho sự kiện nào đó được xác định theo thời điểm phát hiện, là màu sắc được xác định bằng kim phút của đồng hồ quân khu. Khi lộ trình của các máy bay tấn công có thay đổi, tấm thẻ sẽ được đẩy đi trên bản đồ bằng một "que cào" có từ tính. Hệ thống này cho phép các kiểm soát viên tiêm kích chính (thường là cấp chỉ huy đội bay) cà Dowding có thể nhanh chóng nhìn ra địa điểm mà đối phương nhắm đến và nhận định các mục tiêu dự kiến của họ. Thời gian của các thông tin được thể hiện rõ ràng bằng màu sắc của các tấm thẻ. Nhờ tính đơn giản của hệ thống này mà các quyết định có thể được đưa ra một cách nhanh chóng và dễ dàng.
Ngoài các kiểm soát viên, hầu hết các phòng ban và bản đồ thông tin được điều hành bởi những thành viên của WAAF. Trước chiến tranh, vẫn còn rất nhiều nghi ngờ về năng lực của phái nữ trong việc chịu đựng các điều kiện chiến đấu, khi nhiều nữ phi công được huy động ra các sân bay và trạm radar ở tiền tuyến. Thực tế cuộc chiến đã chứng minh rằng những nghi ngờ đó là vô căn cứ và đóng góp của WAAF đã trở thành cần thiết đối với RAF trong hệ thống kiểm soát và liên lạc, cũng như nhiều công việc khác.
Thông tin này cũng đồng thời được chuyển đến cho sở chỉ huy của mỗi Nhóm (ví dụ như trạm RAF Uxbridge cho Nhóm 11), tại đó nó được "lọc" qua một phòng phụ trách lọc thông tin (nghĩa là đối chiếu, kiểm tra chéo và đơn giản hóa), trước khi chuyển qua cho các phòng tác chiến khác, cũng được đặt trong các boongke Trận chiến nước Anh ở ngầm dưới đất. Do Nhóm nắm quyền kiểm soát chiến thuật trong trận đánh, các phòng tác chiến được bố trí khác so với tại tu viện Bentley. Bản đồ chính trên bảng biểu đồ đại diện cho khu vực chỉ huy của Nhóm và các sân bay có liên quan. Các trang bị điện thoại và radio thu và phát luồng thông tin liên tục từ nhiều sân bay quân khu và từ Quân đoàn Quan sát, Bộ tư lệnh Phòng không và lực lượng hải quân. "Nhiệm vụ kiểm soát viên tiêm kích" (ví dụ như Nhóm 11) là đại diện cá nhân của Park, có trách nhiệm nắm bắt được thời điểm và cách thức đối phó từng cuộc tấn công. Ông này sẽ ra lệnh cho các đội bay xuất kích và bố trí họ theo cách mà ông ta nghĩ là đúng nhất. Sự kịp thời đóng vai trò cốt yếu, bởi vì "mỗi phút trì hoãn không cần thiết để đợi xác định chính xác cuộc tấn công đang đến đồng nghĩa với việc các máy bay tiêm kích của chúng ta sẽ không có được độ cao khoảng 2.000 feet cần thiết để họ có thể chặn đánh kẻ thù." (Willoughby de Broke, kiểm soát viên tiêm kích thâm niên tại Uxbridge.)
Mỗi phòng ban của Nhóm có một "bảng tổng quát" cho thấy mỗi đội bay hiện có trong Nhóm đó. Bảng này có một hệ thống đèn chiếu sáng cho phép kiểm soát viên thấy được tình trạng của các đội bay: Ngắt (không phục vụ); Hiện hữu (xuất kích trong 20 phút); Sẵn sàng (xuất kích trong 5 phút); Chờ (phi công đã trong buồng lái, xuất kích trong 2 phút); Đã xuất kích và vào vị trí; Thấy đối phương; Chuẩn bị hạ cánh; Đã hạ cánh và tiếp nhiên liệu/vũ trang lại. Bên cạnh bảng tổng quát có thể quan sát rõ ràng, còn có một bảng khí tượng cho thấy tình trạng thời tiết xung quanh mỗi sân bay. Trách nhiệm liên tục cập nhật thông tin cho bảng tổng quát và bảng khí tượng thuộc về các nhân viên đồ án của WAAF.
Các kỹ sư điện thoại của Tổng cục Bưu điện Anh (GPO) đóng một vai trò trọng yếu là "những người làm từng mọi giờ để sửa chữa hệ thống liên lạc, lắp đặt hoàn thiện các phương tiện mới tại các trung tâm khẩn cấp, và duy trì hoạt động cho hệ thần kinh của Bộ tư lệnh Tiêm kích..." (Thiếu tướng Không quân Eric Roberts, tư lệnh quân khu Middle Wallop năm 1940)
Tuy nhiên, giữa các Nhóm được bố trí giúp đỡ lẫn nhau; ví dụ như Park chỉ có thể yêu cầu - chứ không phải ra lệnh - sự hỗ trợ của Brand (người thường cuyên phối hợp), hoặc từ Leigh-Mallory (người vẫn hay từ chối). Điều này là do Dowding đã không bao giờ đưa ra những mệnh lệnh thường trực về việc phối hợp tác chiến, cũng không xây dựng được một phương pháp để sắp xếp nó.
Các quân khu
Các khu vực của các Nhóm được chia thành những Quân khu; mỗi viên sĩ quan chỉ huy Quân khu được giao cho từ 2 đến 4 đội bay. Các Trạm Quân khu, bao gồm một phi trường cùng một "phòng điều hành Quân khu", là trung tâm của cơ cấu này, và họ cũng chịu trách nhiệm điều hành những phi trường vệ tinh mà các đội bay có thể phân tán đến. Các phòng điều hành khác sao chép y nguyên cơ cấu này tại các Nhóm Tổng hành dinh, nhưng với quy mô nhỏ hơn và hầu hết vẫn đóng tại những công trình mái ngói một tầng làm bằng gạch ở trên mặt đất, rất dễ bị tấn công. Đến năm 1940, phần lớn trong số chúng được bảo vệ sơ sài bằng một bờ đất gọi là "tường nổ" bao quanh, có độ cao ngang bằng với mái hắt. May mắn cho Bộ tư lệnh Tiêm kích là bộ phận tình báo của Luftwaffe đã không biết đến tầm quan trọng của những phòng này và hầu hết trong số chúng đều được yên ổn. Các phòng điều hành tại Biggin Hill đã bị phá hủy trong một cuộc đột kích ngày 31 tháng 8, nhưng là do bom rơi lạc. Nguy cơ của các phòng này trong thời gian chiến tranh đã được nhận ra và các sân bay mới được xây dựng theo chương trình mở rộng vào những năm 1930 đã có những kết cấu mới hình chữ "L" chống được bom Mk II. Để phòng xa, các phòng điều hành khẩn cấp được xây dựng tại những địa điểm khác cách xa các sân bay, hơi kém hiệu quả hơn một chút; ví dụ như trạm RAF Kenley có thể dùng phòng thay thế đóng tại một cửa hàng thịt gần Caterham. Bảng biểu đồ được trình bày với một bản đồ quân khu cùng các sân bay của nó, và các bộ phận tổng hợp và thời tiết phản ánh lại nguồn thông tin chính xác hơn này.
Thiếu sót
Mặc dù là hệ thống phòng không tinh vi nhất thế giới vào thời điểm lúc bấy giờ, hệ thống Dowding cũng có nhiều hạn chế. Trong đó, có một nhu cầu rất rõ ràng nhưng thường không được nhấn mạnh, đó là sự cần thiết phải có các nhân viên bảo trì trên mặt đất với đầy đủ trình độ, nhiều người đã được đào tạo theo chương trình Aircraft Apprentice (máy bay tập sự) do Hugh Trenchard tiến hành. Các radar hay gặp những sai sót đáng kể còn Quân đoàn Quan sát phòng không thì gặp nhiều khó khăn trong việc phát hiện các cuộc tấn công ban đêm và trong thời tiết xấu. Liên lạc bằng radio-điện thoại với các máy bay tiêm kích cũng bị hạn chế do các máy thu tiêu chuẩn được các tiêm kích của RAF sử dụng vào đầu cuộc chiến là loại TR9D cao tần, hoạt động trong dải tần số từ 4.3-6.6 MHz; RAF đã sớm nhận ra thiết bị này bị giới hạn về phạm vi thu phát tín hiệu vô tuyến do công suất kém. Ngoài ra, việc số lượng các máy phát vô tuyến cao tần dân sự, quân sự, và của nước ngoài tăng thêm từ khi máy TR9 được chấp nhận đồng nghĩa với việc thường xuyên bị nhiễu và đè sóng, rõ ràng gây khó khăn cho việc liên lạc với các máy bay tiêm kích. Việc mỗi đội bay có một tần số riêng cũng gây ra hạn chế, nó làm cho việc liên lạc giữa các đội bay trở nên bất khả thi. Ultra đã giúp xác nhận lực lượng và bố trí các đội hình máy bay của Luftwaffe, mục tiêu của các viên chỉ huy và cảnh báo sớm được một số cuộc tấn công. Vào đầu tháng 8, có một quyết định được đưa ra là một đơn vị nhỏ sẽ được thành lập tại tổng hành dinh của Bộ tư lệnh Tiêm kích (tại Stanmore) để xử lý dòng thông tin từ Bletchley và chỉ cung cấp cho Dowding những thông tin Ultra có giá trị nhất; theo đó Bộ Hàng không sẽ không phải chuyển những dòng tin tức liên miên đến Stanmore, đảm bảo bí mật, và Dowding không bị ngập đầu với những thông tin không cần thiết. Keith Park và những kiểm soát viên của ông cũng được biết về Ultra. Trong một cố gắng hơn nữa nhằm ngụy trang sự tồn tại của Ultra, Dowding đã thiết lập một đơn vị gọi là 421 Flight. Đơn vị này (sau trở thành đội bay số 91 của RAF), được trang bị các máy bay Hurricane và Spitfire và huy động các máy bay đi tìm kiếm và báo cáo về các đội hình của Luftwaffe đang tiếp cận Anh. Thêm vào đó là một tổ chức nghe radio (gọi là ban Y), giám sát các động thái truyền đạt tín hiệu của Luftwaffe, cũng góp phần đáng kể trong việc sớm cảnh báo về các cuộc tấn công.
Giải cứu không-biển
Một trong những thiếu sót lớn nhất trong toàn bộ hệ thống này là việc thiếu mất một tổ chức giải cứu không-biển thích hợp. RAF đã bắt đầu tổ chức hệ thống Xuồng Tốc độ Cao (HSLs) từ năm 1940 dựa trên nền tảng là các tàu bay và một số địa điểm ở nước ngoài, nhưng họ vẫn tin rằng lưu lượng giao thông băng qua biển Manche khiến cho không cần thiết phải có một bộ phận giải cứu tại khu vực này. Họ mong là các phi công và phi hành đoàn bị rơi sẽ được các tàu thuyền đi ngang qua trục vớt. Nấu không thì các tàu cứu hộ địa phương sẽ được báo động, giả sử như có ai đó trông thấy viên phi công rơi xuống nước.
Các phi hành đoàn RAF được phát cho một áo phao, có biệt danh là "Mae West" nhưng trong năm 1940 vẫn phải bơm phồng bằng tay, điều này hầu như là không thể đối với những người đã bị thương hay bị choáng. Nước ở biển Manche và eo biển Dover rất lạnh ngay cả vào giữa mùa hè, còn quần áo của các phi hành đoàn RAF lại không giúp gì nhiều trong việc chống bị đông cứng. Một hội nghị trong năm 1939 đã đặc công tác giải cứu không-biển thuộc quyền Bộ tư lệnh Duyên hải. Do số phi công bị thiệt hại trên biển trong thời gian "Tr