✨Chiến dịch Pedestal

Chiến dịch Pedestal

Chiến dịch Pedestal (, Trận chiến giữa tháng Tám), được người dân Malta gọi là ** (, Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia Anh vào tháng 8 năm 1942 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Malta là một căn cứ tiền tiêu quan trọng của người Anh tại khu vực Địa Trung Hải, cung cấp bàn đạp cho các đơn vị tàu mặt nước, tàu ngầm và máy bay Anh để tấn công, đánh phá các tuyến vận tải trọng yếu của Đức-Ý tới Libya, nơi nhận tiếp tế cho các đơn vị phe Trục chiến đấu tại Bắc Phi. Nên từ năm 1940 tới năm 1942, quân đội phe Trục đã cố gắng bao vây phong tỏa Malta bằng không quân và hải quân. Dù gặp nhiều tổn thất nặng nề, người Anh đã thành công trong việc cung cấp đủ nguồn tiếp tế cho người dân và quân đồn trú ở Malta để tiếp tục kháng cự trong giai đoạn cuối của năm 1942. Mặt hàng tiếp tế quan trọng nhất của Chiến dịch Pedestal là nhiên liệu, chủ yếu được vận chuyển trên tàu SS Ohio - một tàu chở dầu của Hoa Kỳ nhưng được vận hành bởi thủy thủ đoàn của Anh. Đoàn vận tải khởi hành từ Anh vào ngày 3 tháng 8 năm 1942, và đi qua Eo biển Glbraltar vào Địa Trung Hải vào đêm ngày 10 tháng 8.

Phe Trục đã nỗ lực ngăn chặn đoàn vận tải hơn 50 tàu này bằng việc sử dụng thủy lôi, máy bay ném bom, xuồng E-Boat của Đức, xuồng MS và MAS của Ý, và cho tàu ngầm phục kích. Hơn 500 thủy thủ Thương gia, Hải quân Hoàng gia và phi công Anh thiệt mạng trong chiến dịch, và chỉ có năm trong tổng số 14 tàu vận tải ban đầu cập bến Grand Harbour ở Malta. Đây là một chiến thắng chiến lược, nhưng đắt giá, đối với người Anh. Việc tàu SS Ohio đã mang đến nguồn nhiên liệu quý giá, các tàu ngầm Anh cập bến thành công và các máy bay Supermarine Spitfire bổ sung từ hàng không mẫu hạm Furious đã giúp tăng cường khả năng chiến đấu của Malta để chống lại các đoàn vận tải của phe Trục trong những tháng tiếp theo. Người Ý buộc phải điều chỉnh lại lộ trình vận tải của họ ra xa khỏi Malta, giúp người Anh có thêm thời gian để thực hiện các cuộc tấn công bằng không quân và hải quân. Nỗ lực phong tỏa Malta của Đức và Ý nhanh chóng sụp đổ sau thắng lợi của Anh ở El Alamein (23 tháng 10 - 11 tháng 11 năm 1942) và quân Đồng Minh đổ bộ vào Bắc Phi (8-16 tháng 11 năm 1942), giúp quân Đồng Minh thiết lập thêm nhiều căn cứ trên bộ cho máy bay để hộ tống các đoàn vận tải của họ ở Địa Trung Hải.

Bối cảnh

Các chiến dịch của phe Đồng Minh

Tháng 6 năm 1940, quân đội Đồng Minh mở Chiến dịch Sa mạc Tây kéo dài gần ba năm nhằm chống lại các lực lượng của Ý được hỗ trợ bởi Quân đoàn Phi Châu và các đơn vị không quân của Đức Quốc Xã. Đến cuối năm 1940, 21 tàu vận tải với hơn hàng hóa được chuyển đến Malta mà không gặp tổn thất, và cung cấp đủ nguồn tiếp tế cho hòn đảo này trong vòng bảy tháng. Từ tháng 1 năm 1941 tới tháng 8 năm 1942, 46 tàu vận tải chuyên chở đã cập bến Malta, với 25 tàu đã bị đánh chìm, và có tổng cộng 31 đợt tiếp tế bằng tàu ngầm. Khi Đức và Ý bắt đầu chuỗi chiến dịch phong tỏa Malta, người Anh đã cho tiến hành 19 chiến dịch chuyên chở máy bay bằng hàng không mẫu hạm tới Malta. Từ tháng 8 năm 1940 tới cuối tháng 8 năm 1942, 670 máy bay Hawker Hurricane và Supermarine Spitfire đã cất cánh từ các hàng không mẫu hạm Anh ở phía tây Địa Trung Hải và bay đến Malta để bổ sung sức chiến đấu cho hòn đảo. Nhiều đơn vị bay của Không lực Sa Mạc Tây (DAF) đã dùng Malta làm điểm dừng chân cho các chiến dịch ở Bắc Phi.

Malta là một căn cứ tiền tiêu quan trọng của không quân, hải quân và tàu ngầm Anh trong các chiến dịch đánh chặn đoàn vận tải Phát xít. Từ ngày 1 tháng 6 tới ngày 31 tháng 10 năm 1941, quân đội Anh đã đánh chìm khoảng hàng hóa của Đức và Ý trên Địa Trung Hải, với hàng hóa bị đánh chìm bởi Hải quân Hoàng gia Anh, và hàng hóa được đánh chìm bởi Không quân Hoàng gia (RAF) và Không lực Hải quân Anh (FAA). Các tàu chở hàng đi đến châu Phi chiếm 90% số tàu bị đánh chìm tại Địa Trung Hải và các đơn vị đóng quân ở Malta chịu trách nhiệm cho khoảng 75% số tàu hàng bị máy bay đánh chìm. Trước mối đe dọa này, quân đội Đức-Ý đã tiến hành bao vây, đánh phá và phong tỏa hòn đảo bằng không quân vào năm 1941 và 1942. Đến cuối tháng 7 năm 1941, mức thiệt hại về máy bay của Anh tại Malta đã tăng lên 17 chiếc/tuần, và số nhiên liệu còn lại trên đảo chỉ đủ cho máy bay tiêm kích hoạt động, nên việc điều động các đội bay ném bom và phóng lôi cho các chiến dịch tấn công là một khó khăn đáng kể.

Malta, 1942

Chiến dịch Julius, một kế hoạch tiếp tế cho Malta bằng hai đoàn tàu vận tải song song (một đoàn xuất phát từ Gibraltar trong Chiến dịch Harpoon và từ Alexandria trong Chiến dịch Vigorous) đã gặp thất bại. Chỉ có hai tàu vận tải của Harpoon cập bến Malta thành công, trong khi đoàn Vigorous buộc phải hủy bỏ chiến dịch. Vào tháng 8, khẩu phần hai tuần ở Malta cho một người là 400 gam đường, 200 gam chất béo, 300 gam bánh mì và 400 gam thịt bò muối. Một công nhân nam trưởng thành có lượng calo tiêu thụ hàng ngày là 1.690 calo, trong khi đó phụ nữ và trẻ em là 1.500 calo. Để giải quyết vấn đề lương thực, cư dân Malta đã đồng loạt giết mổ gia súc trên đảo để giảm nhu cầu nhập khẩu thức ăn gia súc và chuyển đổi đất chăn nuôi thành đất trồng trọt; hệ thống Victory Kitchens đã được lập ra để phân phối thịt cho cư dân trên đảo. Malta sẽ buộc phải đầu hàng nếu nguồn nhiên liệu, thực phẩm và trang thiết bị không được giao đến trước tháng 9. Thiếu tướng Keith Park - tư lệnh các đơn vị không quân ở Malta từ tháng 7, đã gửi tin cảnh báo về Anh rằng nguồn nhiên liệu cho máy bay trên đảo chỉ đủ để sử dụng trong vài tuần. Bộ Hải quân Anh đã điều động nhiều tàu ngầm cho các nhiệm vụ vận chuyển nhiên liệu máy bay, đạn phòng không và ngư lôi qua các hành lang phong tỏa vào Malta như một phương án tạm thời để giải quyết vấn đề hoạt động bay trên đảo. Đệ nhất Đại thần Hải quân Albert Alexander và Thủy sư Đô đốc Dudley Pound - Tư lệnh Hải quân Hoàng gia, đã họp bàn với Thủ tướng Winston Churchill về vấn đề sống còn của Malta rằng:... và đề xuất chuẩn bị một chiến dịch vận tải mới từ Gibraltar, với một số lượng tàu hộ tống lớn chưa từng có được điều động từ Hạm đội Viễn Đông và Hạm đội Nhà, vốn đã có sẵn các tàu dự phòng kể từ khi tuyến vận tải Bắc Cực bị dừng hoạt động sau thảm họa PQ 17.

Bộ tư lệnh phe Trục

Cơ cấu chỉ huy của phe Trục tại Địa Trung Hải được tập trung ở cấp trên và bị phân nhỏ ở các cấp thấp hơn. Benito Mussolini đã độc chiếm quyền lãnh đạo các lực lượng vũ trang Ý từ năm 1933 bằng cách tự mình nắm giữ các chức vụ Bộ trưởng Bộ Chiến tranh, Bộ trưởng Bộ Hải quân và Bộ trưởng Bộ Không quân của Ý. Thống chế Không quân Đức Quốc Xã Albert Kesselring, Tư lệnh Tối cao Không quân phía Nam (Oberbefehlshaber Süd) và dù là toàn quyền chỉ huy lực lượng mặt đất Đức tại Mặt trận Địa Trung Hải, Kesselring không hề có thẩm quyền trong các chiến dịch của phe Trục ở Bắc Phi hoặc trong hoạt động tổ chức các đoàn tàu vận tải đến Libya. Từ tháng 11 năm 1941, Kesselring đã dùng thẩm quyền của mình để tiến hành một số chiến dịch hải quân ở Đại Trung Hải với tư cách là Chỉ huy trên danh nghĩa của Bộ Tư lệnh Hải quân Ý. Nhưng do Bộ Tư lệnh Hải quân Ý nằm trong bộ máy chỉ huy của Hải quân Đức Quốc Xã, và mối quan hệ đầy mâu thuẫn giữa bộ chỉ huy Không quân Đức Quốc Xã (Luftwaffe) và Hải quân Đức Quốc Xã (Kriegsmarine), đã cản trở các chiến dịch phối hợp hiệu quả của Đức và Ý ở Địa Trung Hải. Kesselring thực tế chỉ có quyền điều phối trong việc lên kế hoạch cho các chiến dịch liên quân Đức-Ý và có quyền sử dụng Không quân Hoàng gia Ý (Regia Aeronautica) để bảo vệ các đoàn vận tải tới Bắc Phi. Trong khi đó, Hải quân Hoàng gia Ý (Regia Marina) lại cố gắng ngăn chặn và không cho phép người Đức can thiệp vào các chiến dịch của họ.

Kế hoạch và sự chuẩn bị của hai bên

Kế hoạch của phe Đồng Minh

Chiến dịch Pedestal

Việc lên kế hoạch cho Chiến dịch Pedestal bắt đầu được Bộ Hải quân Anh tiến hành vào cuối tháng 7 năm 1942, dưới sự chỉ đạo của Phó Đô đốc Neville Syfret, các Chuẩn Đô đốc Lumley Lyster và Harold Burrough, và Ban tham mưu Hải quân. Sau khi thiết giáp hạm NelsonRodney quay trở về Scapa Flow từ Freetown, Tây Phi, Syfret đã chọn Nelson làm soái hạm của ông cho Chiến dịch Pedestal, và Syfret đã tổ chức một cuộc họp phổ biến chiến dịch tới toàn bộ các sĩ quan cấp cao và thuyền trưởng các tàu vào ngày 29. Ngoài Pedestal, một vài chiến dịch nhỏ khác đã được chuẩn bị để tiến hành đồng thời với Pedestal. Theo kế hoạch, 14 tàu vận tải các lại sẽ được huy động vào chiến dịch, với nhân tố quan trọng nhất là tàu chở dầu SS Ohio - tàu chở dầu nhanh và lớn duy nhất hiện có, được phía Hoa Kỳ cho mượn và vận hành bởi thủy thủ đoàn người Anh. Phòng trường hợp Ohio bị đánh chìm cùng 12.000 tấn dầu, 13 tàu vận tải còn lại đã được bổ sung thêm các thùng phuy dầu. Đoàn vận tải được bảo vệ bởi ba hàng không mẫu hạm, hai thiết giáp hạm, bảy tuần dương hạm, 32 khu trục hạm, bảy tàu ngầm, lực lượng hộ tống lớn nhất từng được tập hợp.

Toàn bộ đội tàu được định danh là Lực lượng F (Force F), trong đó: đoàn vận tải và hộ tống xuất phát từ Anh được đặt là Lực lượng P (Force P), nhóm tác chiến của hàng không mẫu hạm Victorious, Argus được đặt là Lực lượng M (Force M), nhóm tác chiến chiến của hàng không mẫu hạm Eagle (xuất phát từ Gibraltar) được đặt là Lực lượng J (Force J), nhóm tác chiến của hàng không mẫu hạm Indomitable (xuất phát từ Freetown) là Lực lượng K (Force K). Khi Chiến dịch Berserk được tiến hành, toàn bộ nhóm tác chiến hàng không mẫu hạm sẽ được tập hợp thành Lực lượng G (Force G); nhóm tàu tiếp liệu, bao gồm tàu RFA Brown RangerDingledale, được hộ tống bởi bốn khinh hạm và một tàu kéo viễn dương, sẽ được định danh là Lực lượng R; và các đơn vị hộ tống còn lại sẽ được tập hợp thành Lực lượng W (Force W). Lực lượng X (Force X) sẽ đảm nhiệm vai trò hỗ trợ tầm gần ở Malta. Khi Lực lượng X tiến vào Địa Trung Hải, một số tàu sẽ được tách ra từ Lực lượng F và tập hợp thành Lực lượng Z (Force Z), có nhiệm vụ hộ tống hai tàu vận tải đã cập bến Malta trong Chiến dịch Harpoon, với định danh là Lực lượng Y (Force Y), từ Malta về Gibraltar trong Chiến dịch Ascendant.

Hàng không mẫu hạm Victorious được biên chế tổng cộng 16 máy bay Fairey Fulmar của Phi đoàn 809 và 884, và sáu máy bay Sea Hurricane của Phi đoàn 885; Indomitable mang tổng cộng mười máy bay Grumman Martlet của Phi đoàn 806, 24 máy bay Sea Hurricane của Phi đoàn 800 và 880, và 14 máy bay Fairey Albacore của Phi đoàn 831 và 827; Eagle mang theo 16 máy bay Sea Hurricane của Phi đoàn 801 và 813. Malta có tổng cộng năm máy bay Martin Baltimore, sáu máy bay PRU Spitfire và năm máy bay trinh sát Wellington Mk VIII. Nhiều đội bay đã được điều động tạm thời về Ai Cập để gia tăng quân số hỗ trợ, nâng tổng số máy bay của Anh trong khu vực lên hơn 100 chiếc Spitfire, 36 chiếc Beaufighter, 30 chiếc Beaufort, ba chiếc Wellington, hai chiếc Liberator, hai chiếc Baltimore và ba máy bay Albacore và Swordfish của Không lực Hải quân Anh. nhỏ|Chuẩn Đô đốc H M Burrough, chỉ huy Lực lượng X, bắt tay với [[Dudley Mason, thuyền trưởng tàu chở dầu SS Ohio sau một buổi họp trên tuần dương hạm HMS Nigeria]] Sau buổi họp thông thường, Chuẩn Đô đốc Burrough đã gặp A. G. Venables - chỉ huy trưởng đoàn tàu vận tải và các thuyền trưởng tàu vận tải trên soái hạm của ông, HMS Nigeria, để thông báo riêng cho họ. Một cuộc họp tương tự đã được tổ chức với các chuyên viên điện đài của các tàu vận tải để giải thích về các quy trình thủ tục thông tin liên lạc của hạm đội. Đoàn vận tải gồm 14 tàu được định danh là WS.21S, và mỗi thuyền trưởng các tàu trong đoàn được nhận một phong bì đề bên ngoài là "Không được mở cho đến 08:00 giờ ngày 10 tháng 8", đi kèm với một tờ thông điệp cá nhân được đích thân Đệ nhất Đại thần Hải quân Albert Alexander đề rằng "Chúc may mắn." Đoàn vận tải bắt đầu khởi hành từ Sông Clyder vào đêm ngày 2/3 tháng 8, được hộ tống bởi tuần dương hạm Nigeria, Kenya và các khu trục hạm, đến điểm tập kết với các nhóm tàu khác vào buổi sáng hôm sau.

Đoàn vận tải WS.21S bao gồm các tàu sau:

  • Tàu chở hàng: MV Empire Hope, MV Dorset, MV Wairangi, MV Rochester Castle, Waimarama, Brisbane Star, MV Port Chalmers, Almeria Lykes, Santa Elisa, MV Clan Ferguson, MV Glenorchy, Melbourne Star, MV Deucalion;
  • Tàu chở dầu: SS Ohio;
  • Hộ tống (từ Anh đến Gibraltar): Keppel, Malcolm, Amazon, Venomous, Wolverine

Chiến dịch Bellows

Không lâu trước khi khởi hành từ Scapa Flow, hàng không mẫu hạm Furious được Bộ Hải quân chọn để tiến hành Chiến dịch Bellows, có nhiệm vụ tiếp vận máy bay cho Malta (được gọi không chính thức là Club Run), song song với Chiến dịch Pedestal. Tuy nhiên, việc khởi hành của Furious đã bị trì hoãn hai ngày do gặp vấn đề kỹ thuật. Sau vấn đề được khắc phục, Furious khởi hành về Malta với 38 máy bay Spitfire và tuần dương hạm Manchester. Nhóm của Furious tập hợp cùng đoàn vận tải chính vào ngày 1 tháng 8 năm 1943, ba ngày trước khi Chiến dịch Pedestal được bắt đầu.

Chiến dịch Berserk và Ascendant

Ngày 31 tháng 7, thiết giáp hạm NelsonRodney, hàng không mẫu hạm VictoriousArgus, tuần dương hạm Sirius và các khu trục hạm rời Scapa Flow và tập hợp với nhóm tác chiến của Eagle từ Gibraltar và nhóm tác chiến của Indomitable từ Freetown, để tiến hành buổi tập trận có mật danh là Chiến dịch Berserk. Chiến dịch được tổ chức tại khu vực nằm giữa Quần đảo Azore và Gibraltar từ ngày 6 tới ngày 9 tháng 8, bao gồm hoạt động huấn luyện phòng không cho tàu vận tải, đổi hướng di chuyển khẩn cấp, thay đổi đội hình di chuyển, liên lạc bằng cờ hiệu và hệ thống điện báo không dây tầm ngắn (W/T). Nguy cơ an ninh về việc liên lạc trực tiếp qua hệ thống W/T đã được các chỉ huy Đồng Minh chấp nhận và theo Đô đốc Andrew Cunningham, đoàn vận tải đã đạt được nhiều hiệu quả "tương đương với hiệu quả của một đơn vị hạm đội." Các đơn vị máy bay được huấn luyện tiến hành các đợt không kích mô phỏng vào chiều ngày 8 tháng 8, để giúp các nhóm vận hành radar hoạt động hiệu quả và tăng cường nhận biết ngoại hình máy bay cho các tổ đội phòng không. Trong buổi tập này, Phi đoàn 804 của hàng không mẫu hạm Argus được đánh giá là chưa đủ khả năng chiến đấu, nên phi đoàn cùng Argus được lệnh quay trở về Anh.

Cùng thời điểm với Chiến dịch Pedestal, Chiến dịch Ascendant cũng được tiến hành, với nhiệm vụ chính là đưa tàu TroilusOrari, hai tàu vận tải duy nhất cập bến Malta trong Chiến dịch Harpoon vào tháng 6 cùng năm, từ Malta về Gibraltar dưới sự hộ tống của khu trục hạm BadsworthMatchless (Lực lượng Y). Các tàu sẽ được ngụy trang bằng ký hiệu sàn tiêu chuẩn của Hải quân Hoàng gia Ý và sẽ khởi hành từ Malta vào đêm ngày 2/3 tháng 8 về phía nam Lampedusa, đi qua bán đảo Cap Bon, bám sát bờ biển Tunisia về Kênh Galita và từ đó đi đến Gibraltar.

Kế hoạch và sự chuẩn bị của phe Trục

Kế hoạch

nhỏ|Thống chế Albert Kesselring - Tư lệnh Tối cao Không quân phía Nam (Oberbefehlshaber Süd) Người Đức và Ý đã chuẩn bị các kế hoạch một cách độc lập, nhưng vẫn có sự hợp tác ở một mức độ nhất định, ví dụ như Quân đoàn Không lực II (Fliegerkorps II) của Luftwaffe ở Sicily đã phối hợp với bộ tư lệnh Không quân Hoàng gia địa phương trong việc lập kế hoạch, nhưng họ lại tiến hành cuộc tấn công một cách riêng biệt.

Trong khi đó, Bộ Tư lệnh Hải quân Ý (Supermarina) đã cân nhắc đến bốn trường hợp về một chiến dịch hộ tống sắp tới của Anh là:

  • Quân Đồng Minh sẽ dùng sức mạnh hải quân của họ để bảo vệ một đoàn vận tải;
  • Hạm đội chủ lực của Đồng Minh sẽ xuất kích để kích động một đợt giao chiến với hạm đội Ý, tạo điều kiện cho đoàn vận tải đi qua an toàn;
  • Quân Đồng Minh sẽ huy động một lực lượng hộ tống mạnh mẽ để bảo vệ đoàn vận tải đi qua eo biển ở phía bắc Pantelleria thay vì đi về phía tây vào Eo biển Skerki;
  • Quân Đồng Minh sẽ huy động lực lượng hàng không mẫu hạm để không kích các sân bay ở Sardinia để mở đường cho đoàn vận tải đi qua.

Không quân Hoàng gia Ý có tổng cộng 328 máy bay (90 máy bay phóng lôi, 62 máy bay ném bom, 25 máy bay ném bom bổ nhào và 151 máy bay tiêm kích) và Luftwaffe có 456 máy bay (328 máy bay bổ nhào, 32 máy bay ném bom hạng trung và 96 máy bay tiêm kích). Người Đức đã huy động thêm 20 máy bay Junkers Ju 88 của Quân đoàn Không lực X (Fliegerkorps X) đóng ở Crete về Sicily vào ngày 11 tháng 8, và tám chiếc Ju 88 nữa từ Crete trong cùng ngày sau khi chúng hoàn thành nhiệm vụ hộ tống ở Aegean.

Hải quân Hoàng gia Ý có bốn thiết giáp hạm, 13 tuần dương hạm, 21 khu trục hạm, 28 xuồng cao tốc phóng lôi và 64 tàu ngầm, nhưng hầu hết các tàu chủ lực đều không được hoạt động vì thiếu nhiên liệu và không lực hỗ trợ. Hải quân Ý chỉ được cung cấp 12.000 tấn nhiên liệu vào tháng 6, tương đương với 20% mức tiêu thụ nhiên liệu của các đoàn tàu vận tải, và các thiết giáp hạm Ý phải tiếp nhiên liệu cho các tàu nhỏ hơn. Vì thiếu nhiên liệu, Mussolini đã nói với Hitler rằng họ chỉ có thể đánh chặn đoàn tàu vận tải Malta bằng tàu ngầm và máy bay trên bộ. Supermarina đã điều động Hải đội Tuần dương hạm số 3 của Phó Đô đốc Angelo Paroma, bao gồm tuần dương hạm Gorizia, Bolzano,Trieste và bảy khu trục hạm, và Hải đội Tuần dương hạm số 7 của Phó Đô đốc Luigi Sansonetti, bao gồm tuần dương hạm Eugenio di Savoia, Raimondo MontecuccoliMuzio Attendolo và năm khu trục hạm, cộng thêm 18 tàu ngầm, 19 xuồng cao tốc phóng lôi (sáu xuồng MS và 13 xuồng MAS); trong khi đó người Đức có ba tàu ngầm và bốn xuồng S-boat. Do bị thiếu hụt máy bay tiêm kích để hộ tống tàu mặt nước, máy bay ném bom và máy bay phóng lôi, Mussolini đã ưu tiên sử dụng máy bay chiến đấu làm máy bay ném bom hộ tống và hỗ trợ lực lượng mặt nước. Thống chế Kesselring từ chối yêu cầu cung cấp máy bay hỗ trợ cho hạm đội Ý, vì bản thân họ cũng không đủ máy bay tiêm kích. nhỏ|Nguyên soái Ugo Cavallero - Tổng tham mưu trưởng Quân đội Ý Kesselring nghi ngờ về việc các tuần dương hạm hạng nặng của Ý có thể đạt được thành công ngay cả khi có không quân yểm hộ và cho rằng người Ý đã lấy cớ thiếu nhiên liệu. Chuẩn Đô đốc Eberhard Weichold, tùy viên quân sự Hải quân Đức Quốc Xã tại Rome, đã gửi kiến nghị rằng Luftwaffe nên cung cấp máy bay yểm trợ trên không cho tàu chiến Ý. Nguyên soái Ugo Cavallero, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Ý, cũng mong muốn các tàu mặt nước Ý có cơ hội tham gia vào chiến dịch, nhưng Supermarina không muốn tung các tàu chủ lực của họ vào trận chiến mà không có máy bay hỗ trợ. Chiến thuật đánh chặn của phe Trục sẽ tương tự như chiến thuật từng được họ áp dụng trong Chiến dịch Harpoon của người Anh vào tháng 6 năm 1942; họ sẽ mở một đợt trinh sát đường không phối hợp diện rộng ở phía tây Địa Trung Hải vào ngày 11 và 12 tháng 8, máy bay tấn công của phe Trục sẽ trực chiến sẵn ở Sicily và Sardinia; tàu ngầm Ý-Đức, tàu phóng lôi và thủy lôi được phe Trục sử dụng triệt để để tạo thành một lớp hàng rào phòng thủ liên tiếp. Bốn lớp phòng thủ này sẽ gây phân tán đoàn vận tải của người Anh và sau đó sẽ bị lực lượng tuần dương hạm và khu trục hạm Ý tấn công tiêu diệt. 22 máy bay ném bom phóng lôi, khoảng 125 máy bay nhém bom bổ nhào và tiêm kích hộ tống, và 40 máy bay ném bom hạng trung sẽ được sử dụng trong một cuộc tấn công đồng bộ. Người Ý ưu tiên máy bay cho việc tiêu diệt các hàng không mẫu hạm Anh đầu tiên, để ngăn chặn chúng tung máy bay can thiệt khi đội tàu mặt nước của Ý áp sát đoàn vận tải của Anh. Hải quân phe Trục có 19 tàu ngầm ở phía tây Địa Trung Hải, chín chiếc trong số đó đóng quân ở phía bắc Algeria; 10 tàu khác sẽ chờ sẵn ở khu vực giữa Fratelli Rocks và cửa eo biển Skerki, một vài chiếc sẽ dàn trận ở phía tây bắc Cap Bon để phối hợp với máy bay tấn công. Một tàu ngầm của Ý sẽ tuần tra sẵn ở phía tây Malta, một chiếc ngoài khơi Navarino của Hy Lạp và ba chiếc nữa cách đảo Crete khoảng 161 km về phía tây-tây nam.

Từ tháng 6 năm 1940 tới tháng 4 năm 1942, Hải quân Hoàng gia Ý đã rải khoảng 2.320 quả thủy lôi tại khu vực giữa Cap Granitola, nằm ở cuối phía tây nam Sicily và Pantelleria, 1.020 quả giữa Pantelleria và Ras el Mustafa, Tunisia, 6.880 quả tại khu vực giữa Quần đảo Aegadian và Cap Bon, và 1.040 quả ở giữa vùng biển Bizerte và Keith Rock. Người Ý dự tính sẽ rải thêm một bãi thủy lôi nữa ở ngoài khơi Cap Bon vào đêm ngày 11/12 tháng 8, ngay trước khi đoàn vận tải Anh đi qua khu vực này. Đêm ngày 12/13 tháng 8, 13 xuồng MAS, sáu xuồng MS và bốn xuồng S-boat đã trực chiến sẵn ở phía nam Marettimo và ngoài khơi Cap Bon, và sau đó di chuyển về Pantelleria. Hải đội Tuần dương hạm số 3 và 7 sẽ đóng cách Pantelleria khoảng 120 dặm về phía bắc vào buổi chiều ngày 12 tháng 8, sau đó di chuyển trong đêm về phía nam Pantelleria để tấn công những gì còn lại của đoàn tàu Anh trước bình minh. Các sĩ quan phe Trục tin rằng họ sẽ có đủ máy bay để áp đảo hoàn toàn các đơn vị bay của người Anh ở Malta. Nếu có một đoàn tàu vận tải Đồng Minh khởi hành từ Ai Cập, chúng sẽ bị đánh chặn bởi Hải đội Tuần dương hạm số 8 đóng ở Navarino, Hy Lạp, nhưng Hải đội 8 đã được lệnh di chuyển vào Biển Ionian vào ngày 12 tháng 8 để hỗ trợ cho Hải đội 3.

Sự chuẩn bị

Các nhà hoạch định phe Trục hoàn toàn không có đủ thông tin về kế hoạch của người Anh, nhưng họ có kiến thức khá rõ ràng về đội hình và lộ trình di chuyển của phe Đồng Minh ở Địa Trung Hải. Cơ quan tình báo Abwher đã gửi báo cáo cho Kesselring vào ngày 5 tháng 8 rằng phe Đồng Minh đang chuẩn bị cho một chiến dịch tiếp vận Malta lớn từ phía tây, phối hợp đồng thời với cuộc tấn công ở Mersa Matruh, Ai Cập của họ. Máy bay ném bom Đồng Minh ở Malta được cho là sẽ tấn công tàu chiến Ý, trong khi các đơn vị tiêm kích sẽ làm nhiệm vụ không yểm cho đoàn vận tải đi qua Eo biển Sicily. Người Đức cũng coi đó sẽ là một mối đe dọa với Crete nếu đoàn vận tải cập bến Malta, nên Kesselring đã cho tăng cường các đơn vị không quân Đức đóng ở Sicily và Crete, và cho điều chuyển máy bay từ Crete về Sardinia and Sicily. Fliegerkorps II đã cắt giảm hoạt động bay của họ và thiết lập căn cứ mới ở Elmas, Sardinia để tiếp nhận các đợt tiếp viện của Fliegerkorps X ở phía đông Địa Trung Hải. Vào sáng ngày 8 tháng 8, một báo cáo được gửi đến với nội dung là một hàng không mẫu hạm lớp Argus và bốn khu trục hạm đã cập bến Gibraltar và các đặc vụ của Abwher liên tục ghi nhận rằng có rất nhiều hoạt động vận tải diễn ra ở Eo biển Gibraltar vào đêm ngày 8/9 tháng 8. Đến ngày 10 tháng 8, 220 máy bay của Luftwaffe đã có mặt ở Sicily cùng với 300 máy bay của Không quân Hoàng gia Ý và 150 máy bay Ý khác được tập hợp ở Sardinia.

Các tàu ngầm Ý được lệnh tập hợp thành ba hàng rào tuần tra để đánh chặn đoàn vận tải. Vào ngày 12 tháng 8, Kesselring bắt đầu thảo luận với Bộ tư lệnh cấp cao của Ý (Comando Supremo) về việc phối hợp lực lượng phe Trục cho chiến dịch sắp tới. Trong buổi sáng, Kesselring báo cáo rằng Luftwaffe hoàn toàn cam kết sẽ thực hiện việc hộ tống cho máy bay ném bom, nhưng không thể hỗ trợ cho các tàu Ý, và đề nghị hỗ trợ rải thủy lôi nhưng việc này đã được Hải quân Hoàng gia Ý tiến hành từ trước. Việc Không quân Đức Quốc Xã không thể cung cấp máy bay yểm trợ trên không cho hạm đội Ý đã làm giả đáng kể cơ hội đánh chặn hạm đội người Anh.

Trong cuộc họp vào buổi chiều cùng ngày, vấn đề hạm đội mặt nước tiếp tục được đưa ra để thảo luận. Do mối đe dọa bị máy bay Anh đóng ở Malta tấn công là rất lớn, Nguyên soái Cavallero đã đi đến quyết định rằng ông không thể mạo hiểm toàn bộ hạm đội Ý nếu không có sự hỗ trợ đầy đủ của máy bay Đức. Buổi họp đã thống nhất rằng, tàu ngầm Ý sẽ tấn công đón đầu đoàn vận tải tại khu vực Quần đảo Algier và Balearic, xuồng phóng lôi sẽ phục kích tại khu vực Cap Bon và Pantelleria, và những gì còn lại của hạm đội vận tải sẽ được Hải đội Tuần dương hạm số 3 và 7 kết liễu. Trung tướng Rino Corso Fougier, Tham mưu trưởng Không quân Hoàng gia Ý, đã báo cáo rằng ông có 40 máy bay chiến đấu và máy bay ném bom hiện đại và ngày hôm trước (ngày 11 tháng 8), 101 máy bay đã được chuyển từ Ý đến Sardinia và Sicily, nâng tổng số máy bay trực chiến lên của người Ý lên 247 chiếc, nhưng Fougier không bắt đầu các cuộc tấn công cho đến ngày 13 tháng 8. Ngoài ra, có thêm 20 máy bay ném bom tầm xa từ Crete, 10 máy bay phóng lôi từ Grosseto đã được huy động về Sardinia. Tại Sicily, 15 đội bay đang nghỉ ngơi sau các chiến dịch trước đó đã được báo động và tiếp nhận thêm sáu máy bay tiêm kích tầm xa Bf 110 từ Châu Phi.

Diễn biến

Ngày 9/10 tháng 8

nhỏ|Nhóm hàng không mẫu hạm của Lực lương Z đang tiến vào Eo biển Gibraltar, 10 tháng 8 năm 1942. Từ gần đến xa: [[HMS Victorious (R38)|HMS Victorious, HMS Indomitable và HMS Eagle.]] Lực lượng R rời Gibraltar vào ngày 9 tháng 8, chuẩn bị hội quân với đoàn vận tải ở phía nam Majorca; Lực lượng F đi qua Eo biển Gibraltar trong đêm không trăng và nhiều sương mù vào đêm ngày 10 tháng 8. Dù thời tiết xấu như vậy, hạm đội Anh vẫn bị các đặc vụ Abwher ở bờ biển Gibraltar và Ceuta phát hiện. Tình báo Anh nhanh chóng giải mã được các đoạn tin được đặc vụ Abwher gửi về sở chỉ huy, và nẵm rõ được cách phía Đức-Ý tiếp nhận thông tin và kế hoạch đánh chặn đoàn vận tải của họ. Vào khoảng 08:00 ngày 10 tháng 8, máy bay trinh sát của Đức phát hiện ra đoàn vận tải, và báo cáo lúc 12:45 rằng đoàn tàu đang cách Algiers khoảng 130 km về phía bắc.

Lúc 17:00, máy bay trinh sát của Vichy Pháp báo cáo phát hiện ra hai hàng không mẫu hạm, hai thiết giáp hạm, hai tuần dương hạm, 14 khu trục hạm và 12 tàu vận tải cách Oran 93 km về phía bắc. Máy bay trinh sát của Đức báo cáo lúc 19:00 rằng có một đoàn vận tải gồm hai thiết giáp hạm, hai hàng không mẫu hạm, hai tuần dương hạm, 14 khu trục hạm và 12 tàu vận tải đang di chuyển theo hướng đông, cách Oran 102 km về phía bắc-đông bắc. Cuối chiều ngày 10 tháng 8, Kesselring và Supermarina được thông tin rằng có một hạm đội gồm 40-50 tàu, có thể có hai hàng không mẫu hạm và 19 tàu vận tải, đang ở phía tây Địa Trung Hải, di chuyển về hướng đông với tốc độ khoảng . Đoàn tàu này được cho là sẽ ở phía nam Majorca lúc 06:00 ngày 11 tháng 8 và cùng thời điểm đó ở phía nam Sardinia vào ngày 12. Fliegerkorps II được đặt vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu và Fliegerkorps X được lệnh tiến hành bay do thám ở phía đông Địa Trung Hải sau bình minh ngày 11 tháng 8.

Ngày 11 tháng 8

Dù có nguy cơ bị tàu ngầm Đức-Ý tấn công, ba tuần dương hạm và 26 khu trục hạm đã hoàn thành việc tiếp dầu từ tàu chở dầu DingledaleBrown Ranger vào bình minh ngày 11 tháng 8. Đoàn vận tải hiện đang ở phía nam Quần đảo Balearic, trên lộ trình đi về Cap Bon, và vào khoảng 06:20, đoàn vận tải bị một tàu ngầm U-boat phát hiện. Lúc 08:15, máy bay trinh sát của Luftwaffe báo cáo vị trí đoàn vận tải đang cách Algiers khoảng 176 km về phía tây bắc; 15 phút sau, một chiếc Ju 88 được lệnh bám đuôi đoàn vận tải ở độ cao 6.100–7.300 m và tiến hành nhiệm vụ đó đến cuối ngày. Đến trưa, đoàn vận tải cách Majorca khoảng 139 km về phía nam, di chuyển về phía đông theo đội hình zigzag. Furious bắt đầu phóng máy bay từ khoảng 12:30 đến 15:15, với 38 chiếc Spitfire thực hiện chuyến bay dài tới Malta, rồi con tàu quay trở về Gibraltar cùng đội hộ tống. nhỏ|Hàng không mẫu hạm [[HMS Eagle (1918)|HMS Eagle đang chìm sau khi trúng bốn quả ngư lôi từ tàu ngầm U-73 của Đức, 11 tháng 8 năm 1941]] Giải mã Enigma cho biết vào lúc 11:55, các tuần dương hạm hạng nhẹ Eugenio di Savoia, Raimondo Montecuccoli, Muzio Attendolo thuộc Hải đội Tuần dương hạm số 7 ở Cagliari đã được Supermarina ra lệnh có mặt tại vị trí chiến đấu trước hai giờ từ 18:00, cùng với các tuần dương hạm hạng nặng Gorizia, BolzanoTrieste thuộc Hải đội Tuần dương hạm số 3 ở Messina, và tàu ngầm Ý đã trực chiến ở phía bắc Bizerte lúc 13:00. Ba tàu ngầm của phe Trục được nhìn thấy rời Cagliari lúc 20:45, và người Anh được thông tin rằng lúc 18:00, Hải đội Tuần dương hạm số 7 cùng 17 khu trục hạm, đã di chuyển về phía đông, và Hải đội Tuần dương hạm số 3 đã khởi hành từ Messina và Napoli. Tình báo Đồng Minh còn bắt được thông tin rằng sự xuất hiện của đoàn vận tải được Tập đoàn quân thiết giáp Châu Phi (Panzerarmee Afrika) cho là mối đe dọa lớn tới Tobruk. Kesselring tin rằng sẽ có một cuộc đổ bộ ở bờ biển Bắc Phi và ông đã ra lệnh sẵn sàng ngăn chặn một cuộc đổ bộ tiềm tàng của Đồng Minh vào ngày 12. Không quận Châu Phi (Luftgau Afrika) dự đoán sẽ có một cuộc đổ bộ ở Tripoli vào ngày 13 hoặc 14 tháng 8. Lúc 08:00, tàu ngầm U-73 phát hiện ra hạm đội của Anh ở ngoài tầm bắn, được theo sau bởi một nhóm tàu khác có hàng không mẫu hạm . U-73 thu hẹp khoảng cách còn khoảng 370 m và bắn bốn quả ngư lôi về phía Eagle. Eagle trúng trọn bốn quả ngư lôi vào lúc 13:15 và bị chìm cách phía nam Mũi Salinas 130 km, 150 km về phía bắc Algiers, chỉ trong vòng bốn phút sau khi bị bắn trúng. Khu trục hạm Lookout, Laforey và tàu kéo Jaunty đã cứu được 929 người, 231 người cùng 16 chiếc Sea Hurricane đã chìm theo con tàu. Lúc 14:30, một chiếc Ju 88 thuộc Liên đoàn Trinh sát 122 (Aufklärungsgruppe 122), đã thực hiện phi vụ bay trinh sát và theo dõi hạm đội người Anh ở độ cao quá mức độ cao chiếc Sea Hurricane có thể đánh chặn. 27 máy bay ném bom Ju 88 và ba máy bay phóng lôi He 111 của Luftwaffe bắt đầu tấn công lúc 20:56, khi đoàn vận tải đang cách Sardinia khoảng 370 km. Cuộc tấn công thất bại khi không con tàu Anh nào bị hư hại và hai chiếc Ju 88 bị bắn hạ. Trong đêm ngày 11, các sân bay dã chiến của Đức ở Sardinia đã bị không kích bởi các đơn vị bay B-24 Liberator và Beaufighter, phá hủy một nhà chứa và nhiều máy bay khác.

Đêm, ngày 11/12 tháng 8

Đêm ngày 11/12 tháng 8, Hải đội Tuần dương hạm số 3 và 7, cùng 17 khu trục hạm của Ý đã rời cảng Cagliari, Messina và Napoli để giao chiến với hạm đội Anh. Bộ chỉ huy Malta sau đó đã gửi một mệnh lệnh tới một chiếc máy bay ném bom Wellington đang làm nhiệm vụ rải pháo sáng về việc dẫn đường cho một đội ném bom B-24 Liberator, thực chất là để đánh lừa hạm đội Ý. Tuy nhiên, Supermarina đã hủy bỏ chiến dịch đánh chặn trước khi người Anh kịp gửi mệnh lệnh đi vì họ không có không lực hỗ trợ.

Lúc 00:20, thông qua giải mã Enigma, tình báo Anh nắm bắt được thông tin rầng tình báo Ý đã phát hiện ra bốn tuần dương hạm và 10 khu trục hạm Anh và nghĩ rằng một phần của đoàn tàu vận tải có thể đang tiến đến phía đông Địa Trung Hải. Enigma cũng cho biết rằng Fliegerkorps II đã gửi mệnh lệnh tới các đơn vị các máy bay tiêm kích của Không đoàn Tiêm kích 77 (Jagdgeschwader 77 - JG 77) tại Elmas, Sardinia, về việc chuẩn bị tấn công một đoàn tàu vận tải tại khu vực Eo biển Sicily vào rạng sáng ngày 12 tháng 8. Fliegerkorps II được lệnh phối hợp với các máy bay của Regia Aeronautica ở Sicily và Sardinia, tung ra các đợt máy bay tiêm kích hỗ trợ tấn công đoàn tàu vận tải.

Tình báo Anh kết luận rằng đoàn vận tải và lực lượng hộ tống hùng mạnh của chúng đã khiến bộ chỉ huy phe Trục lo sợ về một cuộc đổ bộ bất ngờ ở đâu đó tại Bắc Phi hoặc Crete. Phe Trục đã giả định rằng nếu đảo Crete là mục tiêu, thì cuộc đổ bộ sẽ diễn ra trước ngày 14 tháng 8. Ngoài ra, họ đã cho tăng cường bố phòng ở khu vực Benghazi–Tripoli của Libya, và một phi đội Messerschmitt Bf 109 và máy bay ném bom tầm xa đóng tại Derna đã được lệnh sẵn sàng di chuyển tới Benghazi hoặc Tripoli dưới sự hỗ trợ của máy bay vận tải Ju-52. Tập đoàn quân thiết giáp Châu Phi đã tổ chức sẵn nhiều phân đội nhỏ để chống lại cuộc đổ bộ và đã cho di chuyển lực lượng đến đóng quân ở Sollum–Mersa Matruh để bảo vệ bờ biển phía đông Tobruk. Lúc 07:00, toàn bộ tuyến vận tải đi từ Bắc Phi đến Ý và Aegean đều được cho ngừng hoạt động và đến chiều muộn cùng ngày, tình báo Anh được biết rằng Luftwaffe đoán sẽ có cuộc đổ bộ vào Tripoli vào ngày 13 hoặc 14 tháng 8. Máy bay tiêm kích và máy bay ném bom đã được tiếp viện từ Sicily và thông qua Enigma, người Anh đã thu được một bức điện từ Thống chế Đế chế (Reichsmarschall) Hermann Göring, Tổng tư lệnh của Luftwaffe, rằng Luftwaffe và các cuộc tấn công sẽ nhằm thẳng vào các hàng không mẫu hạm và tàu vận tải của người Anh. Lúc 00:54, khu trục hạm Wolverine, cùng bốn khu trục hạm khác, đã tách ra khỏi nhóm hộ tống Furious để tiến hành nhiệm vụ săn ngầm. Radar của Wolverine phát hiện ra một tàu ngầm đối phương cách vị trí hiện tại khoảng cách . Đội khu trục hạm tăng tốc và hoa tiêu của Wolverine phát hiện ra tàu ngầm Dagabur của Ý ở khoảng cách tầm . Wolverine tông thẳng vào con tàu ngầm đang nổi trên mặt nước với tốc độ , khiến Dagabur gãy đôi và chìm với toàn bộ thủy thủ đoàn.

Ngày 12 tháng 8

Buổi sáng

nhỏ|Hàng không mẫu hạm Indomitable đổi vị trí trong đội hình, sáng 12 tháng 8 năm 1942. Ảnh chụp từ Victorious Máy bay Ju 88 của Đức tiếp tục bám đuôi đoàn vận tải Anh lúc 05:00 và vào 06:10, Indomitable đã phóng máy bay Martlet để bắn hạ chiếc trinh sát này, với bốn chiếc Sea Hurricane và Fulmar được phóng từ VictoriousFurious, nhưng chúng không thể leo lên độ cao và bắt kịp tốc độ của Ju 88. Lúc 09:15, khi đoàn vận tải đang cách Sardinia khoảng 240 km về phía nam-tây nam, thì phát hiện ra 19 máy bay ném bom Ju 88 của Không đoàn Đa nhiệm số 1 (Lehrgeschwader 1 - LG 1) ở khoảng cách 46 km. Bốn chiếc bị máy bay Anh đánh chặn và bắn rơi, và hai chiếc khác được hỏa lực phòng không tuyên bố bắn hạ, đổi lại Không lực Hải quân Anh mất một máy bay. Đội bay Đức sau đó báo cáo đã gây thiệt hại nặng cho đoàn vận tải Anh, nhưng thực tế không một tàu hàng nào của Anh bị trúng bom, và thêm ba máy bay trinh sát của Ý cũng bị bắn hạ trong cuộc tấn công. Cùng thời điểm đó, một nhóm máy bay ném bom Beaufighter đang tiến hành nhiệm vụ không kích ở Sardinia thì phát hiện ra Hải đội Tuần dương số 7 của Ý đang neo đậu trong khu vực và đã gửi thông tin đến hạm đội Anh. Hải đội 7 đã khởi hành từ Cagliari qua biển Tyrrhenian lúc 08:10 ngày 11 tháng 8, được hộ tống bởi khu trục hạm Maestrale, OrianiGioberti, đến điểm hẹn với tuần dương hạm Attendolo từ Napoli.

Cũng trong sáng ngày 12, tuần dương hạm Trieste khởi hành từ Genoa về Napoli với khu trục hạm Fuciliere và tàu phóng lôi Ardito để hội quân với Hải đội 3. Phó Đô đốc Angelo Paroma đã cho Hải đội 3 đã rời Messina sớm cùng với tuần dương hạm Gorizia, Bolzano và sáu khu trục hạm sau khi nhận được tín hiệu từ U-83 rằng bốn tuần dương hạm và mười khu trục hạm của Anh (MG 3) đã được phát hiện ở gần đảo Crete. Đội tàu Ý tập trung ở ngoài khơi Palermon, cách Ustica 110 km về phía bắc, và di chuyển về phía nam theo hai hải đoàn riêng biệt, dẫn đầu bởi hai tàu phóng lôi ClimeneCentauro. Mọi động tĩnh trên đều được các máy bay trinh sát Anh phát hiện và vào lúc 18:54, một chiếc Martin Baltimore báo cáo thấy tàu chiến Ý tập kết tại Napoli. Dù vậy, Thiếu tướng Keith Park ở Malta vẫn không hề lo lắng và không cho máy bay của ông xuất kích tới khi đoàn vận tải Anh bắt đầu chịu những tổn thất đầu tiên; năm máy bay ném bom Wellington đã được cử đi truy tìm hạm đội Ý, 15 máy bay phóng lôi Beaufort và 15 máy bay tiêm kích Beaufighter được đặt vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Đợt tấn công quy mô nhất nhằm vào hạm đội Anh diễn ra vào tầm trưa bởi các máy bay cất cánh từ Sardinia:

  • Đợt 1: bao gồm mười máy bay ném bom Savoia-Marchetti SM.84 thuộc Liên đoàn Ném bom 38 (38° Gruppo BT), tám máy bay tiêm kích Fiat CR.42 gắn bom của Liên đoàn Tiêm kích 24 (24° Gruppo CT) và được hộ tống bởi 14 máy bay Macchi C.202 Folgore.
  • Đợt 2: theo sau đợt 1 năm phút, được tiến hành bởi chín máy bay ném bom Savoia-Marchetti SM.79 và mười chiếc SM.84 tấn công đoàn vận tải từ bên phải, được hộ tống bởi 21 máy bay tiêm kích Reggiane Re.2001, 21 chiếc SM.79 và 12 chiếc Re.2001 sẽ tấn công từ bên trái, tất cả đều nhằm vào các con tàu vận tải. Đợt thứ hai đã xuất kích trễ 15 phút do không đủ nhân viên kỹ thuật cơ khí cho các máy bay Re.2001, nên chỉ có 31 chiếc có thể cất cánh được.
  • Đợt 3: được tiến hành bởi một cặp máy bay Re.2001G/V được gọi là Sezione Speciale (Phi tuần Đặc biệt). Mỗi chiếc dự tính được lắp bom xuyên giáp tầm thấp 630 kg, nhưng được thay thế bởi bom mặt đất. Chúng sẽ bay kèm một chiếc SM.79 mang bom 1.000 kg và được điều khiển bằng sóng vô tuyến đặc biệt bởi Chuẩn tướng Ferdinando Raffaelli - Trưởng Phòng 5 (Phòng nghiên cứu kỹ thuật quân sự) của Bộ Tham mưu Không quân Hoàng gia Ý, từ một chiếc Cant Z1007. Đợt này được hộ tống bởi năm máy bay tiêm kích Fiat G.50 thuộc Liên đoàn Tiêm kích 24 (24° Gruppo CT).

Hai đợt tấn công đầu tiên không đạt được nhiều hiệu quả do vấp phải hỏa lực phòng không mạnh mẽ của người Anh, với không một quả bom và quả ngư lôi nào được ném trúng mục tiêu. Trong đợt tấn công thứ ba, chiếc SM.79 bị đứt sóng kết nối với chiếc Z1007 của tướng Raffaelli và đâm vào Mũi Khenchela ở Algeria, thay vì đâm vào hàng không mẫu hạm Anh như kế hoạch. Đội Sezione Speciale, do bị nhận dạng nhầm là máy bay Sea Hurricane, đã áp sát tàu chiến Anh thành công và cắt trúng hai quả bom vào hàng không mẫu hạm Victorious, một quả trong số nó phát nổ khiến sáu thủy thủ thiệt mạng và hai người khác bị thương. trái|nhỏ|Một tổ pháo phòng không 40mm Bofors trên tàu vận tải Melbourne Star Phối hợp với đợt hai và đợt ba của người Ý là 37 máy bay ném bom Ju 88 thuộc Không đoàn Ném bom 54 (Kampfgeschwader 54) và Không đoàn ném bom 77 (Kampfgeschwader 77), cất cánh từ Sicily và được hộ tống bởi 21 chiếc Bf 109. Người Đức đã làm nhiễu radar của người Anh ở Malta nên toàn bộ đội bay Đức, trừ bốn chiếc phải quay trở lại do lỗi kỹ thuật, đã qua mặt thành công bốn chiếc Fulmar làm nhiệm vụ đánh chặn. Đội bay này đã làm hư hại nặng tàu vận tải Deucalion, buộc con tàu phải tách ra khỏi đoàn vận tải với sự hộ tống của khu trục hạm HMS Bramham. Dù đã tung một số lượng lớn máy bay vào cuộc tấn công, bao gồm 117 máy bay Ý và 58 máy bay Đức, họ chỉ làm hư hại nhẹ hàng không mẫu hạm Victorious và tàu vận tải Deucalion. Hỏa lực phòng không của Anh đã khiến nhiều đội bay Ý phải cắt bom và ngư lôi sớm, nhưng chúng có thể quay trở lại Sardinia để tiếp tế, bổ sung nhiên liệu để chuẩn bị tấn công lần nữa. Một chiếc Cant Z1007 và vài máy bay khác của Luftwaffe tiếp tục bám đuôi theo dõi đoàn vận tải Anh.

Giải mã Enigma của người Anh cho biết vào lúc 18:30 ngày 12 tháng 8, một nhóm S-boat đã khởi hành từ Porto Empedocle ở Sicily đến Cap Bon và sẽ hoạt động trong khu vực cho đến khoảng 04:30 ngày 13 tháng 8. Lúc 21:45, tình báo Anh thu được bản báo cáo của Fliegerkorps II có tiết lộ rằng các chỉ huy phe Trục nghĩ có 51 tàu Anh ở Địa Trung Hải, bao gồm hai hàng không mẫu hạm, hai thiết giáp hạm, bảy tuần dương hạm và 20 khu trục hạm, Người Đức lầm tưởng rằng hạm đội này có một hàng không mẫu hạm lớp Yorktown của Hoa Kỳ, nhưng họ đã xác định chính xác hai thiết giáp hạm RodneyNelson. Đoàn vận tải được cho là có 13 tàu vận tải, chở theo và được bảo vệ bởi 10-16 máy bay chiến đấu và có hệ thống phòng không đáng kể. Tàu ngầm Ý, Brin, khi đang cố gắng áp sát đoàn vận tải thì bị lực lượng khu trục hạm tấn công và phải rút lui. Lúc 09:30, tàu ngầm Giada bị máy bay ném bom Short Sunderland tấn công khiến con tàu bị hư hại nhẹ ở ngoài khơi Algiers, và bị hư hại nặng hơn bởi cuộc tấn công của một chiếc Sunderland khác lúc 13:34.

Buổi chiều

nhỏ|Thủy thủ đoàn của tàu ngầm Cobalto đang nằm nghỉ ngơi trên khu trục hạm Ithuriel. Họ được cứu sống sau khi Cobalto bị Ithuriel đâm chìm vào giữa chiều ngày 12 tháng 8 năm 1942 Lúc 16:30, tàu ngầm Emo của Ý tiếp cận đoàn vận tải và vào vị trí để tấn công hàng không mẫu hạm của người Anh. Khi còn cách mục tiêu khoảng , đoàn vận tải bất ngờ đổi hướng khiến Emo phải chuyển mục tiêu, bắn bốn quả ngư lôi và lặn xuống. Đoàn vận tải tiếp tục đổi hướng khiến bốn quả ngư lôi đều trượt, và Emo bị hoa tiêu từ khu trục hạm Tartar phát hiện. Khu trục hạm Lookout tách khỏi đoàn và nhanh chóng tiến về vị trí có kính tiềm vọng trồi lên, nhưng thực chất đó là kính tiềm vọng của tàu ngầm AvorioAvorio phải lặn khẩn cấp để tránh Lookout; đến 17:40, Lookout quay trở về đội hình chính. Lúc 16:49, tàu ngầm Cobalto bị khu trục hạm Ithuriel tấn công bằng mìn chống ngầm, buộc con tàu phải nổi lên và bị Ithuriel húc chìm lúc 17:02. Ithuriel mất hai thủy thủ sau khi hai người này trèo vào trong chiếc tàu ngầm để giữ cho tàu nổi, hai thủy thủ Ý mất tích và những người còn lại đã được người Anh cứu sống. Do chịu hư hỏng nặng bởi cú đâm và mất hệ thống Asdic trong quá trình đó, Ithuriel được lệnh quay trở về Gibraltar để sửa chữa. Để làm giảm thiểu mối đe dọa của tàu ngầm Ý, Đô đốc Syfret đã ra lệnh cho hai khu trục hạm ở hai bên cánh đoàn vận tải, cứ mười phút thì thả bom chìm một lần để tàu ngầm Ý không dám tiếp cận hạm đội của ông. trái|nhỏ|Một quả bom được thả trượt về phía đuôi của tàu vận tải MS Glenorchy, 12 tháng 8 năm 1942 Các đơn vị bay của Regia Aeronautica ở Sardinia đã tập hợp được đội bay tấn công gồm tám máy bay ném bom bổ nhào Cr.42, chín máy bay hộ tống Re.2001 và thêm chín chiếc SM.79 xuất phát từ Decimomannu. Đội SM.79 không tìm thấy mục tiêu và một chiếc Re.2001 bị máy bay của Phi đoàn 806 bắn hạ. Khi đoàn vận tải đi qua vĩ tuyến 10, 105 máy bay ở Sicily được lệnh sẵn sàng xuất kích theo ba đợt khác nhau. Tuy nhiên, họ không có máy bay hộ tống, do toàn bộ số máy bay Re.2001 thuộc Liên đoàn Tiêm kích số 2 (2° Gruppo CT) đã rời Sicily để hộ tống các đội bay từ Sardinia và đã hạ cánh ở Sardinia. Do đó, các đội bay ném bom và phóng lôi được lệnh bay về Pantelleria để phối hợp với Liên đoàn Ném bom 51. Tại thời điểm đó, đội bay Fulmar từ hàng không mẫu hạm Victorious đã đánh chặn và bắn hạ thành công một chiếc SM.79 của Ý đang theo dõi hạm đội Anh, nhưng không tìm ra chiếc Cant Z1007 còn lại. Fliegerkorps II dù được lệnh phối hợp với không quân Ý, nhưng cả hai bên đều hoạt động độc lập. Liên đoàn I của Không đoàn Ném bom Bổ nhào số 3 (I Gruppe, Sturzkampfgeschwader 3), đã được điều động từ Trapani đến Elmas, với tổng cộng 20 máy bay ném bom bổ nhào Ju 87 được hộ tống bởi máy bay tiêm kích Bf 109.

Buổi tối

nhỏ|Hàng không mẫu hạm [[HMS Indomitable (92)|Indomitable bốc cháy sau khi trúng hai quả bom 1.000 kg được thả từ máy bay Đức, 12 tháng 8 năm 1942. Tuần dương hạm Charybdis đang di chuyển ngược hướng với Indomitable ở bên phải]] Lúc 18:35, mây bắt đầu tan và những chiếc Ju 87 của Ý thuộc Liên đoàn Ném bom 102 bắt đầu tấn công hạm đội Anh. Nhóm Ju 87 này đã bị radar của Anh phát hiện ở khoảng cách , và ba chiếc Martlet, 12 chiếc Sea Hurricane và ba chiếc Fulmar được lệnh xuất kích đánh chặn, nhưng chúng vấp phải đợt kháng cự của các đội bay tiêm kích hộ tống MC.202 và Bf 109. Đội ném bom/phóng lôi khéo léo lách qua các tốp máy bay Anh và tấn công một cách bài bản, những chiếc Ju 87 lần lượt bổ nhào vào từng con tàu trong khi đội máy bay phóng lôi tổ chức tấn công thành ba đợt. Một quả bom được ném suýt trúng thiết giáp hạm Nelson, trong khi đó hàng không mẫu hạm Indomitable trúng hai quả bom vào cuối đường băng, khiến 50 thủy thủ thiệt mạng và 59 người bị thương, và làm con tàu thất tốc xuống còn . Đến 20:30 cùng ngày, thủy thủ đoàn của Indomitable đã khắc phục được về vận tốc , nhưng đường băng của tàu đã bị hỏng quá nặng nên toàn bộ số máy bay phải hạ cánh xuống chiếc Victorious. trái|nhỏ|Thiệt hại trên dường băng của hàng không mẫu hạm [[HMS Indomitable (92)|Indomitable sau khi trúng hai quả bom được thả từ máy bay ném bom Đức]] Trong khi Indomitable đang quằn quại thì con tàu tiếp tục bị các tốp máy bay phóng lôi SM.79 của Ý tấn công. Tuy nhiên, chúng vấp phải hỏa lực phòng không dữ dội của tàu Charybdis, Lookout, LightningSomali. Chỉ có 12 chiếc SM.79 cắt được ngư lôi thành công ở khoảng cách ; một quả trong số đó ném trúng đuôi của khu trục hạm Foresight, vô hiệu hóa con tàu và Foresight được đánh đắm vào ngày hôm sau. Đợt tấn công cuối cùng được tiến hành bởi 12 chiếc SM.79 và 28 chiếc Ju 87, nhưng không gây được bất kỳ thiệt hại nào cho đội tàu Anh, đổi lại họ mất hai chiếc Ju 87 và hai chiếc khác bị hư hại. Sau khi máy bay Ý quay trở về Pantelleria, chúng bị tấn công đánh phá bởi ba máy bay Beaufighter. Cuộc tấn công đã phá hủy một kho nhiên liệu của Luftwaffe, bắn cháy một chiếc Ju 52, làm hỏng hai chiếc SM.79 và một chiếc SM.84, và khiến một phi công Ý tử trận. Các đội bay Đức-Ý báo cáo rằng họ đã gây thiệt hại cho một hàng không mẫu hạm, một tuần dương hạm, một khu trục hạm và một tàu vận tải cỡ lớn, trong khi đó người Anh tuyên bố đã bắn hạ 39 máy bay Đức-Ý.

Việc mất Eagle cùng 16 máy bay và Indomitable hư hại nặng khiến 47 máy bay của tàu không thể xuất kích, đã làm giảm số lượng máy bay trực chiến của Anh xuống còn tám chiếc Sea Hurricane, ba chiếc Martlet và mười chiếc Fulmar. Đô đốc Syfret quyết định sẽ cho Lực lượng Z đổi hướng về phía tây và tiến về Eo biển Skerki lúc 19:15, nhưng đã cho tiến hành lúc 18:55 để kịp đưa Indomitable ra khỏi tầm hoạt động của máy bay đối phương. Thiết giáp hạm Rodney sau đó gặp trục trặc về nồi hơi nên toàn bộ Lực lượng Z phải giảm tốc độ xuống còn để Rodney có thể bắt kịp. Dựa vào báo cáo về số máy bay Đức-Ý tham gia tấn công trong ngày, Syfret tin rằng sẽ không còn một đợt tấn công nào khác ở Eo biển Skerki từ trước nửa đêm đến muộn nhất là sau bình minh. 40 phút sau khi Lực lượng Z đổi hướng, một máy bay trinh sát của Luftwaffe đã phát hiện ra hạm đội của Burrough, lúc này đang cách Malta khoảng và không có máy bay hỗ trợ. Bốn chiếc Fulmar làm nhiệm vụ hỗ trợ đã quay trở về căn cứ để tiếp liệu, với một chiếc bị bắn hạ và một chiếc khác bị máy bay Đức bắn hỏng nhẹ. Lúc 18:55, đội tàu còn lại, dưới sự chỉ huy của Đô đốc Burrough tiếp tục lộ trình về Malta với sự hỗ trợ của Lực lượng X (xuất phát từ Malta); Lực lượng R đổi hướng di chuyển về phía tây Địa Trung Hải và sẽ hỗ trợ khi cần thiết, tới khi được lệnh quay trở về Gibraltar.

Đêm, ngày 12/13 tháng 8

nhỏ|[[HMS Nigeria (60)|HMS Nigeria nghiêng ngặng về mạn trái sau khi trúng ngư lôi từ tàu ngầm Ý]] Khoảng 20:00, đoàn vận tải xếp thành đội hình hai hàng dọc để đi qua Eo biển Skerki, hàng bên phải do tuần dương hạm Kenya dẫn đầu và Manchester di chuyển ở giữa, hàng bên trái được tuần dương hạm Nigeria dẫn đầu và Cairo ở giữa, với mười khu trục hạm di chuyển ở vòng ngoài và xung quanh hai hàng. Năm tàu ngầm Ý đã phục sẵn và vào lúc 19:38, tàu ngầm Dessiè bắn bốn quả ngư lôi về phía một tàu vận tải ở khoảng cách 1.800 m và nghe thấy ba tiếng nổ lớn. Tiếng nổ này thực chất xuất phát từ những quả ngư lôi được tàu ngầm Axum bắn trúng tuần dương hạm Nigeria, Cairo và tàu chở dầu Ohio. Ohio bị thủng một lỗ lớn có diện tích 7,0 m × 7,9 m ở bên mạn phải, tạo đám cháy lớn; thủy thủ đoàn nhanh chóng dập tắt đám cháy và đưa con tàu về vận tốc . Do Nigeria bị hư hại rất nặng, Đô đốc Burrough phải chuyển cờ hạm sang khu trục hạm Ashanti, và cho bốn khu trục hạm ở lại để bảo vệ các con tàu bị hỏng, khiến hạm đội vận tải mất đi một nửa số tàu hộ tống. Đô đốc Syfret sau đó cho tách tuần dương hạm Charybdis và hai khu trục hạm EskimoSomali từ Lực lượng Z về hỗ trợ cho Lực lượng X. Tuần dương hạm Cairo bị đánh đắm bởi khu trục hạm Derwent do bị hỏng nặng đến mức không thể cứu tàu, và Nigeria được lệnh quay trở về Gibraltar với các khu trục hạm Derwent, WiltonBicester.

Lúc 20:35, radar của Anh phát hiện ra 30 máy bay ném bom Ju 88 của KG 54 và KG 77, bảy máy bay He 111 từ KG 26 và được hộ tống bởi sáu máy bay tiêm kích Bf 110 thuộc Không đoàn Tiêm kích Hạng nặng 26 (Zerstörergeschwader 26 - ZG 26), đang tiến thẳng về vị trí của hạm đội Anh. Sáu máy bay Beaufighter thuộc Phi đoàn 248 xuất hiện để đánh chặn nhưng bị bắn nhầm bởi các tổ đội phòng không Anh. Khu trục hạm AshantiPenn xả khói bảo vệ mạn tây của đoàn vận tải, và dù mặt trời đã lặn lúc 20:10, điều đó cũng không ngăn chặn được đợt tấn công của máy bay Đức. Tàu vận tải Brisbane Star trúng một quả ngư lôi vào mũi tàu, khiến nó chững lại giữa biển, và khôi phục được về vận tốc . Tàu vận tải Clan Ferguson trúng ngư lôi và chìm sau khi hầm chứa đạn của tàu phát nổ, tàu vận tải Rochester Castle bị hư hại nhẹ và tàu Empire Hope bị đánh đắm bởi một khu trục hạm Anh do thiệt hại nặng vượt quá khả năng sửa chữa. Lúc 21:05, tàu ngầm Ý Alagi bắn bốn quả ngư lôi về phía tuần dương hạm Kenya, một quả trong số đó phát nổ ở phần đuôi bên phải của Kenya dù con tàu đã đánh lái hết cỡ. Dù Kenya vẫn đủ khả năng bắt kịp đoàn vận tải, nhưng Lực lượng Z chỉ còn duy nhất chiếc Manchester chưa bị hư hại. Tàu ngầm Ý Bronzo báo cáo rằng họ đã bắn chìm tàu vận tải Deucalion, thuyền trưởng của tàu ngầm Alagi báo cáo bắn hạ tàu vận tải Empire Hope, làm hư hại chiếc Kenya và nói thêm rằngLúc 23:56, đoàn vận tải vòng về phía nam Quần đảo Zembra và hướng về Kelibia để tránh các bãi thủy lôi, với đội hình vẫn còn lộn xộn. Ba khu trục hạm làm nhiệm vụ quét mìn dẫn đầu đoàn, theo sau là hai tuần dương hạm Kenya, Manchester và hai tàu chở hàng. Tuần dương hạm Charybdis và hai khu trục hạm EskimoSomali vẫn còn cách đoàn vận tải khoảng vài giờ di chuyển, và khu trục hạm Ashanti được lệnh tăng tốc lên bảo vệ khu vực trung tâm đoàn vận tải. Ba khu trục hạm còn lại phụ trách chín tàu vận tải còn sống sót, và khu trục hạm Bramham được lệnh quay trở lại bảo vệ đoàn tàu sau khi tàu vận tải Deucalion bị bắn chìm. Vào 00:40, đoàn vận tải bị tấn công bởi bốn xuồng cao tốc phóng lôi thuộc Hải đoàn III của Đức và 13 xuồng cao tốc phóng lôi thuộc Chi hạm đội 18° MAS, 2° MS và 20° MAS của Ý, trong 15 đợt liên tục. Radar của các xuồng thuộc Chi hạm đội 18° MAS phát hiện ra đoàn vận tải Anh ở phía đông nam Pantelleria. Ban đầu, các xuồng Ý tấn công vào đội tàu dẫn đầu đoàn vận tải, nhưng bị bắn trả ác liệt và không quả ngư lôi nào được phóng trúng. Sau đó họ chuyển sang tấn công các tàu vận tải. trái|nhỏ|Tuần dương hạm [[HMS Charybdis (88)|Charybdis đang bắn trả các đợt tấn công của xuồng phóng lôi Ý, Cape Bon, Tunisia, đêm ngày 12/13 tháng 8 năm 1942]] Đoàn vận tải Anh nhanh chóng bị ngọn hải đăng ở Cap Bon chiếu sáng làm lộ vị trí, lúc đó đang cách bờ biển khoảng . Xuồng S-58S-59 của Đức phát hiện ra con tàu đầu tiên lúc 00:20 và tấn công. S-58 bị hư hại và phải rút về Port Empedocle, trong khi đó S-59 tuyên bố bắn chìm một tàu vận tải ở vị trí cách Cap Bon khoảng về phía đông bắc, nhưng không có tàu nào bắn chìm ở vị trí đó theo báo cáo của Anh. Lúc 01:02, gần Ras Mustafa, xuồng MS 16MS 22 tấn công và bắn trúng một quả ngư lôi vào tuần dương hạm Manchester. Quả ngư lôi bắn trúng khoang nồi hơi, khoang chứa nhiên liệu và hầm đạn của tàu, làm hỏng hẳn ba trong số bốn trục động cơ và khiến Manchester nghiêng 12°, sau đó được thủy thủ đoàn khắc phục xuống còn 5°. Tàu vận tải Waimarama, Almeria LykesGlenorchy đi vòng qua Manchester và nhanh chóng tụt khỏi đội hình. Dù hệ thống điện của Manchester đã được phục hồi và khoảng 170 người bị thương đã được chuyển qua khu trục hạm Pathfinder, nhưng vào lúc 05:00, Đại tá Harold Drew - thuyền trưởng của Manchester, đã quyết định đánh đắm tàu và cho người của ông bơi vào bờ biển

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**HMS _Eagle**_ là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó được đặt lườn trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra như là chiếc thiết giáp hạm _Almirante Cochrane_
**HMS _Ledbury_ (L90)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy năm 1941 và đưa ra phục vụ năm 1942. Nó đã
**HMS _Tartar_ (L43/F43)** là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến
**HMS _Lookout_ (G32)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong suốt Chiến
**HMS _Manchester_ (15)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp Town (1936), từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và đã bị tàu
**HMS _Matchless_ (G52)** là một tàu khu trục lớp M được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong suốt Chiến
**HMS _Foresight_ (H68)** là một tàu khu trục lớp F được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó hoạt động như
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**HMS _Victorious_ (R38)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các hoạt động của nó trong những năm 1941 và 1942
**HMS _Charybdis_ (88)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và đã bị
**HMS _Laforey_ (G99)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong Chiến tranh
**HMS _Indomitable_ (92)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh thuộc lớp _Illustrious_ cải tiến. Nó từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các chiến trường Ấn
**Lớp tàu tuần dương _Crown Colony**_ là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; được đặt tên theo
**Lớp tàu tuần dương C** là một nhóm bao gồm hai mươi tám tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh thế giới
**HMS _Antelope_ (H36)** là một tàu khu trục lớp A của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, góp công vào việc đánh chìm ba
**HMS _Welshman_ (M48)** là một tàu rải mìn thuộc lớp _Abdiel_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó từng phục vụ cùng Hạm đội Nhà,
**HMS _Badsworth_ (L03)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1941. Nó đã hoạt
**HMS _Furious**_ là một tàu tuần dương hạng nhẹ lớn thuộc lớp _Glorious_ cải tiến (một dạng phát triển cực đoan của tàu chiến-tuần dương) của Hải quân Hoàng gia Anh được cải biến thành
**HMS _Sirius_ (82)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó ngừng hoạt
**HMS _P222**_ là một tàu ngầm Lớp _S_ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó được biên chế vào năm 1942 và thực hiện nhiệm vụ
**HMS _Catterick_ (L81)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu III của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy năm 1941 và nhập biên chế năm 1942. Nó đã hoạt
**HMS _Intrepid_ (D10)** là một tàu khu trục lớp I được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, và đã phục vụ trong cuộc chiến tranh
**HMS _Cairo_ (D87)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương _C_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ
**HMS _Cleopatra_ (33)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó ngừng hoạt
**HMS _Icarus_ (D03)** là một tàu khu trục lớp I được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã phục vụ cho đến khi xung đột
**HMS _Kelvin_ (F37)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Kelvin_ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ
**HMS _Nigeria_ (60)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ lớp Crown Colony của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; được đặt tên theo Nigeria, vốn vẫn còn là một thuộc địa của Đế quốc
**HMS _Somali_ (L33/F33/G33)** là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II,
**HMS _Ithuriel_ (H05)** là một tàu khu trục lớp I của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nguyên được Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ đặt hàng cho hãng Vickers Armstrong như là chiếc **TCG _Gayret**_,
**HMS _Bicester_ (L34)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy năm 1941 và đưa ra phục vụ vào năm 1942. Nó
**HMS _Kenya_ (14)** (sau đổi thành C14) là một tàu tuần dương hạng nhẹ lớp Crown Colony của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; được đặt tên theo lãnh thổ Kenya, vốn là một thuộc
**HMS _Penn_ (Pennant G77)** là một tàu khu trục lớp P được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào
**Gibraltar** ( , ) là một Lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh và tồn tại như một thành bang nằm ở mũi phía nam của Bán đảo Iberia. Nó có diện tích 6,7 km2 (2,6
**Sir Max Hugh Macdonald Hastings** (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1945) là một nhà báo và nhà sử học quân sự người Anh, ông từng làm việc dưới vai trò phóng viên tại nước
**Humvee** là loại xe được sản xuất để sử dụng trong quân đội Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1980. Tên tiếng Anh là _High Mobility Multipurpose Wheeled Vehicle_ (HMMWV – xe đa dụng với
**Sự kiện năm 1956 ở Hungary**, còn gọi là **Cuộc khủng hoảng ở Hungary** **Cách mạng Hungary năm 1956** Hungary năm 1956''' là một cuộc bạo động đồng thời trên cả nước kéo dài từ
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
**Đế quốc Akkad** (Tiếng Akkad: 𒆳𒌵𒆠 ; Tiếng Sumer: 𒀀𒂵𒉈𒆠 , Nghĩa đen: "vùng đất của người Akkad"; Tiếng Hebrew: אַכַּד _Akkad_) là đế quốc cổ đại đầu tiên nói tiếng
**Chùa Phật Tích** (Phật Tích tự 佛跡寺) còn gọi là **chùa Vạn Phúc** (Vạn Phúc tự 萬福寺) là một ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non