✨Trận chiến biển San Hô

Trận chiến biển San Hô

Trận chiến biển Coral hay Trận chiến biển San Hô là trận hải chiến diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai từ ngày 4 tháng 5 đến ngày 8 tháng 5 năm 1942 giữa Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Hải quân Hoa Kỳ. Địa điểm diễn ra trận đánh là biển Coral (hay biển San Hô) nằm giữa Úc, New Guinea và quần đảo Solomon thuộc Thái Bình Dương.

Trận đánh này được xem là cuộc chạm trán lần đầu tiên giữa các tàu sân bay trong lịch sử. Kết thúc trận đánh, tổn thất của Hoa Kỳ cao hơn so với Nhật Bản, nhưng Hải quân Hoa Kỳ đã phá tan kế hoạch tấn công Úc của Nhật, đồng thời tạo ra những tình thế có lợi cho người Mỹ trước trận đánh quyết định sau đó 1 tháng của chiến trường Thái Bình Dương - Trận Midway.

Hoàn cảnh diễn ra trận đánh

Ngày 7 tháng 12 1941, Nhật bất ngờ tấn công hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ tại Trân Châu cảng (Pearl Harbor), mở màn mặt trận Thái Bình Dương. Đến mùa hè 1942, đế quốc Nhật đã thống trị 1 vùng lãnh thổ gần 8 triệu km² bao gồm nhiều vùng đất ở Đông Á, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Trong khi đó, quân Đồng Minh sau những thất bại liên tiếp buộc phải có thời gian để hồi phục và chuẩn bị lực lượng phản công. Do đó, chiến thuật của quân Đồng Minh vào thời điểm đó là thiết lập 1 vành đai phòng thủ trên Thái Bình Dương. Hải quân Mỹ tổ chức phòng thủ tại New Caledonia, phía nam quần đảo Solomon còn hải quân Australia phòng thủ quanh khu vực phía đông và nam New Guinea. Tướng Douglas MacArthur lui về Australia thành lập bộ tư lệnh Tây Thái Bình Dương ở Melbourne.

Trong khi đó, bộ chỉ huy Nhật Bản bước vào năm 1942 có sự tranh cãi giữa hải quân và lục quân về phương hướng chiến lược. Trong khi lục quân Nhật có ý định củng cố vững chắc các lãnh thổ đã chiếm được thì ngược lại hải quân lại cho rằng mọi thành quả vừa đạt được sẽ không thể giữ lâu bền nếu quân Nhật chỉ giới hạn trong việc phòng thủ.. Trong tình hình đó, người Nhật hoàn toàn có thể có thể tiến hành các chiến dịch đánh chiếm Úc, Ấn Độ, Hawaii và các căn cứ quan trọng khác trên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Đó sẽ là vành đai phòng thủ từ xa của Nhật Bản.

Ngày 11 và 12 tháng 3 1942, thủ tướng Nhật Hideki Tōjō đã tuyên bố tại đài phát thanh Tokyo và Quốc hội Nhật:

"Australia và New Zealand hiện đang nằm trong tầm tay của quân đội đế quốc Nhật và họ nên hiểu rằng chờ đợi sự tiếp viện vào thời điểm này là vô ích. Nếu chính phủ Australia vẫn không thay đổi chính sách đối ngoại thì họ sẽ phải chịu chung số phận với Indonesia, thuộc địa Hà Lan".

Từ Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, các lực lượng Nhật Bản ngày càng tiến xa hơn về phía Nam và đe dọa Úc. Tháng 4 1942, quân đội Nhật xây dựng căn cứ tại Rabaul gần đảo New Britain, phía bắc New Guinea. Không quân Nhật cũng nhiều lần oanh tạc xuống hải cảng Darwin trên bờ biển phía Bắc nước Úc. Ý định của người Nhật là mở 2 hướng tấn công: 1 đổ bộ vào cảng Moresby và 2 là Tulagi thuộc quần đảo Solomon để có thể đưa vùng đông bắc Australia vào tầm khống chế và kiểm soát quần đảo Solomon. Phó đô đốc Shigeyoshi Inoue thành lập bốn lực lượng xung kích khác nhau gồm phó đô đốc Kiyohide Shima chỉ huy lực lượng tấn công Tulagi; phó đô đốc Marushige hành quân tại quần đảo Louisiade; phó đô đốc Sadamichi Kajioka chỉ huy lực lượng tấn công Morseby và phó đô đốc Aritomo Goto chỉ huy không lực trên các mẫu hạm. Các tư lệnh Nhật Bản rất lạc quan vì tưởng rằng hải quân Mỹ chỉ có một mẫu hạm trong vùng.

Hải quân đế quốc Nhật đã tổ chức 1 hạm đội với lực lượng gồm 2 hàng không mẫu hạm hạng nặng Shōkaku và Zuikaku (cả hai hàng không mẫu hạm này đều đã tham gia trận Trân Châu cảng), 1 hàng không mẫu hạm nhỏ Shōhō, 4 tuần dương hạm và một số tàu chở hàng cho kế hoạch tấn công. Tuy nhiên động hướng tấn công của quân Nhật đã bị phân đội Custer của tình báo Mỹ giải mã thành công nên hải quân Mỹ đã có kế hoạch đối phó. Hàng không mẫu hạm Yorktown đã có mặt tại biển Coral (biển San Hô) dưới sự chỉ huy của đô đốc Frank Jack Fletcher cùng với hàng không mẫu hạm USS Lexington đang trên đường đến. 2 hàng không mẫu hạm khác của Mỹ là HornetEnterprise đang ở quá xa chiến trường nên đã không thể tham gia trận đánh này.

Diễn biến

Tulagi

Lexington cuối cùng đã gặp mặt Yorktown vào ngày 1 tháng 5 1942. Phía Nhật do phó đô đốc Kiyohide Shima chỉ huy đã tấn công và chiếm Tulagi vào ngày 3 tháng 5 rồi ngay lập tức tổ chức xây dựng tại đây 1 căn cứ thủy phi cơ. Ngày hôm sau lực lượng tấn công hải cảng Morseby bắt đầu di chuyển, có một chiến hạm nhẹ và sáu khu trục hạm yểm trợ. Cũng vào ngày đó, sau khi được nạp nhiên liệu đầy đủ, Yorktown đã mở 3 cuộc tấn công tại Tulagi, đánh chìm khu trục hạm Kikuzuki và 5 tàu chở hàng của Nhật. Căn cứ thủy phi cơ của Nhật cũng bị tàn phá. Sau đợt tấn công này, Yorktown tiến xuống phía nam để gặp lại Lexington. Sau cuộc tấn công này của quân Mỹ, lực lượng của phó đô đốc Takeo Takagi đang ở phía bắc quần đảo Solomons được lệnh phải tiến gấp tới đối đầu với hạm đội Mỹ. Lực lượng Nhật Bản có nhiệm vụ tiến chiếm hải cảng Morseby vẫn tiếp tục cuộc hành quân và được lực lượng của phó đô đốc Aritomo Goto bảo vệ.

Ở một nơi nào đó về phía Bắc, mười một tàu vận tải đổ bộ được hộ tống bởi các tàu khu trục và được yểm trở bởi chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Shōhō, bốn tàu tuần dương hạng nặng và một tàu khu trục, đang hướng tới cảng Moresby. Thêm vào đó, một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản khác - xây dựng chung quanh hai cựu binh của trận Trân Châu Cảng là các tàu sân bay ShōkakuZuikaku, và được hộ tống bởi hai tàu tuần dương hạng nặng và sáu tàu khu trục cung cấp sự hỗ trợ từ trên không.

6 tháng 5

Sáng ngày 6 tháng 5, Đô đốc Fletcher tập hợp mọi lực lượng Đồng Minh dưới quyền chỉ huy chiến thuật của ông thành Lực lượng Đặc nhiệm TF 17. Sáng sớm ngày 7, ông tách Đô đốc Crace cùng các tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền hướng đến quần đảo Louisiade để đánh chặn mọi lực lượng đối phương dự định hướng đến cảng Moresby.

Ngày 6 tháng 5, từ các căn cứ mặt đất, các "pháo đài bay" B-17 của Đồng Minh xuất kích ném bom hạm đội Nhật đổ bộ tấn công cảng Moresby nhưng hiệu quả thu được của đợt oanh tạc này không cao. Trong ngày này, cả hai hạm đội Mỹ và Nhật tiếp tục ra sức tìm kiếm nhau trên mặt biển nhưng thời tiết xấu đã ngăn cản điều đó. Các máy bay chiến đấu của phe Đồng Minh liên tục được tăng cường cho trận đánh từ các phi trường tại Cooktown và Mareeba thuộc Cape York Peninsula, Australia. Chiếc Shōhō đang bốc cháy sau khi trúng [[ngư lôi.]] Đêm hôm đó, đô đốc Frank Jack Fletcher, người được giao trọng trách bảo vệ cảng Moresby đã đưa ra một quyết định khó khăn khi điều lực lượng đặc nhiệm 44 thuộc quyền Chuẩn Đô đốc người Australia John Crace chặn tất cả các con đường mà từ đó hạm đội Nhật có thể đổ bộ. Lực lượng trong tay Crace lúc đó bao gồm các tuần dương hạm HMAS Australia, HMAS Hobart và USS Chicago, các khu trục hạm USS Perkins, USS Walke và USS Farragut. Fletcher và Crace đều hiểu rằng khi tung các tàu chiến vào trận đánh mà thiếu sự yểm trợ trên không thì thảm kịch của 2 chiến hạm khổng lồ của Anh HMS Prince of Wales và HMS Repulse cách đây 5 tháng có thể sẽ lặp lại. Nỗi sợ hãi của họ suýt nữa đã trở thành hiện thực khi hạm đội của Crace bị máy bay Nhật tấn công bằng ngư lôi vào chiều ngày 7 tháng 5 tuy nhiên các tuần dương hạm của họ chỉ bị thương nhẹ và gặp tổn thất không đáng kể. Một điều hy hữu đã xảy ra: sau đợt tấn công trên của phi đội Nhật vài phút, hạm đội của Crace đã bị các máy bay B-17 của phe mình vô tình tấn công nhầm nhưng may mắn là không có điều gì đáng tiếc xảy ra.

7 tháng 5

nhỏ|Shōkaku bị trúng bom vào ngày [[8 tháng 5 1942]] Sáng ngày 7 tháng 5, máy bay trinh sát của Nhật tưởng đã phát hiện được hạm đội Mỹ nên ngay lập tức báo tin về cho bộ chỉ huy. Đô đốc Takeo Takagi thấy cơ hội đã đến liền hạ lệnh cho gần 100 máy bay ném bom và máy bay tiêm kích tấn công. Tuy nhiên khi đến gần mục tiêu các máy bay Nhật mới phát hiện ra đó chỉ là tàu chở dầu cỡ lớn Neosho chứ không phải là hàng không mẫu hạm như trinh sát báo cáo. Chiếc tàu chở dầu này ngay lập tức bị đánh chìm cùng tàu khu trục Sims đi theo hộ tống. Chiếc Sims, do hệ thống pháo phòng không bị hỏng, bị đánh trúng ba quả và chìm nhanh chóng với tổn thất nhân mạng nặng nề. Chiếc Neosho may mắn hơn, cho dù bị đánh trúng trực tiếp bảy quả cùng tám quả gần trúng đích, vẫn còn nổi được đến tận ngày 11, khi những người còn sống sót được tàu khu trục Henley cứu thoát và xác tàu được chiếc tàu khu trục cho đánh chìm.

Trong khi đó, các máy bay ném bom của Mỹ cũng bị hướng dẫn sai đường nên đã bỏ lỡ cơ hội tấn công 2 hàng không mẫu hạm Shōkaku và Zuikaku của Nhật nhưng may mắn trên đường rút về đã phát hiện hàng không mẫu hạm nhỏ Shōhō. 53 máy bay ném bom tuần tiễu, 22 máy bay ném ngư lôi và 15 máy bay tiêm kích từ các tàu sân bay USS Lexington và USS Yorktown lao vào tấn công chiếc Shōhō. Trúng phải bảy ngư lôi và 13 quả bom, Shōhō ngã gục nhanh chóng và bị chìm lúc 08 giờ 35 phút với tổn thất 631 người. Thuyền trưởng Izawa cùng 202 người khác được vớt lên bởi chiếc tàu khu trục Sazanami.

Shōhō trở thành chiếc tàu sân bay Nhật Bản đầu tiên bị đánh chìm tại Mặt trận Thái Bình Dương và tin này nhanh chóng được báo về đại uý hải quân Robert E. Dixon lúc đó đang trên tàu Lexington. Một phi công của Lexington đã báo cáo chiến thắng này bằng một thông điệp radio nổi tiếng "Xóa sổ một tàu sân bay" (Scratch one flattop).

Chiều hôm đó, ShōkakuZuikaku, vốn chưa được lực lượng của Đô đốc Fletcher tìm thấy, đã tung ra 27 chiếc máy bay ném bom và máy bay phóng ngư lôi để tìm kiếm các tàu Mỹ. Những chuyến bay này tỏ ra êm ả cho đến khi chúng chạm trán cùng các máy bay tiêm kích của YorktownLexington, và bị bắn rơi chín chiếc trong cuộc không chiến diễn ra sau đó. 18 chiếc còn lại đã không đánh trúng được các tàu chiến Mỹ.

Lúc trời chập tối, ba chiếc máy bay Nhật nhận nhầm chiếc Yorktown là tàu sân bay của mình và dự định hạ cánh. Các khẩu súng trên tàu đã đuổi chúng đi; và các máy bay đối phương đã bay lướt qua mũi chiếc Yorktown trước khi chuyển hướng mất dạng. Hai mươi phút sau, khi có thêm ba máy bay đối phương lại tìm cách hạ cánh trên chiếc Yorktown, các xạ thủ súng lần này đã bắn trúng một trong ba chiếc.

8 tháng 5

6 tháng 5:
Tàu chở dầu, SimsNeosho, tàu sân bay LexingtonYorktown
Tàu sân bay Shoho, ShokakuZuikaku

7 tháng 5:
Tuần dương hạm Mỹ --- Máy bay ném bom Mỹ từ tàu sân bay --- Máy bay ném bom Nhật từ tàu sân bay --- Phi trường mặt đất của Đồng Minh --- phi trường mặt đất của Nhật
1. Sims chìm cùng Neosho.
2. Shoho bị đánh chìm.
3. Tuần dương hạm Mỹ bị tấn công nhưng tổn thất không cao.
8 tháng 5:
4.LexingtonYorktown bị tấn công.
5. Shokaku bị tấn công.
6. Lexington chìm. Sáng ngày 8 tháng 5, một máy bay của Lexington đã tìm thấy đội tàu sân bay Nhật; một cuộc tấn công được các tàu sân bay Mỹ tung ra ngay lập tức. Cũng trong sáng hôm đó, một số lớn các máy bay Nhật trên 2 hàng không mẫu hạm trên theo lệnh của Takeo Takagi đã cất cánh đi tìm hạm đội Mỹ.

Hai hạm đội Mỹ và Nhật cuối cùng đã chạm trán nhau ở khoảng cách 175 hải lý. Các máy bay chiến đấu trên hàng không mẫu hạm của cả hai bên đều đồng loạt xuất kích. Hàng không mẫu hạm Zuikaku nhờ lẩn dưới mưa giông nên không bị phát hiện còn Shōkaku bị trúng 3 quả bom, sàn tàu bị tàn phá nặng nề làm cho các máy bay còn lại trên tàu không thể tham gia trận đánh khiến Shōkaku xem như mất khả năng chiến đấu. Các đòn tấn công của hai tàu sân bay Mỹ đã khiến 108 thủy thủ Nhật thiệt mạng và làm bị thương 40 người khác.

Các máy bay Nhật trên đường trở về đã phát hiện ra hạm đội Mỹ và ngay lập tức tấn công. Những chiếc máy bay Wildcat Mỹ tuần tra chiến đấu trên không đã bắn rơi 17 máy bay Nhật, nhưng một số đã tìm cách vượt qua được hàng phòng thủ. Lúc 11 giờ 20 phút, các máy bay Nakajima B5N phóng ra những quả ngư lôi từ cả 2 phía của chiếc Lexington, và nó trúng phải một ngư lôi bên mạn trái. Vài giây sau, một ngư lôi thứ hai đánh trúng mạn trái ngay phía trước cầu tàu. Cùng lúc đó, Lexington trúng phải ba trái bom từ các máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A, khiến nó bị nghiêng 7 độ về mạn trái và phát sinh nhiều đám cháy ở các sàn bên dưới và các thang nâng máy bay không hoạt động.

Trong lúc đó USS Yorktown cũng bị tấn công. Thuyền trưởng Elliott đã điều khiển cơ động chiếc tàu sân bay lẩn tránh được tám ngư lôi. Bị tấn công sau đó bởi những chiếc "Vals", chiếc tàu đã tìm cách né tránh được tất cả ngoại trừ một quả bom. Quả bom duy nhất này đã xuyên thủng sàn đáp và phát nổ ở các sàn bên dưới, làm thiệt mạng hay bị thương nặng 66 người.

USS Lexington đang bốc cháy Đến 13 giờ, các nhóm cứu nạn đã kiểm soát được các đám cháy và giữ được chiếc Lexington thăng bằng, và nó có thể di chuyển được với vận tốc 25 knot (46,3 km/h; 28,8 mph) và đã sẵn sàng để thu hồi các phi đội của nó. Bổng bất ngờ chiếc Lexington bị rung chuyển bởi một vụ nổ lớn gây ra bởi cháy hơi xăng bên dưới, và các đám cháy lại không thể kiểm soát được. Đến 15 giờ 58, thuyền trưởng Frederick Carl Sherman, do lo ngại cho sự an toàn của thủy thủ đoàn làm việc bên dưới, đã ra lệnh chấm dứt mọi hoạt động cứu nạn và mọi người phải tập trung lên sàn đáp. Lúc 17 giờ 01 phút, ông ra lệnh "bỏ tàu" và việc di tản được tuần tự tiến hành. Thủy thủ đoàn di chuyển ra hai bên nhảy vào nước biển ấm được các tàu tuần dương và tàu khu trục kế bên vớt gần như ngay lập tức. Đô đốc Aubrey Wray Fitch và bộ tham mưu của ông chuyển sang chiếc tàu tuần dương Minneapolis. Chiếc Lexington vẫn bốc cháy, ngọn lửa bốc cao hàng trăm mét. Để tránh bị đối phương bắt được, chiếc tàu khu trục Phelps tiến đến gần ở khoảng cách 1.370 m (1.500 yd) và bắn hai trái ngư lôi vào sườn của nó; với một tiếng nổ lớn cuối cùng, chiếc Lexington bị chìm lúc 19 giờ 56 phút.

17 giờ chiều ngày 8 tháng 5, phó đô đốc Shigeyoshi Inoue bất thần ra lệnh lực lượng xung kích phải ngưng cuộc tấn công, và rút lui khỏi vùng chiến trường. Tiếp theo đó là lệnh đình hoãn kế hoạch tiến chiếm hải cảng Morseby và các toán hải quân hỗ trợ việc tiến chiếm hải cảng Morseby phải quay trở về căn cứ tại Rabaul. Lệnh tạm hoãn cuộc tấn công này được đưa ra là vì ông ước tính rằng mặc dù hải quân Nhật đã đè bẹp lực lượng mẫu hạm của Mỹ nhưng sức mạnh của Nhật còn lại không đủ để bảo vệ lực lượng đổ bộ vào hải cảng Morseby.

Khi báo cáo lệnh lui quân về bộ tư lệnh hải quân tối cao thì đô đốc Yamamoto Isoroku vô cùng tức giận trước quyết định của Inoue vì ông ta đã không khai thác được lợi điểm trong việc đánh chìm được mẫu hạm địch buổi sáng hôm đó. Yamamoto gửi ngay cho Inoue, tư lệnh đệ tứ hạm đội, một điện tín bằng những lời lẽ rất cứng rắn, yêu cầu Inoue phải dùng mọi nỗ lực để tiêu diệt hoàn toàn hải lực còn lại của địch quân. Phó đô đốc Takeo Takagi cũng được lệnh phải tiến về hướng nam và phải tìm cho ra lực lượng hải quân của Mỹ để tiêu diệt. Nhưng lực lượng của Takagi cố gắng tìm kiếm thêm hai ngày nữa, nhưng vô hiệu quả, và đành phải rút lui khỏi vùng Biển San Hô vào đêm 10 tháng 5.

Kết quả

Kết thúc trận đánh, tổn thất của 2 bên như sau: hải quân Nhật bị đánh chìm 1 tàu sân bay hạng nhẹ và 1 khu trục hạm, 1 tàu sân bay cỡ lớn bị hư hại nặng và 69 máy bay chiến đấu. Trong khi đó tổn thất của hải quân Mỹ là 1 tàu sân bay cỡ lớn (USS Lexington), 1 tàu chở dầu cỡ lớn, 1 khu trục hạm bị chìm, 1 tàu sân bay cỡ lớn bị hư hại nặng (USS Yorktown) và 65 máy bay chiến đấu.

Cả hai bên ai cũng tuyên bố mình chiến thắng và đưa tin tuyên truyền phóng đại tổn thất của đối phương. Tờ New York Times (Mỹ) số 9/5 đưa tin: "NGƯỜI NHẬT BỊ ĐẨY LÙI TRONG TRẬN ĐÁNH LỚN Ở THÁI BÌNH DƯƠNG VỚI 17 ĐẾN 22 TÀU CHIẾN CỦA CHÚNG BỊ ĐÁNH CHÌM HOẶC TÊ LIỆT: ĐỊCH THÁO CHẠY, TÀU CHIẾN ĐỒNG MINH TRUY ĐUỔI". Ngược lại, Tờ Japan Times & Advertiser tuyên bố kẻ địch đã tổn thất kinh hoàng. Hitler thì hớn hở tin vào tuyên bố của Nhật và tuyên bố: “Sau thảm bại mới mẻ này các tàu chiến Mỹ khó có thể dám đương đầu với hạm đội Nhật một lần nữa, vì bất tàu chiến Hoa Kỳ nào chấp nhận đương đầu với các lực lượng Nhật đều kể như thảm bại.” Bộ tư lệnh Hải quân Nhật thì tin rằng cả hai tàu Yorktown và Lexington đã bị đánh chìm (thực ra Yorktown hỏng nặng nhưng không chìm), một cú nốc ao vào sức mạnh Mỹ ở Thái Bình Dương.

Về mặt chiến thuật, hải quân Nhật xem như giành được 1 thắng lợi nhỏ khi họ chỉ mất 1 hàng không mẫu hạm loại nhỏ và bị thương 1 hàng không mẫu hạm lớn trong khi Mỹ mất 1 hàng không mẫu hạm lớn và bị hỏng nặng 1 hàng không mẫu hạm lớn. Về mặt chiến lược, trận đánh này là 1 thất bại của hải quân Nhật khi họ đã không thể đổ bộ lên bờ biển phía nam New Guinea khiến cho kế hoạch tấn công Australia cũng theo đó mà phá sản. Với kết quả này, quân Đồng Minh đã phần nào lấy lại được thế chủ động tại chiến trường Thái Bình Dương sau gần 6 tháng thời điểm diễn ra trận Trân Châu cảng.

Ngoài ra, trận chiến biển Coral còn gây ra những hệ quả cho trận Midway sau này, trận đánh có tính chất quyết định tại chiến trường Thái Bình Dương. 2 tàu sân bay Shōkaku và Zuikaku của hải quân Nhật đã không thể tham gia trận Midway vào tháng 6 1942 vì không kịp hồi phục. Ngược lại, tàu sân bay Yorktown của Mỹ cũng bị thương rất nặng nhưng đã được sửa chữa kịp thời và góp phần giúp hải quân Mỹ đánh bại hoàn toàn hải quân Nhật trong trận Midway.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận chiến biển Coral** hay **Trận chiến biển San Hô** là trận hải chiến diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai từ ngày 4 tháng 5 đến ngày 8 tháng 5 năm 1942
**Trận chiến biển Philippines** (hay còn được gọi là **"Cuộc bắn gà ở quần đảo Mariana"**) là trận hải chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và
**Trận chiến Biển Bismarck** (2 tháng 3 năm 1943 - 4 tháng 3, 1943) là một trận đánh diễn ra tại Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
**Trận chiến biển Java** là một trận hải chiến ác liệt trong Chiến tranh Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới thứ hai tại biển Java, Đông Ấn thuộc Hà Lan (nay là Indonesia) giữa
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**Trận chiến vịnh Leyte**, còn gọi là **Hải chiến vịnh Leyte**, trước đây còn có tên là "Trận biển Philippine lần thứ hai", được xem là trận hải chiến lớn nhất của Thế Chiến II
**Trận chiến nước Pháp** (), còn được gọi là **Chiến dịch phía Tây** (**'), **Chiến dịch nước Pháp** (, ) và **Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ,
**Trận chiến Đông Solomon** (hay còn gọi là **Trận chiến quần đảo Stewart** và theo tài liệu của Nhật là **Trận chiến biển Solomon lần thứ hai** - 第二次ソロモン海戦), diễn ra từ ngày 24 tháng
**_Trận chiến Midway_** (tựa gốc tiếng Anh: **Midway**) là một bộ phim điện ảnh lịch sử Hoa Kỳ được sản xuất và phát hành năm 2019, do Roland Emmerich làm đạo diễn, Harald Kloser làm
**Trận hải chiến ở Vịnh Kula** (tiếng Nhật: クラ湾夜戦) diễn ra vào rạng sáng ngày 6 tháng 7 năm 1943, là một trận hải chiến giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ tại vịnh Kula, ngoài
Rạn san hô vòng Midway Điểm chiếu trực giao Midway trên địa cầu **Rạn san hô vòng Midway** (; còn gọi là **đảo Midway** hay **quần đảo Midway**; tiếng Hawaii: _Pihemanu Kauihelani_) là một rạn
nhỏ|phải|Họa phẩm về một cảnh săn hổ trên lưng voi **Săn hổ** là việc bắt giữ hay giết hại hổ. Ngày nay, với các quy định pháp luật về bảo vệ loài hổ thì phạm
**Trận chiến đảo Rennell** (Tiếng Nhật: レンネル島沖海戦) là trận hải chiến diễn ra từ ngày 29 đến 30 tháng 1 năm 1943 ở khu vực Nam Thái Bình Dương giữa đảo Rennell và Guadalcanal phía
**_Zuikaku_** (, có nghĩa là "chim hạc may mắn") là một tàu sân bay thuộc lớp tàu _Shōkaku_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó đã tham gia vào sự kiện tấn công Trân
thumb|right|Bản đồ đặc trưng của một trận đấu MOBA. Các vạch vàng nhạt là các làn đường; các chấm bi xanh, đỏ là các công trình phòng thủ như tháp canh; vòng cung màu nhạt
**Trận Saipan** thuộc mặt trận Chiến tranh Thái Bình Dương của Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra trên đảo Saipan thuộc quần đảo Mariana ngày 15 tháng 6 năm 1944 – 9 tháng
nhỏ|265x265px|Trụ sở Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh **Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh**, thường được gọi ngắn gọn là **Đoàn**, là một tổ chức chính trị – xã hội của thanh
**Thắng lợi chiến thuật** là chiến thắng mà trong đó bên chiến thắng hoàn thành một mục tiêu chiến thuật như một phần của kế hoạch quân sự, hay bên chiến thắng chịu tổn thất
**Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh** còn được gọi **Ban Bí thư Trung ương Đoàn,** do Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
**Trận hải chiến tại đảo Savo** theo tiếng Nhật nó có tên là **Dai-ichi-ji Solomon Kaisen** (第一次ソロモン海戦, だいいちじソロモンかいせん), là một trận hải chiến trên mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai giữa
**Trận chiến đồi Edson**, hay còn gọi là **Trận chiến Đồi Máu**, là một trận đánh trên bộ trong Chiến dịch Guadalcanal thuộc Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai
**Trận chiến sân bay Henderson**, hay còn được bên Nhật Bản gọi là **trận Lunga Point**, là trận đánh diễn ra từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 26 tháng 10 năm 1942 tại Guadalcanal
**Hải chiến mũi Esperance** hay theo Nhật Bản gọi là **Savo-tō Oki Kaisen** (サボ島沖海戦, サボとうおきかいせん) diễn ra từ ngày 11 đến ngày 12 tháng 10 năm 1942, là một trong nhiều trận hải chiến giữa
**Trận chiến cuối cùng của thiết giáp hạm _Bismarck**_ diễn ra vào ngày 26-27 tháng 5 năm 1941 tại vùng biển Đại Tây Dương, cách khu vực Brest của Pháp khoảng về phía tây, giữa
**Trận chiến Eo biển Otranto** là một nỗ lực của Hải quân Đế quốc Áo-Hung trong việc phá vỡ Rào chắn Otranto của hải quân phe Hiệp ước tại eo biển Otranto trong hai ngày
**Trận chiến quần đảo Falkland** là một thắng lợi của Hải quân Hoàng gia Anh trước Hải quân Đế chế Đức vào ngày 8 tháng 12 năm 1914 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
**Trận hải chiến ở quần đảo Santa Cruz** vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, người Nhật Bản thường gọi là **Minami Taiheiyou Kaisen** (南太平洋海戦, みなみたいへいようかいせん) là trận hải chiến thứ tư giữa các tàu
**Trận chiến eo biển Đan Mạch** (tiếng Anh: _Battle of the Denmark Strait_; tiếng Đức: _Schlacht bei Dänemarkstraße_) diễn ra vào ngày 24 tháng 5 năm 1941, là một trong nhiều trận hải chiến giữa
**Trận chiến vịnh Ormoc** là một loạt các trận chiến diễn ra giữa Hải-Không quân Đế quốc Nhật Bản và Hoa Kỳ tại biển Camotes thuộc Philippines trong khoảng thời gian từ 11 tháng 11
**Trận chiến Túi Falaise** (diễn ra từ ngày 12 tháng 8 đến 21 tháng 8 năm 1944) là trận đánh quyết định của toàn bộ Trận Normandy tại mặt trận phía Tây Chiến tranh thế
thumb|Một chiến dịch chống tham nhũng chưa từng có đã bắt đầu sau khi [[Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XVIII kết thúc tại Bắc Kinh vào tháng 11 năm 2012.]] Một
**Trận chiến Đồi 60** là trận tấn công lớn cuối cùng của quân Đồng Minh nhắm vào quân Thổ Ottoman, trong Chiến dịch Gallipoli thuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, bắt đầu vào ngày
**_Zuihō_** (kanji: 瑞鳳, âm Hán-Việt: Thụy phụng, nghĩa là "_chim phượng tốt lành_") là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được đặt lườn vào năm 1934 như
**Trận chiến Benidorm** (hay **_Battle of Benidorm_** trong tiếng Anh), là cụm từ được tờ báo **Express and Star** đặt cho trận giao hữu _điên rồ_ giữa Wolves và Levante UD diễn ra vào ngày
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Hải chiến ngoài khơi Samar** hay **Trận Samar** là trận đánh mang tính quan trọng trong thời gian diễn ra cuộc Hải chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch
**Trận Midway** là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
**USS _San Francisco_ (CA-38)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố San Francisco thuộc
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
**USS _New Orleans_ (CA-32)** (trước là **CL-32**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo thành phố
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**USS _Sangamon_ (CVE-26)** là một tàu sân bay hộ tống được cải biến từ tàu chở dầu để phục vụ cho Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc
**Trận sông Nin** (còn được gọi là **Trận vịnh Aboukir**, trong tiếng Pháp là _Bataille d'Aboukir_ hoặc trong tiếng Ả Rập Ai Cập là معركة أبي قير البحرية) là một trận hải chiến lớn đã
**Trận nước Bỉ** hay **Chiến dịch nước Bỉ** là một phần trong trận chiến nước Pháp, cuộc tấn công lớn của Đức Quốc xã tại Tây Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Cuộc