✨Sendai (tàu tuần dương Nhật)

Sendai (tàu tuần dương Nhật)

Sendai (tiếng Nhật: 川内) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm ba chiếc, và được đặt tên theo sông Sendai ở về phía Nam Kyūshū thuộc Nhật Bản. Nó được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và đã bị tàu tuần dương Mỹ đánh chìm ngày 3 tháng 11 năm 1943 trong trận chiến vịnh Nữ hoàng Augusta, tại biển Java ở tọa độ .

Thiết kế và chế tạo

Sendai là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương hạng nhẹ Sendai, và giống như những chiếc cùng lớp, nó được dự định sử dụng như là soái hạm của hải đội tàu khu trục.

Sendai được đặt lườn vào ngày 16 tháng 2 năm 1922. Nó được hạ thủy vào ngày 30 tháng 10 năm 1923 và hoàn tất tại xưởng tàu của Mitsubishi tại Nagasaki vào ngày 29 tháng 4 năm 1924.

Lịch sử hoạt động

Các hoạt động ban đầu

Ban đầu Sendai được phân công tuần tra sông Dương Tử thuộc Trung Quốc. Nó đóng một vai trò quan trọng trong trận Thượng Hải vào giai đoạn mở đầu của cuộc Chiến tranh Trung-Nhật, rồi sau đó hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản tại phía Nam Trung Quốc.

Chinh phục Đông Nam Á

Ngày 20 tháng 11 năm 1941, Sendai trở thành soái hạm của Hải đội Khu trục 3 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Shintaro Hashimoto.

Vào lúc xảy ra trận tấn công Trân Châu Cảng, Sendai tham gia hộ tống các tàu vận tải vận chuyển Tập đoàn quân 25 Lục quân và Trung tướng Yamashita Tomoyuki xâm chiếm Malaya. Lúc 23 giờ 45 phút ngày 7 tháng 12 năm 1941, Sendai cùng các tàu khu trục Ayanami, Isonami, ShikinamiUranami trong hải đội của nó mở cuộc bắn phá Kota Bharu, Malaya. Chúng bị bảy máy bay ném bom Lockheed Hudson của Không quân Hoàng gia Australia tấn công, đánh chìm một tàu vận tải và làm hư hại hai chiếc khác.

Ngày 9 tháng 12 năm 1941, tàu ngầm I-65 báo cáo trông thấy Lực lượng Z của Hải quân Hoàng gia Anh, bao gồm thiết giáp hạm Prince of Wales, tàu chiến-tuần dương Repulse và các tàu khu trục hộ tống. Bức điện báo cáo được Sendai bắt được, và được chuyển tiếp đến Phó Đô đốc Jisaburō Ozawa trên soái hạm Chokai của mình. Tuy nhiên, việc thu sóng vô tuyến quá kém và thông điệp phải mất thêm 90 phút để giải mã. Hơn nữa, báo cáo của I-65 không chính xác về hướng đi của Lực lượng Z. Ngày hôm sau, Lực lượng Z bị áp đảo bởi máy bay ném bom-ngư lôi thuộc Không đoàn 22 xuất phát từ Đông Dương, khi Prince of WalesRepulse bị đánh chìm.

Ngày 19 tháng 12 năm 1941, ngoài khơi Kota Bahru, tàu ngầm O-20 thuộc Hải quân Hoàng gia Hà Lan trông thấy Sendai đang hộ tống Đoàn tàu vận tải Malaya thứ hai bao gồm 39 tàu vận tải. Lúc 11 giờ 15 phút, thủy phi cơ Kawanishi E7K2 "Alf" của Sendai đã phát hiện và ném bom O-20, đồng thời nó cũng bị các tàu khu trục AyanamiYugiri tấn công bằng thủy lôi. Đêm hôm đó O-20 phải nổi lên mặt nước để nạp điện các bình ắc-quy, và một ánh lửa từ ống xả của động cơ đã khiến nó bị lộ diện. O-20 bị Uranami đánh chìm.

Sendai thực hiện thêm ba chuyến đi hộ tống các đoàn tàu vận chuyển lực lượng đến Malay vào cuối tháng 12 năm 1941 và tháng 1 năm 1942. Trong chuyến đi thứ tư vào ngày 10 tháng 1 năm 1942, tàu ngầm Mỹ Seadragon phát hiện ra đoàn tàu và đã bắn hai quả ngư lôi vào chiếc tàu vận chuyển sau cùng, nhưng tất cả đều bị trượt. Trong chuyến đi thứ năm vào ngày 26 tháng 1, Sendai và đoàn tàu của nó bị ThanetVampire tấn công ở vị trí 150 km (80 hải lý) về phía Bắc Singapore trong trận chiến ngoài khơi Endau. Các quả ngư lôi phóng từ các tàu chiến Đồng Minh đều bị trượt, và các tàu khu trục ShirayukiSendai phản công bằng hỏa lực hải pháo 102 mm (4 inch). Thanet bị đánh chìm, trong khi Vampire không bị hư hại và thoát được về Singapore.

Từ tháng 2 đến tháng 3, Sendai được gaio nhiệm vụ bảo vệ cho các cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Sumatra, và truy quét các tuyến đường biển cùng eo biển Malacca để tiêu diệt các tàu bè Anh và Hà Lan rút lui từ Singapore. Vào cuối tháng 3, Sendai hỗ trợ cho việc đổ bộ một tiểu đoàn của Sư đoàn 18 Lục quân xuống Port Blair thuộc quần đảo Andaman. Đến cuối tháng 4, Sendai quay về Sasebo, Nagasaki để sửa chữa.

Trận Midway

Ngày 29 tháng 5 năm 1942, Sendai khởi hành cùng với lực lượng chính của Hạm đội Liên Hợp tham gia trận Midway. Lực lượng này ở cách 1.100 km (600 hải lý) phía sau Lực lượng Tấn công Tàu sân bay của Phó Đô đốc Nagumo Chuichi nên đã không đụng độ với lực lượng Mỹ. Sendai quay trở về Kure, Hiroshima ngày 14 tháng 6 năm 1942.

Chiến dịch Quần đảo Solomon

Vào ngày 15 tháng 7 năm 1942, Hải đội Khu trục 3 được tái bố trí cho Lực lượng Tây Nam nhằm hỗ trợ các hoạt động tại Miến Điện và Ấn Độ Dương, đi đến Mergui thuộc Burma vào ngày 31 tháng 7. Tuy nhiên, với việc lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal, các kế hoạch hoạt động tại Ấn Độ Dương bị hủy bỏ, và thay vào đó Sendai được gửi đến Makassar, Davao và Truk để hộ tống các đoàn tàu vận chuyển binh lính đến Rabaul, New Britain và Shortland thuộc Bougainville. Vào ngày 8 tháng 9, Sendai nả pháo xuống Tulagi, và vào ngày 12 tháng 9, nó cùng các tàu khu trục Shikinami, FubukiSuzukaze bắn phá sân bay Henderson tại Guadalcanal. Sendai tiếp tục có mặt trong các hoạt động tại quần đảo Solomon cho đến tháng 11 năm 1942, tham gia trong cả trận Hải chiến Guadalcanal thứ nhất nơi nó tham gia lực lượng hỗ trợ từ xa, lẫn trận thứ hai khi nó chịu đựng hải pháo 406 mm (16 inch) từ dàn pháo chính của thiết giáp hạm Washington, nhưng đã thoát được mà không bị hư hại.

Ngày 25 tháng 2 năm 1943, Sendai được bố trí về Hạm đội 8 tại Rabaul dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Gunichi Mikawa, và nó tuần tra chung quanh Rabaul cho đến hết tháng 4. Quay trở về Sasebo vào tháng 5, Sendai được sửa chữa và cải biến. Tháp pháo 140 mm (5,5 inch) số 5 được tháo dỡ, và được trang bị hai khẩu đội pháo phòng không 25 mm Kiểu 96 ba nòng cùng một bộ radar Kiểu 21. Công việc sửa chữa hoàn tất vào ngày 25 tháng 6 năm 1943 và Sendai quay trở lại Truk vào ngày 5 tháng 7. Ngày 7 tháng 7, Chuẩn Đô đốc Nam tước Matsuji Ijuin tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Khu trục 3. Trong ba tháng tiếp theo sau, Sendai hoạt động ngoài khơi Rabaul bảo vệ các đoàn tàu vận tải tăng cường đến Buin và Shortland.

Vào ngày 18 tháng 7 năm 1943, ngoài khơi Kolombangara, hải đội bị các máy bay ném bom-ngư lôi Grumman TBM Avenger của Thủy quân Lục chiến đặt căn cứ tại Guadalcanal tấn công, và hai ngày sau bởi máy bay ném bom North American B-25 Mitchell nhưng không bị hư hại. Sendai cũng tránh được một cuộc ném bom khác bởi một chiếc Consolidated B-24 Liberator vào ngày 1 tháng 11 năm 1943.

Ngày hôm sau 2 tháng 11 năm 1943, trong trận chiến vịnh Nữ hoàng Augusta, hạm đội Nhật Bản dự định tăng cường cho Bougainville bị đánh chặn bởi Lực lượng Đặc nhiệm 39 Mỹ với các tàu tuần dương hạng nhẹ Cleveland, Columbia, MontpelierDenver cùng các tàu khu trục Stanly, Charles Ausburne, Claxton, Dyson, Converse, Foote, SpenceThatcher. Lực lượng Nhật Bản bao gồm các tàu tuần dương Myoko, Haguro, SendaiAgano cùng các tàu khu trục Shigure, Samidare, Shiratsuyu, Naganami, Wakatsuki, Hatsukaze, Amagiri, Yūnagi, UzukiFuzuki.

Shigure nhìn thấy các tàu khu trục Mỹ ở khoảng cách 6.750 m (7.500 yard) và đã ngoặt gấp về mạn trái và phóng ra tám quả ngư lôi. Sendai cũng ngoặt sang mạn trái nhưng phải lách qua Shigure, tránh một cú va chạm gần như hiển nhiên. Cả bốn chiếc tàu tuần dương đều nhắm vào Sendai bằng các khẩu pháo 152 mm (6 inch) điều khiển bằng radar, bắn trúng nó ngay loạt đạn đầu tiên và làm nó bốc cháy. Sendai chìm sáng hôm sau ở tọa độ . Thuyền trưởng Shoji và 184 thành viên thủy thủ đoàn đi theo con tàu, nhưng có 236 người khác còn sống sót được các tàu khu trục vớt lên. Đến ngày 3 tháng 11 năm 1943, Đô đốc Ijuin cùng 75 người khác sống sót từ Sendai được cứu bởi tàu ngầm Nhật RO-104.

Sendai được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 1 năm 1944.

Danh sách thuyền trưởng

  • Kizo Isumi (sĩ quan trang bị trưởng): 1 tháng 12 năm 1923 - 29 tháng 4 năm 1924
  • Kizo Isumi: 29 tháng 4 năm 1924 - 1 tháng 12 năm 1924
  • Kiyohiro Ijichi: 1 tháng 12 năm 1924 - 2 tháng 7 năm 1925
  • Shikai Nakahara: 2 tháng 7 năm 1925 - 1 tháng 11 năm 1926
  • Tatsuo Sagara: 1 tháng 11 năm 1926 - 21 tháng 12 năm 1927
  • Jiro Ban: 21 tháng 12 năm 1927 - 15 tháng 3 năm 1928
  • Kasumi Masaki: 15 tháng 3 năm 1928 - 10 tháng 12 năm 1928
  • Senzo Wada: 10 tháng 12 năm 1928 - 1 tháng 5 năm 1929
  • Noboru Osamu: 1 tháng 5 năm 1929 - 30 tháng 11 năm 1929
  • Taichi Miki: 30 tháng 11 năm 1929 - 1 tháng 12 năm 1930
  • Kaneji Kishimoto: 1 tháng 12 năm 1930 - 14 tháng 9 năm 1931
  • Terumichi Goto: 14 tháng 9 năm 1931 - 1 tháng 12 năm 1932
  • Takeo Takasaki: 1 tháng 12 năm 1932 - 15 tháng 11 năm 1933
  • Kozo Suzukida: 15 tháng 11 năm 1933 - 4 tháng 7 năm 1934
  • Tsunemitsu Yoshida: 4 tháng 7 năm 1934 - 1 tháng 11 năm 1934
  • Kazuo Nakamura: 1 tháng 11 năm 1934 - 15 tháng 11 năm 1935
  • Torahiko Nakajima: 15 tháng 11 năm 1935 - 1 tháng 12 năm 1936
  • Masao Yamamoto: 1 tháng 12 năm 1936 - 1 tháng 12 năm 1937
  • Susumu Kimura: 1 tháng 12 năm 1937 - 15 tháng 12 năm 1938
  • Shunji Izaki: 15 tháng 12 năm 1938 - 15 tháng 11 năm 1939
  • Sojiro Hisamune: 15 tháng 11 năm 1939 - 15 tháng 7 năm 1940
  • Toshio Shimazaki: 15 tháng 7 năm 1940 - 25 tháng 4 năm 1942
  • Nobue Morishita: 25 tháng 4 năm 1942 - 20 tháng 5 năm 1943
  • Kiichiro Shoji: 20 tháng 5 năm 1943 - 2 tháng 11 năm 1943 (tử trận, được truy thăng Chuẩn Đô đốc)
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Sendai_** (tiếng Nhật: 川内) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm ba chiếc, và được đặt tên theo
**_Naka_** (tiếng Nhật: 那珂) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Naka tại tỉnh Tochigi và Ibaraki ở
**_Jintsū_** (tiếng Nhật: 神通) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Jinzu tại tỉnh Gifu và Toyama ở
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
**_Agano_** (tiếng Nhật: 阿賀野) là một tàu tuần dương hạng nhẹ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc đã phục vụ cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến
**Lớp tàu tuần dương _Sendai**_ (tiếng Nhật: 川内型軽巡洋艦, Sendai-gata keijunyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm ba chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng tham gia hoạt động trong
**Lớp tàu tuần dương _Nagara**_ (tiếng Nhật: 長良型軽巡洋艦, Nagaragata Keijunyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng tham gia nhiều hoạt động
**_Hatsukaze_** (tiếng Nhật: 初風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kagerō_ đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới
nhỏ|phải|Một tấm ảnh khác về tàu khu trục _Uranami_ **_Uranami_** (tiếng Nhật: 浦波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn
**_Shikinami_** (tiếng Nhật: 敷波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Ayanami_** (tiếng Nhật: 綾波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Inazuma_** (tiếng Nhật: 電) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc cuối cùng của lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Tàu hộ tống khu trục lớp Abukuma** (tiếng Nhật: あぶくま型護衛艦) là một lớp tàu hộ tống khu trục (DE) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Tất cả các tàu
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**_Nagato_** (tiếng Nhật: 長門, **_Trường Môn_**), được đặt theo tên tỉnh Nagato, là một thiết giáp hạm siêu-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. _Nagato_ là chiếc thiết giáp hạm đầu
Mutsu (thiết giáp hạm nhật) **_Mutsu_** (tiếng Nhật: 陸奥), được đặt tên theo tỉnh Mutsu, là chiếc thiết giáp hạm thứ hai thuộc lớp _Nagato_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được đưa vào
**USS _Thatcher_ (DD-514)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Preston_ (DD–379)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Charles Ausburne_ (DD-570)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản** (tiếng Nhật: ), lược xưng là là một trong ba quân chủng thuộc Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Sau năm 1945, Lục quân Đế quốc Nhật Bản
**Trận hải chiến Guadalcanal** hay theo như cách gọi của Nhật Bản là **Dai Sanji Solomon Kaisen** (第三次ソロモン海戦, だいさんじソロモンかいせん; _Hải chiến Solomon lần thứ ba_), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
**Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản** (tiếng Anh: _Japan Ground Self-Defense Force_, , Hán-Việt: _Lục thượng tự vệ đội_), thường được gọi tắt là **JGSDF** (, Hán-Việt: _Lục tự_), là lực lượng lục
**USS _South Dakota_ (BB-57)** là một thiết giáp hạm được Hải quân Hoa Kỳ đưa ra hoạt động từ năm 1942 đến năm 1947. Là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, _South Dakota_ là
**USS _Stanly_ (DD-478)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Spence_ (DD-512)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Stockham_ (DD-683)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Waterman_ (DE-740)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
, là một cuộc nổi loạn của các cựu samurai ở phiên Satsuma chống lại triều đình Thiên hoàng Minh Trị từ 29 tháng 1 năm 1877 đến 24 tháng 9 năm 1877, niên hiệu
Núi Phú Sĩ (_Fujisan_ 富士山) Nhật Bản là một đảo quốc bao gồm một quần đảo địa tầng trải dọc tây Thái Bình Dương ở Đông Bắc Á, với các đảo chính bao gồm Honshu,
là cộng đồng người nước ngoài lớn thứ hai tại Nhật Bản, xếp trên cả người Triều Tiên tại Nhật Bản và chỉ xếp sau người Hoa tại Nhật Bản, theo thống kê của Bộ
Dưới đây là sự kiện trong năm tại **Nhật Bản 2023**. ## Đương nhiệm ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: **Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (Nhật Bản) xác nhận
**Trận Endau** là một trận đánh trong Thế chiến 2 diễn ra ngoài khơi thị trấn Endau vào ngày 26-27 tháng 1 năm 1942. Là một phần của Chiến dịch Mã Lai, đây là trận
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**Trận chiến sân bay Henderson**, hay còn được bên Nhật Bản gọi là **trận Lunga Point**, là trận đánh diễn ra từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 26 tháng 10 năm 1942 tại Guadalcanal
**Trận chiến đồi Edson**, hay còn gọi là **Trận chiến Đồi Máu**, là một trận đánh trên bộ trong Chiến dịch Guadalcanal thuộc Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai
**USS _Tigrone_ (SS-419/SSR-419/AGSS-419)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được
|commander2=|units1=_Lực lượng Mặt đất_: **Bộ chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ, Thái Bình Dương** * Tập đoàn quân số 6 * Tập đoàn quân số 8 * Tập đoàn quân số 1 * Các đơn
Từ ngày 28 tháng 1 đến ngày 4 tháng 2 năm 2023, một khinh khí cầu tầm cao lớn màu trắng do Trung Quốc vận hành đã được quan sát thấy trên không phận Bắc
(21 tháng 8 năm 1897 - 7 tháng 4 năm 1945) là một trong những Phó đô đốc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai. Ông cũng chính là hạm
phải|nhỏ|Ukiyo-e của Migita Toshihide mô tả quân Thanh đầu hàng quân Nhật sau trận Uy Hải Vệ **Trận Uy Hải Vệ** là một cuộc bao vây kéo dài 23 ngày với các cuộc giao tranh
là một trận động đất mạnh 9,0 MW ngoài khơi Nhật Bản xảy ra lúc 05:46 UTC (14:46 giờ địa phương) vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có vị trí chấn
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ
nhỏ|phải|[[Nhà máy điện hạt nhân Ikata, lò phản ứng nước áp lực làm lạnh bằng chất lỏng trao đổi nhiệt thứ cấp với đại dương.]] nhỏ|phải|Ba loại tàu năng lượng hạt nhân, từ trên xuống