Lớp tàu sân bay _Colossus_ bao gồm những tàu sân bay hạng nhẹ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mười sáu chiếc đã được vạch kế hoạch, nhưng chỉ có mười chiếc được hoàn tất, và không có chiếc nào từng tham gia tác chiến trong Thế Chiến II. Tuy nhiên, một số đã từng phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên, và nhiều chiếc đã được chuyển cho hải quân các nước trong Khối Thịnh Vượng Chung hay thân hữu, mà cuộc đời phục vụ kéo dài đến tận cuối những năm 1990.
Thiết kế
Việc hai chiếc tàu chiến Prince of Wales và Repulse bị máy bay đặt căn cứ trên đất liền đánh chìm vào tháng 12 năm 1941 đã vạch ra sự mong manh của những tàu chiến chủ lực không được không quân hỗ trợ đối với các cuộc không kích, và cho thấy nhu cầu cấp bách phải mở rộng không lực hạm đội.
Vào lúc bắt đầu chiến tranh, Hải quân Hoàng gia sử dụng cả hai kiểu tàu sân bay hạm đội và tàu sân bay hộ tống. Tuy nhiên, những chiếc tàu sân bay hộ tống được chỉ được thiết kế thuần túy để bảo vệ các đoàn tàu vận tải, nên ít có tác dụng trong vai trò tấn công. Tốc độ chậm và kích cỡ nhỏ khiến cho chúng không thể sử dụng các kiểu máy bay tiêm kích hiện đại tính năng cao. Mặt khác, những chiếc tàu sân bay hạm đội đắt tiền đang bị thiếu hụt, và việc chế tạo chúng mất nhiều thời gian. Việc cải biến các tàu buôn một thời từng được cân nhắc đến, nhưng bị hủy bỏ do nhu cầu cao của các con tàu vận tải.
Lớp Colossus xuất hiện như là một giải pháp hiện thực cho vấn đề thiếu hụt trầm trọng tàu sân bay chiến đấu. Chúng dựa trên thiết kế của lớp Illustrious, nhưng được thu nhỏ kích thước, và được dự định để sẵn sàng trong vòng hai năm. Để thúc đẩy việc chế tạo, thân tàu của lớp Colossus được chế tạo theo mẹ tàu thương mại cho đến sàn chứa máy bay.
Mười sáu chiếc đã được vạch kế hoạch chế tạo, nhưng chỉ có mười chiếc được hoàn tất như tàu sân bay lớp Colossus, trong đó hai chiếc Perseus và Pioneer|(R76)|Pioneer được biến đổi để hoạt động như những tàu bảo trì máy bay hơn là các nhiệm vụ chiến đấu trực tiếp. Việc chế tạo năm chiếc khác bị tạm ngưng, rồi sau đó được hoàn tất như những tàu sân bay thuộc lớp Majestic, trong khi một chiếc thứ sáu trong lớp này là chiếc Leviathan không bao giờ được hoàn tất. Cả năm chiếc trong lớp Majestic đều được bán cho hải quân các nước trong Khối Thịnh Vượng Chung hoặc đồng minh.
Lịch sử hoạt động
Bốn chiếc đầu tiên trong lớp Colossus được hoàn tất vào tháng 12 năm 1944 và ngay lập tức được đưa sang Viễn Đông, tuy nhiên không có chiếc nào tham chiến trực tiếp trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp Colossus không có được lớp sàn đáp bọc thép, vốn đã bảo vệ hiệu quả những chiếc trong lớp Illustrious chống lại các cuộc tấn công cảm tử kamikaze như tại Okinawa trong chiến dịch Iceberg.
Sau chiến tranh, lớp tàu này là một phương cách rẻ tiền cho sự hiện diện của Hải quân Hoàng gia tại các vùng biển. Một số chiếc đã từng phục vụ trong chiến tranh Triều Tiên. Ít tốn kém hơn khi khi hoạt động so với những chiếc tàu sân bay hạm đội, chúng lại mang được số máy bay gần tương đương. Nhiều chiếc đã được bán cho hải quân các nước ngoài, nơi mà cuộc đời phục vụ của chúng kéo dài đến tận cuối những năm 1990.
Những chiếc trong lớp
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu sân bay _Colossus**_ bao gồm những tàu sân bay hạng nhẹ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mười sáu chiếc đã được vạch kế
**Lớp tàu sân bay _Majestic**_ bao gồm sáu tàu sân bay hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Do chiến
nhỏ|300x300px|[[Hàng không mẫu hạm Ý Giuseppe Garibaldi]] **Tàu sân bay hạng nhẹ** hay **tàu sân bay hạng nhẹ hạm đội** là một kiểu tàu sân bay nhỏ hơn tàu sân bay tiêu chuẩn trong hải
**HMS _Colossus_ (R15)** là một tàu sân bay hạng nhẹ có một lịch sử phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh ngắn ngủi. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Anh,
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Colossus**_: * _Colossus_ (1787) là một tàu chiến tuyến hạng ba 74 khẩu pháo thuộc lớp _Courageux_ hạ thủy năm
**HMS _Theseus_ (R64)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được hoàn thành và đưa ra hoạt động khi Chiến tranh Thế giới thứ hai đã kết thúc,
**HMS _Pioneer_ (R76)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được hoàn thành và đưa ra hoạt động khi Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp kết thúc,
**HMS _Venerable_ (R63)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được hoàn thành và đưa ra hoạt động khi Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp kết thúc,
**HMS _Triumph_ (R16)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được hoàn thành và đưa ra hoạt động khi Chiến tranh Thế giới thứ hai đã kết thúc,
**HMS _Vengeance_ (R71)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ cho hải quân
**HMS _Warrior_ (R31)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được hoàn thành và đưa ra hoạt động khi Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp kết thúc,
**HMS _Ocean_ (R68)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được hoàn thành và đưa ra hoạt động khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, HMS
**HMS _Perseus_ (R51)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được hoàn thành và đưa ra hoạt động khi Chiến tranh Thế giới thứ hai đã kết thúc,
**HMS _Glory_ (R62)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được hoàn thành và đưa ra hoạt động khi Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp kết thúc,
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Edinburgh**_, theo tên thành phố Edinburgh của Scotland; ngoài ra còn một chiếc được đặt cái tên tương tự **HMS
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Hercules**_ hay **HMS _Hercule_**, theo tên vị anh hùng trong thần thoại Hy Lạp và La Mã Heracles: * là
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**Quản trị vận hành** là một lĩnh vực quản lý liên quan đến việc thiết kế và kiểm soát quá trình sản xuất và thiết kế lại hoạt động kinh doanh trong sản xuất hàng
**Tượng Nữ thần Tự do** (; tên đầy đủ là **Nữ thần Tự do Soi sáng Thế giới**; ; ) là một tác phẩm điêu khắc bằng đồng theo phong cách tân cổ điển với
**HMS _Monarch**_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp _Orion_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến
**HMS _Thunderer**_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp _Orion_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến
**Danh sách các nhà phát minh** được ghi nhận. ## Danh sách theo bảng chữ cái ### A * Vitaly Abalakov (1906–1986), Nga – các thiết bị cam, móng neo leo băng không răng ren
**X-Men** (**Những người đột biến**) là một nhóm các siêu anh hùng truyện tranh trong các truyện tranh Marvel (_Marvel Comics_). Được sáng tác bởi Stan Lee và Jack Kirby, X-Men xuất hiện lần đầu
**Kitty Pryde**, được biết đến nhiều hơn với mật danh Shadowcat, là một người đột biến có khả năng xuyên thấu qua các vật chất rắn. Kitty là một trong những thành viên quan trọng
**Alan Mathison Turing** OBE FRS (23 tháng 6 năm 1912 – 7 tháng 6 năm 1954) là một nhà toán học, logic học và mật mã học người Anh, được xem là một trong những