✨HMS Vengeance (R71)
HMS Vengeance (R71) là một tàu sân bay thuộc lớp Colossus được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ cho hải quân của ba nước trong suốt cuộc đời hoạt động: Hải quân Hoàng gia Anh, Hải quân Hoàng gia Australia dưới tên gọi HMAS _Vengeance_ từ năm 1952 đến năm 1955, và cho Hải quân Brazil dưới tên gọi Minas Gerais (A 11) từ năm 1956 đến năm 2001.
Được chế tạo trong giai đoạn Thế Chiến II, Vengeance là một trong số ít những chiếc trong lớp hoàn tất trước khi chiến tranh kết thúc, mặc dù nó không tham gia một hoạt động tác chiến thực tế nào. Chiếc tàu trải qua một vài năm như một tàu vận chuyển máy bay và tàu sân bay huấn luyện cho đến khi thực hiện một chuyến đi nhằm thử nghiệm sức chịu đựng của con tàu và thủy thủ đoàn trong hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt của Bắc Cực. Vào cuối năm 1952, Vengeance được cho Hải quân Hoàng gia Australia mượn thay thế cho chiếc tàu sân bay Melbourne mà việc hoàn tất đang bị trì hoãn. Nó ở lại vùng biển Australia trong hầu hết thời gian ba năm cho mượn, được sử dụng như một tàu sân bay và tàu huấn luyện, trước khi được hoàn trả cho Hải quân Hoàng gia Anh vào tháng 8 năm 1955.
Thay vì đưa vào hoạt động, chiếc tàu sân bay được Anh bán cho Brasil vào năm 1956, và được đưa ra hoạt động sau khi đã được nâng cấp rộng rãi, cho phép nó hoạt động cùng máy bay phản lực. Được đặt lại tên là Minas Gerais, chiếc tàu sân bay được giữ lại hoạt động cho đến năm 2001. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để bán con tàu, kể cả một lần được liệt kê trên trang đấu giá trực tuyến eBay, trước khi nó được bán để tháo dỡ khi được kéo đến Alang thuộc Ấn Độ.
Thiết kế và chế tạo
Vengeance được đặt lườn vào ngày 16 tháng 11 năm 1942 bởi hãng đóng tàu Swan Hunter. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 2 năm 1944; Bất chấp lời dự báo như thế, Vengeance đã có cuộc đời phục vụ kéo dài hơn 55 năm.
Vũ khí
Vũ khí trang bị ban đầu bao gồm 6 khẩu đội bốn nòng QF 2 pounder (còn gọi là pom-poms) và 19 khẩu pháo Oerlikon 20 mm. Những công việc này hoàn tất vào ngày 21 tháng 5, khi nó được phân về Hải đội Tàu sân bay 11 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Sau khi Nhật Bản tuyên bố chấp nhận đầu hàng, Vengeance nhận được lệnh đi đến Hong Kong, và vào ngày 3 tháng 9 nằm trong thành phần của lực lượng tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật trú đóng tại thuộc địa này. Vengeance ở lại vùng biển Viễn Đông cho đến ngày 20 tháng 7 năm 1946, khi nó khởi hành quay về Anh Quốc.
Cho Australia mượn
Vào tháng 6 năm 1951, khi nhận được thông báo là chiếc tàu sân bay Melbourne sẽ không thể hoàn tất cho đến ít nhất là tháng 3 năm 1954, Ủy ban Quốc phòng Australia đã đề nghị rằng Chính phủ Australia nên yêu cầu Hải quân Hoàng gia Anh cho mượn một tàu sân bay. Thời hạn dự báo cho việc hoàn thành chiếc Melbourne sẽ là 21 tháng trễ hơn so với dự kiến ban đầu, vốn là cơ sở cho việc hoạt động của Không lực Hải quân với hai tàu sân bay. Nhiều cải tiến nhỏ được chấp thuận và được Australia thanh toán, bao gồm việc bổ sung các tiện nghi nghỉ ngơi cho đội bay. Nhằm cung ứng nhân sự cần thiết cho chiếc tàu sân bay mượn, Hải quân Hoàng gia Australia phải đưa chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Hobart về lực lượng dự bị. Nó tái hoạt động như một tàu chiến Australia vào ngày này, với ký hiệu HMAS trước tên của nó. Rời cảng Devonport vào cuối năm 1952, chiếc tàu sân bay quay về Australia ngang qua Địa Trung Hải, và đến Fremantle ngày 26 tháng 2 năm 1953. Cuối năm 1953, Vengeance được chuẩn bị để được bố trí tại Triều Tiên, hỗ trợ cho lực lượng Liên Hợp Quốc thi hành lệnh ngừng bắn đạt được vào tháng 7 năm 1953. Chuyến đi đã không được thực hiện, vì chiếc HMAS Sydney được gửi đi thay thế. làm hai thủy thủ thiệt mạng. Ngày 5 tháng 4, Vengeance bị một tai nạn va chạm cùng với tàu khu trục Bataan ngoài khơi bờ biển New South Wales. Bataan đang tìm cách để được tiếp nhiên liệu từ chiếc Vengeance khi mũi chiếc tàu khu trục chạm vào hông chiếc tàu sân bay. Sau khi nhìn thấy hình ảnh trên từ máy bay của mình, Nữ hoàng Elizabeth II đã gửi bức điện đến con tàu, nói rằng "cảm ơn sự giả mạo nguyên vẹn này." Con tàu huấn luyện trước đây, tàu khu trục Australia, được đánh dấu vào giữa năm 1953 sẽ ngừng hoạt động và tháo dỡ, vì việc hiện đại hóa nó sẽ không kinh tế. Cùng lúc đó, Hải quân Australia đang tìm cách cắt giảm chi phí hoạt động, và việc giảm bớt không lực hạm đội từ hai xuống còn một tàu sân bay thường trực sẽ đem đến một khoảng tiết kiệm đáng kể. Việc rút chiếc Vengeance khỏi hoạt động thường trực, kết hợp với việc tìm kiếm một con tàu huấn luyện thay thế cho chiếc Australia vốn phải đủ lớn để chứa số lượng lớn học viên nghĩa vụ quân sự, đã đặt con tàu sân bay trong vai trò huấn luyện. Ngày 31 tháng 8, Vengenace tháp tùng chiếc Australia trong chuyến hải trình cuối cùng của chiếc này trước khi ngừng hoạt động. Chiếc tàu sân bay đi đến Nhật Bản vào cuối tháng 10, chuyến đi đầu tiên rời khỏi vùng biển Australia trong cuộc đời phục vụ cùng hải quân Australia.
Hoàn trả cho Anh Quốc và bán cho Brazil
Tháng 5 năm 1955, HMAS Sydney thay thế cho Vengeance trong vai trò huấn luyện cũng như đảm trách nhiệm vụ soái hạm cùng các hoạt động khác của chính nó, và chiếc tàu sân bay cho mượn được chuẩn bị để hoàn trả cho Anh Quốc. Vengeance khởi hành hướng đến Anh vào tháng 6, ghé qua Singapore để nhận một phi đội máy bay trực thăng Hải quân Hoàng gia.
Vengeance không được đưa trở lại hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia, và vào ngày 14 tháng 12 năm 1956, chiếc tàu sân bay được Bộ Hải quân bán cho Brazil với giá 9 triệu Đô-la Mỹ. Điều này cho phép nó hoạt động cùng kiểu máy bay phản lực, vốn to hơn, nhanh hơn và nặng hơn so với kiểu máy bay cánh quạt từng hoạt động trước đó cùng chiếc tàu sân bay.
Chiếc tàu sân bay được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Brazil dưới tên gọi Minas Gerais vào ngày 6 tháng 12 năm 1960. Kết quả là, Minas Gerais phải nhận trên tàu hai liên đội không quân hoạt động đồng thời: Hải quân sử dụng những chiếc máy bay trực thăng, trong khi Không quân hoạt động những chiếc S-2 Tracker.
nhỏ|phải|Minas Gerais trên đường đi vào năm 1984
Minas Gerais trải qua một đợt tái trang bị lớn khác từ năm 1976 đến năm 1981, trong đó hệ thống radar được nâng cấp, trang bị hệ thống trao đổi thông tin, và tuổi thọ ước tính của con tàu được kéo dài đến Thập niên 1990.
Từ tháng 7 năm 1991 đến tháng 10 năm 1993, chiếc tàu sân bay lại trải qua một đợt hiện đại hóa lớn, tân trang lại hệ thống động lực, nâng cấp hệ thống chỉ huy và radar kiểm soát, đồng thời thay thế các khẩu pháo Bofor bằng tên lửa không-đối-đất Mistral. Năm 1999, Hải quân Brazil sở hữu 20 máy bay A-4KU Skyhawk và ba máy bay huấn luyện TA-4KU nguyên của Không quân Kuwait; lần đầu tiên kể từ khi chiếc tàu sân bay hoạt động mà Không lực Hải quân Brazil được phép sở hữu và hoạt động máy bay chiến đấu cánh cố định. Vào lúc nó ngừng hoạt động, nó là chiếc tàu sân bay hoạt động cũ nhất trên thế giới, một danh hiệu mà nó chuyển cho chiếc Kitty Hawk vốn được đưa ra hoạt động vào năm 1961. Chiếc tàu sân bay được đánh dấu để bán vào năm 2002, và được các hiệp hội hải quân tại Anh tìm cách đưa trở về Anh Quốc để bảo tồn như một tàu bảo tàng, cho dù họ không thể quyên góp đủ số tiền cần thiết. Giá đấu đã đạt đến 4 triệu Bảng trước khi món hàng được gở bỏ khỏi website do quy định ngăn chặn việc buôn bán vũ khí quân sự.