✨Majestic (lớp tàu sân bay)

Majestic (lớp tàu sân bay)

Lớp tàu sân bay _Majestic_ bao gồm sáu tàu sân bay hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Do chiến tranh kết thúc, việc chế tạo chúng được tạm ngừng, không có chiếc nào phục vụ cho Hải quân Anh, và chúng chỉ được hoàn tất để bán và phục vụ cùng Australia, Canada và Ấn Độ.

Thiết kế

Lớp tàu sân bay Majestic được xem như một phiên bản cải biến của lớp Colossus, bao gồm nhiều cải tiến trong thiết kế sàn đáp và tiện nghi sinh hoạt. Những tàu sân bay này được dự tính như những tàu chiến "dùng-và-bỏ", chỉ hoạt động trong Thế Chiến II và sẽ được tháo dỡ sau khi chiến tranh kết thúc hoặc sau ba năm phục vụ.

Sáu tàu sân bay thuộc lớp này đã được đặt hàng: HMS Hercules (R49), HMS Leviathan (R97), HMCS Magnificent (CVL 21), HMS Majestic (R77), HMS Powerful (R95) và HMS Terrible (R93). Chúng thay thế cho sáu chiếc cuối cùng trong lớp Colossus bị hủy bỏ.

Chế tạo và sở hữu

Sáu chiếc tàu sân bay được chế tạo bởi bốn xưởng đóng tàu: Harland and Wolff, HM Dockyard Devonport, Swan Hunter và Vickers-Armstrongs. Việc chế tạo được bắt đầu vào những năm 1942 - 1943, và chúng được hạ thủy trong những năm 1944 và 1945. Nhưng sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, Bộ Hải quân Anh ra lệnh tạm ngưng nhiều kế hoạch đóng tàu, bao gồm việc trang bị cho sáu chiếc trong lớp Majestic.

MajesticTerrible được Hải quân Hoàng gia Australia mua lại vào tháng 6 năm 1947 với giá chung là 2,75 triệu Bảng Australia, bao gồm dự trữ, nhiên liệu và đạn dược. Vì Terrible trong tình trạng gần hoàn tất hơn trong số hai chiếc, việc chế tạo được hoàn thành mà không có cải biến nào, và nó được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Australia vào ngày 16 tháng 12 năm 1948 dưới tên gọi HMAS Sydney (R17). Majestic được hoàn tất và đưa vào sử dụng cùng Hải quân Australia dưới tên gọi HMAS Melbourne (R21) vào ngày 28 tháng 10 năm 1955.

Sau chiến tranh, Hải quân Hoàng gia Canada sở hữu chiếc HMCS Magnificent (CVL 21) (là chiếc duy nhất giữ lại tên ban đầu), và đưa nó ra hoạt động vào ngày 7 tháng 4 năm 1948. Đến năm 1952, họ lại mua chiếc Powerful, vốn được nâng cấp tương tự như Majestic/Melbourne. Powerful được đổi tên thành HMCS Bonaventure (CVL 22), và đưa vào hoạt động ngày 17 tháng 1 năm 1957 thay thế cho chiếc tàu chị em với nó.

Hercules cũng được nâng cấp tương tự như Majestic/Melbourne và được bán cho Hải quân Ấn Độ vào năm 1957, được đổi tên thành INS Vikrant và đưa ra hoạt động vào năm 1961.

Leviathan là chiếc duy nhất trong lớp không được hoàn tất. Vào năm 1968, các nồi hơi của nó được tháo dỡ để sử dụng vào việc sửa chữa những nồi hơi bị phá hủy trong một đám cháy trên tàu ARA Veinticinco de Mayo, một tàu sân bay thuộc lớp Colossus sở hữu bởi Hải quân Argentine. Nó bị tháo dỡ vào cuối năm đó.

Lịch sử hoạt động

HMS Hercules (R49) được hạ thủy vào năm 1945, nhưng bị bỏ mặc trong 10 năm cho đến khi được Ấn Độ mua lại. Nó được đưa vào phục vụ cùng Hải quân Ấn Độ vào năm 1961 dưới tên gọi INS Vikrant. Được cho ngừng hoạt động vào năm 1997 và chuyển thành một tàu bảo tàng, Vikrant là chiếc tàu sân bay thời Đệ Nhị thế chiến do Anh Quốc chế tạo duy nhất được bảo tồn sau khi ngừng hoạt động.

HMS Leviathan (R97) được hạ thủy vào năm 1945, nhưng không bao giờ được hoàn tất hay hoạt động. Những nồi hơi của nó được tháo dỡ để sửa chữa chiếc ARA Veinticinco de Mayo vào năm 1968, và nó bị tháo dỡ vào cuối năm đó.

HMCS Magnificent (CVL 21) được hạ thủy vào tháng 11 năm 1944 và đưa vào hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia Canada vào năm 1948. Nó được trả cho Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 14 tháng 6 năm 1957, rồi được giữ lại lực lượng dự bị cho đến năm 1965, khi nó được bán để tháo dỡ tại Faslane, Scotland.

HMS Majestic (R77) được hạ thủy vào năm 1945, và được bán cho Australia vào năm 1947. Majestic được nâng cấp đáng kể, và là chiếc tàu sân bay thứ ba trên thế giới được chế tạo với một sàn đáp chéo góc và máy phóng hơi nước. Con tàu được đặt lại tên là HMAS Melbourne (R21) và được đưa ra hoạt động vào năm 1955. Trong suốt cuộc đời phục vụ, Melbourne chỉ có những hoạt động thứ yếu không chiến đấu trong các cuộc xung đột trong khu vực, nhưng lại vướng vào hai tai nạn lớn trong thời bình, khi va chạm và làm chìm chiếc HMAS Voyager vào năm 1964 và USS Frank E. Evans vào năm 1969. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1982, và được bán sang Trung Quốc để tháo dỡ vào năm 1985. Thay vì tháo dỡ ngay Melbourne, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã giữ lại nghiên cứu con tàu và sử dụng nó vào việc huấn luyện phi công.

HMS Powerful (R95) được hạ thủy vào năm 1945, và được Canada mua lại vào năm 1952 để được nâng cấp lên tiêu chuẩn tương đương như với chiếc Majestic. Nó được đổi tên thành HMCS Bonaventure (CVL 22) và đưa vào phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Canada vào tháng 1 năm 1957 để thay thế cho chiếc tàu chị em Magnificent vốn được hoán đổi với tàu sân bay HMCS Warrior thuộc lớp Colossus vào năm 1948. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1970, và đến năm 1971 được bán sang Đài Loan để tháo dỡ.

HMS Terrible (R93) được hạ thủy vào năm 1944, và được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Australia dưới tên gọi HMAS Sydney (R17) vào năm 1948. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1958, rồi cho tái hoạt động như một tàu chở quân nhanh vào năm 1962. Sydney từng tham gia cả trong Chiến tranh Triều Tiên lẫn Chiến tranh Việt Nam. Nó ngừng hoạt động lần cuối cùng vào năm 1973, và đến năm 1975 được bán sang Hàn Quốc để tháo dỡ.

Những chiếc trong lớp

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu sân bay _Majestic**_ bao gồm sáu tàu sân bay hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Do chiến
**Lớp tàu sân bay _Colossus**_ bao gồm những tàu sân bay hạng nhẹ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mười sáu chiếc đã được vạch kế
nhỏ|300x300px|[[Hàng không mẫu hạm Ý Giuseppe Garibaldi]] **Tàu sân bay hạng nhẹ** hay **tàu sân bay hạng nhẹ hạm đội** là một kiểu tàu sân bay nhỏ hơn tàu sân bay tiêu chuẩn trong hải
**HMCS _Bonaventure**_ là một tàu sân bay thuộc lớp _Majestic_, nguyên được đặt lườn cho Hải quân Hoàng gia Anh dưới tên gọi **HMS _Powerful_**. Nó đã phục vụ cho Hải quân Hoàng gia Canadan
**HMCS _Magnificent_ (CVL 21)** là một tàu sân bay hạng nhẹ thuộc lớp _Majestic_ đã phục vụ cho Hải quân Hoàng gia Canada trong giai đoạn 1946–1956. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm
**HMS _Warrior_ (R31)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Colossus_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được hoàn thành và đưa ra hoạt động khi Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp kết thúc,
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**Hà Hồng Sân** ( ; ; sinh ngày 25 tháng 11 năm 1921mất ngày 26 tháng 5 năm 2020), là một doanh nhân, tỷ phú Hồng Kông-Ma Cao. Họ gốc của ông là Bosman, sau
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Edinburgh**_, theo tên thành phố Edinburgh của Scotland; ngoài ra còn một chiếc được đặt cái tên tương tự **HMS
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Hercules**_ hay **HMS _Hercule_**, theo tên vị anh hùng trong thần thoại Hy Lạp và La Mã Heracles: * là
**RMS _Olympic**_ là tàu hàng hải đầu tiên trong số ba con tàu hạng _Olympic_ của hãng tàu White Star Line, cùng với _Titanic_ và _Britannic_. Không như hai con tàu còn lại trong bộ,
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**Kuala Lumpur**, tên chính thức là **Lãnh thổ Liên bang Kuala Lumpur** (tiếng Mã Lai: Wilayah Persekutuan Kuala Lumpur), hay thường được viết tắt là **KL**, là thủ đô liên bang và thành phố đông
Đại úy **Harry Griffith Cramer Jr.** (ngày 24 tháng 5 năm 1926, Johnstown, Pennsylvania – ngày 21 tháng 10 năm 1957, gần Nha Trang, Việt Nam Cộng hòa) là quân nhân Mỹ từng tham chiến
**Dame Angela Brigid Lansbury** DBE (16 tháng 10 năm 1925 – 11 tháng 10 năm 2022) là một nữ diễn viên kiêm ca sĩ người Ai len - Anh - Mỹ. Bà xuất hiện rất
**Boston** (phát âm tiếng Anh: ) là thủ phủ và thành phố lớn nhất của khu vực Thịnh vượng chung Massachusetts tại Hoa Kỳ. Boston cũng đóng vai trò là quận lỵ của quận Suffolk.
thumb|Bản đồ thế giới các nước tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất. Khối Hiệp ước màu xanh, [[Liên minh Trung tâm màu cam, và các nước trung lập màu xám.]] **Hội nghị Hòa
**_Final Fantasy IV_**, còn được gọi là **_Final Fantasy II_** trong bản phát hành đầu tiên ở Bắc Mỹ, là một trò chơi điện tử nhập vai do Square (nay là Square Enix) phát triển
**Olga Scheps** (tiếng Việt: /ôn-ga sep/, tiếng Mỹ: /ɒlgə sɛp/) là một nghệ sĩ dương cầm người Đức gốc Nga, hiện sống tại Cô-lô-nhơ thuộc Đức. Olga Scheps thường được nhắc đến vì là một
**Hà Đông** là một quận nội thành cũ của thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Quận Hà Đông nằm ở phía tây nam nội thành của thủ đô Hà Nội, nằm cách