✨Haruna (thiết giáp hạm Nhật)

Haruna (thiết giáp hạm Nhật)

Haruna (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh thế giới thứ hai. Được thiết kế bởi kỹ sư hàng hải người Anh George Thurston, nó là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ tư và cũng là chiếc cuối cùng của lớp Kongō, là một trong những tàu chiến được trang bị mạnh mẽ nhất đối với hải quân mọi quốc gia từng được chế tạo. Được đặt lườn vào năm 1912 tại xưởng tàu của hãng Kawasaki tại Kôbe, Haruna được chính thức đưa ra hoạt động vào năm 1915, cùng ngày với con tàu chị em Kirishima. Haruna đã tuần tra dọc theo bờ biển Trung Quốc trong Thế Chiến I. Trong một cuộc thực tập tác xạ vào năm 1920, một vụ nổ đã phá hủy một khẩu pháo của nó, làm hư hại tháp pháo và khiến bảy người thiệt mạng.

Trong suốt quá trình phục vụ, Haruna đã hai lần được cải tạo lớn. Bắt đầu từ năm 1926, Hải quân Đế quốc Nhật Bản tái cấu trúc nó trở thành một thiết giáp hạm, tăng cường vỏ giáp và cải thiện khả năng động lực và tốc độ. Đến năm 1933, cấu trúc thượng tầng của nó được chế tạo lại toàn bộ, tăng thêm tốc độ, và được trang bị máy phóng dành cho thủy phi cơ. Giờ đây có tốc độ đủ nhanh để tháp tùng hạm đội tàu sân bay đang lớn mạnh, Haruna được xếp lại lớp thành một thiết giáp hạm nhanh. Trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật, Haruna đã vận chuyển lực lượng Lục quân Nhật Bản sang lục địa Trung Quốc trước khi được tái bố trí về Đội thiết giáp hạm 3 vào năm 1941. Ngay trước khi diễn ra cuộc tập kích bất ngờ xuống Trân Châu Cảng, nó lên đường trong thành phần Lực lượng phía Nam chuẩn bị cho việc tấn công Singapore.

Haruna đã chiến đấu trong hầu hết các trận chiến chủ yếu tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế Chiến II. Nó đã yểm trợ cho các cuộc đổ bộ lên Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan (Malaysia và Indonesia ngày hôm nay) vào năm 1942, trước khi đối đầu lực lượng Mỹ trong trận Midway và trong suốt chiến dịch Guadalcanal. Trong suốt năm 1943, Haruna hầu như ở lại các căn cứ tại Truk, Kure, Sasebo và Lingga, đã được bố trí trong nhiều dịp để đối phó với các cuộc tấn công của Mỹ vào các căn cứ Nhật Bản. Haruna tham gia trong cả trận chiến biển Philippine và hải chiến vịnh Leyte trong năm 1944, đã đối đầu cùng các tàu chiến Mỹ trong dịp này. Vào năm 1945, Haruna được chuyển về Căn cứ Hải quân Kure trước khi bị đánh chìm bởi máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm 38 vào ngày 24 tháng 7 năm 1945.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Haruna là chiếc thứ tư và là chiếc cuối cùng thuộc lớp tàu chiến-tuần dương Kongō của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, một lớp tàu chiến chủ lực được kỹ sư hàng hải người Anh George Thurston thiết kế. Bốn chiếc tàu chiến-tuần dương của lớp Kongō được thiết kế để nhằm bắt kịp khả năng của các thế lực hải quân lớn trên thế giới vào thời đó; chúng được gọi là phiên bản tàu chiến-tuần dương của chiếc thiết giáp hạm Anh Quốc HMS Erin nguyên trước đây thuộc Hải quân Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ). Mỗi khẩu trong dàn pháo chính có thể bắn đạn công phá hay đạn xuyên thép với tầm xa tối đa và với tốc độ bắn hai phát mỗi phút. Các khẩu pháo chính mang theo 90 quả đạn, và có tuổi thọ nòng pháo khoảng 250-280 lần bắn. Vào năm 1941, chất phẩm nhuộm màu riêng biệt được áp dụng cho đạn pháo xuyên thép trên bốn chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm Kongo, và Haruna được trang bị đạn pháo xuyên thép nhuộm màu đen. chúng có khả năng bắn cả đạn chống hạm lẫn đạn phòng không, mặc dù vị trí các khẩu pháo trên chiếc Haruna khiến cho việc tác xạ phòng không không khả thi. kiểu pháo này trên chiếc Haruna có nhiều loại đạn pháo khác nhau, được thiết kế để bắn đạn phòng không, đạn chống hạm và pháo sáng.

Lịch sử hoạt động

1915-1926: Tàu chiến-tuần dương

Vào ngày 19 tháng 4 năm 1915, Haruna chính thức được đưa vào hoạt động tại Kôbe, và Đại tá Funakoshi là vị chỉ huy đầu tiên của con tàu. Ngày 13 tháng 12 năm 1915, sau tám tháng chạy thử máy, Haruna được bố trí đến Hải đội Thiết giáp hạm 3 trực thuộc Hạm Đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và Đại tá Mitsuzo Nunome tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu. Vào ngày 9 tháng 4 năm 1916, Haruna rời Căn cứ Hải quân Sasebo để hoạt động tại biển Đông Trung Quốc, và quay trở về Nhật Bản mười ngày sau đó. Ngày 1 tháng 1 năm 1916, Đại tá Saburo Hyakutake tiếp nhận quyền chỉ huy chiếc Haruna cho đến ngày 15 tháng 9 năm 1917, khi Đại tá Naomi Taniguchi thay thế ông. Vào ngày 1 tháng 12 năm 1917, Haruna được đưa về làm lực lượng dự bị, vì tình trạng chiến sự tại mặt trận Thái Bình Dương của Chiến tranh Thế giới thứ nhất đã chấm dứt. Hiệp ước này còn giới hạn không cho phép Nhật Bản chế tạo tàu chiến chủ lực mới cho đến năm 1931, và không có chiếc nào có trọng lượng choán nước vượt quá . Những tàu chiến hiện hữu được phép nâng cấp bổ sung thêm đai giáp chống ngư lôi và vỏ giáp trên sàn tàu nhưng lượng choán nước cộng thêm vào không vượt quá 3.000 tấn.

1926-1933: Tái cấu trúc lần thứ nhất - Thiết giáp hạm

Vì không thể chế tạo tàu chiến chủ lực mới cho đến tận năm 1931, Nhật Bản quyết định cho nâng cấp những chiếc thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương cũ hơn. Vào tháng 7 năm 1926, Haruna trở thành tàu chiến đầu tiên của Nhật Bản được cải tiến và hiện đại hóa một cách triệt để khi nó vào ụ tàu của Xưởng vũ khí Yokosuka. Vào ngày 1 tháng 10 năm 1931, sau các sửa chữa bổ sung nhỏ khác, việc tái cấu trúc chiếc Haruna được tuyên bố hoàn tất. Haruna đưa đưa vào hoạt động thường trực và được bố trí vào Hải đội Thiết giáp hạm 1 vào ngày 20 tháng 5 năm 1933.

Vỏ giáp của chiếc Haruna cũng được nâng cấp đáng kể. Từ một độ dày thay đổi từ 6 đến 8 inch, đai giáp được tăng cường lên 8 inch đồng đều, trong khi các vách ngăn chéo với độ sâu giờ đây gia cố thêm cho đi giáp chính. Lớp giáp của tháp pháo được nâng cấp lên , và một phần của sàn tàu được bổ sung giáp dày . Một tháng sau, Haruna vận chuyển các đơn vị Lục quân Nhật Bản sang lục địa Trung Hoa nhằm chuẩn bị cho các chiến dịch đánh sâu vào lãnh thổ do Quốc Dân Đảng kiểm soát. Đến ngày 1 tháng 12 năm 1937, một lần nữa Haruna được đưa về làm lực lượng dự bị. Vào ngày 4 tháng 12 năm 1941, lực lượng này đi đến vùng biển ngoài khơi Nam Thái Lan chuẩn bị cho những chiến dịch tấn công vào các vị trí của Anh tại Singapore bốn ngày sau đó. Sau khi "Lực lượng Z" của Anh Quốc, bao gồm thiết giáp hạm Prince of Wales và tàu chiến-tuần dương Repulse bị máy bay xuất phát từ Sài Gòn đánh chìm, nhóm chiến đấu của Haruna rút lui khỏi Malaya; rồi sau đó rời Đông Dương trong ba ngày vào giữa tháng 12 để bảo vệ một đoàn tàu vận tải tăng cường đi đến Malaya, và một lần nữa vào ngày 18 tháng 12 để yểm trợ cuộc đổ bộ của Lục quân Nhật lên vịnh Lingayen thuộc Philippines. Lực lượng Chủ lực rời vịnh Cam Ranh ngày 23 tháng 12 hướng đến Đài Loan, và đến nơi đó hai ngày sau. Tiếp theo sau việc tiêu diệt chiếc Dorsetshire vào ngày 5 tháng 4 năm 1942, Haruna được gửi đến hướng Tây Nam để truy tìm phần còn lại của Hạm đội Viễn Đông Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của Đô đốc James Somerville. Vào ngày 9 tháng 4 năm 1942, một trong những máy bay trinh sát của chiếc Haruna phát hiện ra chiếc tàu sân bay Hermes ở phía Nam Trincomalee; và các cuộc không kích của Nhật đã đánh chìm nó trong ngày hôm đó. Vào ngày 4 tháng 6, Haruna chịu đựng nhiều đợt tấn công của máy bay ném bom-ngư lôi của Hải quân Hoa Kỳ, nhưng nó thoát ra mà không bị đánh trúng cú nào đồng thời bắn rơi được năm máy bay đối phương. Vào ngày 20 tháng 9 năm 1942, hạm đội được lệnh quay trở về Truk.

Sau trận chiến mũi Esperance, Lục quân Nhật Bản quyết định tăng cường cho các vị trí của họ tại Guadalcanal. Để bảo vệ cho các đoàn tàu vận tải tránh khỏi các cuộc không kích của đối phương, Đô đốc Yamamoto Isoroku cho phái HarunaKongō, được một tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục hộ tống, đến bắn phá sân bay Henderson. Nhờ tốc độ nhanh, hai chiếc thiết giáp hạm có thể tiến hành bắn phá sân bay rồi rút lui trước khi có thể chịu đựng các cuộc không kích từ các tàu sân bay đối phương. Trong đêm 13-14 tháng 10 năm 1942, chúng đã bắn phá sân bay Henderson từ khoảng cách với tổng cộng 973 quả đạn pháo 356 mm (14 inch). Đây được xem là cuộc tấn công bằng thiết giáp hạm thành công nhất của Nhật Bản trong chiến tranh, Các đoàn tàu vận tải Nhật Bản đến được hòn đảo vào ngày hôm sau. Từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 2 năm 1943, Hải đội Thiết giáp hạm 3 được chuyển từ Truk về căn cứ hải quân Kure. Từ ngày 23 tháng 2 đến ngày 31 tháng 3 năm 1943, Haruna vào ụ tàu tại Kure để nâng cấp, được trang bị thêm các khẩu súng phòng không Kiểu 96 và tăng cường vỏ giáp. Ngày 17 tháng 5 năm 1943, đáp trả lại việc quân Mỹ tấn công lên đảo Attu thuộc quần đảo Aleut, Haruna khởi hành cùng với thiết giáp hạm Musashi, Hải đội Thiết giáp hạm 3, hai tàu sân bay, hai tàu tuần dương và chín tàu khu trục. Ba ngày sau, tàu ngầm Mỹ USS Sawfish phát hiện ra lực lượng này nhưng không thể tấn công. Vào ngày 22 tháng 5 năm 1943, lực lượng đặc nhiệm này đi đến Yokosuka, nơi nó được bổ sung thêm hai tàu sân bay hạm đội và hai tàu tuần dương hạng nhẹ. Tuy nhiên lực lượng này sau đó được giải tán khi Attu thất thủ trước khi các công việc chuẩn bị cần thiết kịp hoàn tất. Trong suốt tháng 6 năm 1943, Haruna được tái trang bị tại Yokosuka. Vào ngày 18 tháng 9 năm 1943, Haruna rời Truk như một phần của lực lượng phản công đáp trả lại vụ không kích của Mỹ lên đảo Brown thuộc quần đảo Micronesia, nhưng họ đã không thể bắt gặp đối phương và chiếc tàu chiến quay trở về căn cứ. Trong Trận chiến biển Philippine diễn biến sau đó, Haruna hộ tống các tàu sân bay nhanh của Nhật Bản, và vào ngày 20 tháng 6 năm 1944 nó đã bi máy bay cất cánh từ các tàu sân bay Mỹ đánh trúng hai quả bom xuyên thép . Ngày 24 tháng 6, Haruna vào ụ tàu tại Kure để sửa chữa và tái trang bị. Đến tháng 8 năm 1944 nó được chuyển đến Lingga. Vào ngày 24 tháng 10 năm 1944, chịu đựng các cuộc không kích xuất phát từ các tàu sân bay Mỹ trong vùng biển Sibuyan, Haruna bị hư hại nhẹ bởi mảnh bom từ những cú suýt trúng. Ngày 25 tháng 10, trong trận chiến ngoài khơi Samar, nằm trong thành phần lực lượng trung tâm của Đô đốc Kurita, Haruna đã tấn công các tàu sân bay hộ tống và tàu khu trục của lực lượng "Taffy 3" thuộc Hạm đội 7 Hoa Kỳ. Đạn pháo của Haruna đã nhiều lần suýt trúng vào hai chiếc tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ, trước khi nó phải lẩn tránh các quả ngư lôi do đối phương phóng ra. Sau các hoạt động phòng ngự ác liệt của các con tàu Mỹ, vốn đã đánh chìm ba tàu tuần dương hạng nặng của Nhật, Đô đốc Kurita quyết định rút lui kết thúc trận đánh.

Sau thất bại của Hải quân Nhật tại vịnh Leyte, Haruna quay trở về Brunei và Lingga để sửa chữa. Vào ngày 22 tháng 11 năm 1944, Haruna bị mắc cạn tại một bãi san hô ngầm gần Lingga, bị hỏng nặng các khoang kín nước, và nó buộc phải quay về Sasebo để vá lại lườn tàu.

1945: Bị mất

nhỏ|phải|Haruna bị đánh chìm tại nơi nó neo đậu|alt=a heavily damaged Haruna, having sunk from the stern, several days after coming under attack at her moorings Ngày 1 tháng 1 năm 1945, Haruna được rút khỏi Hải đội Thiết giáp hạm 3 vốn đã ngưng hoạt động để chuyển sang Hải đội Thiết giáp hạm 1 của Hạm đội 2. Vào ngày 10 tháng 2, Haruna được phân về Căn cứ Hải quân Kure. Đến ngày 19 tháng 3 năm 1945, máy bay từ các tàu sân bay Mỹ tấn công vào lực lượng còn lại của Hải quân Nhật tại Kure. Thiệt hại không đáng kể một phần là nhờ căn cứ được phòng thủ bởi các phi công dày dạn kinh nghiệm đang làm nhiệm vụ huấn luyện phi công mới, lái những chiếc máy bay tiêm kích mới Kawanishi N1K "Shiden" hoặc "George". đã gây bất ngờ cho những kẻ tấn công, và nhiều máy bay Mỹ đã bị bắn rơi. Haruna bị đánh trúng một quả bom duy nhất bên mạn phải nhưng chỉ gây thiệt hại nhẹ cho con tàu.

Từ ngày 24 tháng 7 năm 1945, Lực lượng Đặc nhiệm 38 của Hải quân Mỹ bắt đầu một loạt các cuộc không kích xuống căn cứ hải quân Kure với ý định tiêu diệt hoàn toàn phần còn lại của Hải quân Nhật. Trong ngày hôm đó, thiết giáp hạm Hyūga bị đánh chìm, và Haruna bị đánh trúng một quả bom gây hư hại nhẹ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Haruna_** (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**_Nagato_** (tiếng Nhật: 長門, **_Trường Môn_**), được đặt theo tên tỉnh Nagato, là một thiết giáp hạm siêu-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. _Nagato_ là chiếc thiết giáp hạm đầu
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**_Fusō_** (tiếng Nhật: 扶桑, _Phù Tang,_ một tên cũ của Nhật Bản), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm cùng tên.
**_Yamato_** (), tên được đặt theo vùng đất nay là tỉnh Nara của Nhật Bản, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II, và là soái hạm
**_Kirishima_** (tiếng Nhật: 霧島) là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kongō_ từng hoạt động trong Thế Chiến II và bị đánh chìm trong trận Hải chiến Guadalcanal.
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**** là một chiến lược hải quân nhằm định hướng sự phát triển của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho giai đoạn đầu thế kỷ 20. Chiến lược này yêu cầu Hải quân Nhật
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**_Yahagi_** (tiếng Nhật: 矢矧) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Yahagi_ đã bị máy
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
**_Noshiro_** (tiếng Nhật: 能代) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó bị máy bay
**_Isuzu_** (tiếng Nhật: 五十鈴) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Isuzu gần đền Ise thuộc khu vực
**_Junyō_** (kanji: 隼鷹, âm Hán-Việt: Chuẩn ưng, nghĩa là "đại bàng") là một tàu sân bay thuộc lớp _Hiyō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được đặt lườn bởi hãng _Nippon Yusen Kaisha_
**_Kitakami_** (tiếng Nhật: 北上) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Hatsuzuki_** (tiếng Nhật: 初月 - _Sơ Nguyệt)_ là một khu trục hạm lớp _Akizuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Là con tàu thứ tư của lớp _Akizuki_, _Hatsuzuki_ đã tham chiến tích cực
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
## Lớp thiết giáp hạm (Tạm ngưng sản xuất) Hầu hết ở thời điểm này đều gần như không có _Lớp thiết giáp hạm_ nào được sản xuất, Đây là danh sách các _Thiết giáp
**Trận chiến sân bay Henderson**, hay còn được bên Nhật Bản gọi là **trận Lunga Point**, là trận đánh diễn ra từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 26 tháng 10 năm 1942 tại Guadalcanal
**USS _Samuel B. Roberts_ (DE-413)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên của
Khẩu **Vickers 14 inch 45 li** được thiết kế và chế tạo bởi Vickers và ban đầu được lắp đặt trên thiết giáp-tuần dương _Kongō _được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
**Hải chiến ngoài khơi Samar** hay **Trận Samar** là trận đánh mang tính quan trọng trong thời gian diễn ra cuộc Hải chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch
**Trận chiến biển Philippines** (hay còn được gọi là **"Cuộc bắn gà ở quần đảo Mariana"**) là trận hải chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Trận hải chiến ở quần đảo Santa Cruz** vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, người Nhật Bản thường gọi là **Minami Taiheiyou Kaisen** (南太平洋海戦, みなみたいへいようかいせん) là trận hải chiến thứ tư giữa các tàu
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**USS _Heermann_ (DD-532)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
(26 tháng 7 năm 1890 – 7 tháng 4 năm 1945) là một trong những đô đốc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai. Ông là chỉ huy trưởng của
**Tàu khu trục lớp Hyūga** (tiếng Nhật: ひゅうが型護衛艦) llà lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng (DDH) thuộc biên chế của Lực lược Phòng vệ trên biển Nhật Bản. Tên của lớp tàu
**Hải chiến mũi Esperance** hay theo Nhật Bản gọi là **Savo-tō Oki Kaisen** (サボ島沖海戦, サボとうおきかいせん) diễn ra từ ngày 11 đến ngày 12 tháng 10 năm 1942, là một trong nhiều trận hải chiến giữa
là một phi công Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sakai là phi công ách chủ bài ("Gekitsui-O", 撃墜王) của Hải quân Nhật Bản có thành tích cao
**USS _Hoel_ (DD-533)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ
**USS _Manila Bay_ (CVE-61)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo vịnh Manila, Philippines,
**USS _Shangri-La_ (CV/CVA/CVS-38)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được hoàn tất trong hoặc ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai cho Hải quân Hoa Kỳ. Được đưa ra
**Boeing B-17 Flying Fortress** **(Pháo đài bay)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Hoa Kỳ (USAAF) và được đưa vào sử dụng vào cuối
là một đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến II. Ông là vị Tổng tư lệnh cuối cùng của Hạm đội Liên hợp. Nhiều nhà sử học quân sự xem Ozawa