✨Nagara (tàu tuần dương Nhật)

Nagara (tàu tuần dương Nhật)

Nagara (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara thuộc vùng Chūbu của Nhật Bản. Nagara từng được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và đã bị tàu ngầm Croaker đánh chìm ngày 7 tháng 8 năm 1944 ngoài khơi Amakusa, Đông Hải.

Thiết kế và chế tạo

Nagara là chiếc đầu tiên được hoàn tất trong lớp Nagara, và giống như những chiếc cùng lớp, nó được dự định sử dụng như soái hạm của hải đội tàu khu trục. Chính trong vai trò này mà nó đã tham gia cuộc chiếm đóng Philippines và Đông Ấn thuộc Hà Lan sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng.

Nagara được đặt lườn tại xưởng hải quân Sasebo ngày 9 tháng 9 năm 1920, được hạ thủy ngày 25 tháng 4 năm 1921 và đưa vào hoạt động ngày 21 tháng 4 năm 1922.

Lịch sử hoạt động

Các hoạt động ban đầu

Không lâu sau khi được đưa ra hoạt động, Nagara được phân về căn cứ hải quân Nhật Bản tại Lữ Thuận, nơi nó xuất phát các cuộc tuần tra dọc theo bờ biển Trung Quốc đến Thanh Đảo. Khi cường độ của cuộc Chiến tranh Trung-Nhật tiếp tục gia tăng, Nagara được giao nhiệm vụ hộ tống các cuộc vận chuyển lực lượng Nhật Bản trong trận Thượng Hải, rồi tiếp tục các cuộc tuần tra dọc theo bờ biển Trung Quốc và sông Dương Tử cho đến năm 1939. Cùng với các tàu tuần dương hạng nặng MyōkōNachi, Nagara tham gia Chiến dịch đảo Hải Nam vào tháng 2 năm 1939 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Kondo Nobutake. Từ ngày 30 tháng 1 năm 1941 đến ngày 8 tháng 4 năm 1941, Nagara hỗ trợ cho cuộc Chiếm đóng Đông Dương thuộc Pháp. Từ ngày 10 tháng 6 năm 1941 đến ngày 9 tháng 9 năm 1941, Nagara hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên miền Nam Trung Quốc.

Chiếm đóng Philippines và Đông Ấn thuộc Hà Lan

Ngày 10 tháng 9 năm 1941, Nagara được phân về Hải đội Tuần dương 16 thuộc Hạm đội 3 Nhật Bản dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Ibo Takahashi, cùng với các tàu tuần dương hạng nhẹ KumaNatori và các tàu khu trục của Hải đội Khu trục 5. Ngày 26 tháng 11 năm 1941, như là soái hạm của Đơn vị Tấn công Bất ngờ 4 của Chuẩn Đô đốc Kyuji Kubo, Nagara đặt căn cứ tại Palau vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Trong các ngày 11 và 12 tháng 12 năm 1941, Nagara hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Legaspi, Luzon, Philippines, và một lần nữa từ ngày 24 đến ngày 30 tháng 12 năm 1941 để hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ khác lên nhiều địa điểm phía Đông Nam Luzon.

Trong tháng 1 năm 1942, Nagara được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của Lực lượng Đổ bộ Hải quân Đặc biệt Sasebo Số 1 tại Menado, Kema và Kendari trên đảo Celebes. Vào ngày 25 tháng 1 năm 1942, trong khi ở Kendari, chiếc tàu khu trục Hatsuharu va chạm với Nagara, làm hư hại lườn chiếc tàu tuần dương. Chuẩn Đô đốc Kubo chuyển cờ hiệu của mình sang chiếc Hatsushimo, và Nagara rút lui về Davao để sửa chữa.

Quay trở lại Celebes vào ngày 4 tháng 2 năm 1942, Chuẩn Đô đốc Kubo chuyển cờ hiệu của mình trở lại chiếc Nagara, rồi sau đó hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Makassar. Giữa đêm 6 tháng 2 năm 1942, lực lượng chiếm đóng bị chiếc tàu ngầm Mỹ USS Sculpin (SS-191) phát hiện, vốn nhận diện sai chiếc Nagara là một tàu tuần dương thuộc lớp Tenryu, và đã bắn hai quả ngư lôi Mark 14, trong đó một quả bị trượt và quả kia nổ sớm.

Ngày 17 tháng 2 năm 1942, Nagara hộ tống cho việc vận chuyển Sư đoàn 48 Lục quân để chiếm đóng Bali và Java. Trong khi hoạt động, chiếc tàu ngầm Hải quân Hoàng gia Anh HMS Truant đã bắn sáu ngư lôi nhắm vào Nagara, nhưng tất cả đều bị trượt. Ngày 10 tháng 3 năm 1942, Hạm đội 3 bị giải thể và được thay thế bởi Hạm đội Viễn chinh Phương Nam 2 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Takahashi. Nagara tiếp tục ở lại trong Hải đội Tuần dương 16 của chuẩn Đô đốc Kenzaburo Hara cùng với các tàu tuần dương hạng nhẹ KinuNatori.

Vào ngày 29 tháng 3 năm 1942, Nagara nằm trong thành phần lực lượng được gửi đến chiếm đảo Christmas. Trong trận đánh, tàu ngầm Mỹ USS Seawolf (SS-197) đã phóng ba quả ngư lôi nhắm vào Nagara, nhưng tất cả đều bị trượt. Nagara khởi hành quay trở về Nhật Bản vào ngày 2 tháng 4 năm 1942, nơi nó được tái trang bị tại Maizuru, Kyoto với hai súng máy Kiểu 93 13 mm nòng đôi.

Sau đó Nagara trở thành soái hạm của Hải đội Khu trục 10 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Susumu Kimura, bao gồm các tàu khu trục Nowaki, Arashi, Hagikaze, Maikaze, Makigumo, Kazagumo, Yugumo, Urakaze, Isokaze, Hamakaze, Tanikaze, trực thuộc Hạm đội 1 Nhật Bản của Đô đốc Nagumo Chuichi.

Trận Midway

Trong Trận Midway, Nagara tháp tùng Lực lượng Tấn công Tàu sân bay của Đô đốc Nagumo, cùng các tàu sân bay Akagi, Kaga, Soryu, Hiryū, các tàu tuần dương Tone, Chikuma cùng các thiết giáp hạm HarunaKirishima. Ngày 4 tháng 6 năm 1942, Nagara phản công bất thành vào tàu ngầm Mỹ USS Nautilus (SS-168) sau khi chiếc này tìm cách phóng ngư lôi vào thiết giáp hạm Kirishima. Sau khi Akagi bị máy bay ném bom bổ nhào từ tàu sân bay Mỹ USS Enterprise đánh trúng và bốc cháy, Phó Đô đốc Nagumo chuyển cờ hiệu của mình sang chiếc Nowaki rồi sau đó sang chiếc Nagara. Nagara quay trở về Nhật Bản an toàn vào ngày 13 tháng 6 năm 1942.

Trận chiến quần đảo Solomon

Vào ngày 14 tháng 7 năm 1942, Hải đội Khu trục 10 cùng với Nagara được bố trí về Hạm Đội 3, và đã lên đường hướng đến Truk thuộc quần đảo Caroline vào ngày 16 tháng 8 năm 1942. Lực lượng của Hạm đội còn bao gồm các tàu sân bay Shokaku, Zuikaku, RyuhoZuiho, các thiết giáp hạm HieiKirishima, các tàu tuần dương ToneChikuma cùng các tàu khu trục Akigumo, Makigumo, Kazagumo, Yugumo, Akizuki, Hatsukaze, Nowaki, Amatsukaze, Maikaze, TanikazeTokitsukaze.

Vào ngày 25 tháng 8 năm 1942, Nagara tham gia trận chiến Đông Solomons, khi nó thoát ra được mà không bị thiệt hại, và quay trở về Truk vào ngày 5 tháng 9 năm 1942. Từ Truk, Nagara thực hiện nhiều chuyến đi về phía quần đảo Solomon trong tháng 9. Trong các ngày 25 và 26 tháng 10 năm 1942, Nagara tham gia trận Santa Cruz, và một lần nữa quay trở về Truk mà không bị thiệt hại.

Vào ngày 9 tháng 11 năm 1942, Chuẩn Đô đốc Kimura cùng hải đội của Nagara được giao nhiệm vụ hộ tống HieiKirishima trong một kế hoạch tăng viện, dự định đổ bộ một lực lượng 14.500 người, vũ khí hạng nặng và hàng tiếp liệu đến Guadalcanal. Cuộc đổ bộ được mở đầu bởi một cuộc bắn phá sân bay Henderson bởi các thiết giáp hạm; và hoạt động này đã trở thành cuộc Hải chiến Guadalcanal thứ nhất trong ngày 13 tháng 11 năm 1942. Trong cuộc đụng độ, AkatsukiYudachi bị đánh chìm, trong khi Hiei, Amatsukaze, MurasameIkazuchi bị hư hại. Nagara chịu đựng hỏa lực từ tàu tuần dương Mỹ USS San Francisco, trúng phải trực tiếp một quả đạn pháo 127 mm (5 inch) làm thiệt mạng năm thủy thủ nhưng chỉ gây hư hại nhẹ cho thân tàu. Nagara rút lui về hướng Tây vòng quanh đảo Savo để hộ tống Kirishima cùng Hiei được kéo đi, nhưng sau đó Hiei bị đánh chìm bởi máy bay xuất phát từ sân bay Henderson, tàu sân bay USS Enterprise và máy bay ném bom hạng nặng B-17 Flying Fortress cất cánh từ Espiritu Santo.

Phó Đô đốc Gunichi Mikawa khởi hành từ quần đảo Shortland hướng đến Guadalcanal trên chiếc tàu tuần dương Chōkai cùng với các tàu tuần dương KinugasaIsuzu và các tàu khu trục ArashioAsashio để thực hiện kế hoạch ban đầu của Kondo và bắn phá sân bay Henderson bằng các tàu tuần dương của mình sau khi Abe thất bại với các thiết giáp hạm của ông. Các tàu tuần dương Maya, SuzuyaTenryu cùng các tàu khu trục Kazagumo, Makigumo, MichishioYugumo tháp tùng, trong khi Kirishima, Atago, Takao, Nagara và sáu tàu khu trục hình thành nên đơn vị hộ tống.

Điều này đã dẫn đến cuộc Hải chiến Guadalcanal vào ngày 15 tháng 11 năm 1942. Nagara và các tàu khu trục của mình đã đối đầu lực lượng Mỹ bằng hải pháo và ngư lôi Kiểu 93 "Long Lance". Trong trận chiến, đã có hơn 30 ngư lôi được phóng nhắm vào thiết giáp hạm USS South Dakota, nhưng tất cả đều bị trượt. Tuy nhiên, các tàu khu trục USS Preston và USS Walke bị đánh chìm và chiếc USS Benham bị hỏng nặng đến mực phải tự đánh đắm tối hôm sau. Về phía lực lượng Nhật, Kirishima và tàu khu trục Ayanami bị mất, nhưng Nagara thoát ra mà không bị hư hại, và quay trở về Truk vào ngày 18 tháng 11 năm 1942.

Ngày 20 tháng 11 năm 1942, Nagara trở thành soái hạm của Hải đội Khu trục 4 thuộc quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Takama, trong khi chiếc tàu tuần dương Agano vừa mới được đưa ra hoạt động thay thế cho Nagara làm soái hạm cho Hải đội Khu trục 10. Hải đội Khu trục 4 bao gồm ba đội với tổng cộng chín tàu khu trục: Đội 2 với ba chiếc, Đội 9 hai chiếc và Đội 27 bốn tàu khu trục.

Sau khi quay về Maizuru để tái trang bị vào cuối năm 1942, tháp pháo 140 mm Số 5 của Nagara được tháo bỏ. Trong một cuộc thực tập tác xạ ngoài khơi Saipan, Nagara chịu đựng hư hại nhẹ trên cấu trúc thượng tầng sau một tai nạn nổ đạn pháo; nó quay trở về Truk vào ngày 25 tháng 1 năm 1943. Vào đầu tháng 2, Nagara tham gia việc triệt thoái lực lượng khỏi Guadalcanal, cứu được 11.700 binh lính Lục quân Nhật còn sống sót. Sang tháng 6 năm 1943, Nagara vận chuyển Lực lượng Đổ bộ Đặc biệt Hải quân Yokosuka Số 2 đến chiếm đóng Nauru.

Các hoạt động tại Nam Thái Bình Dương

Trong tháng 7 năm 1943, Nagara tham gia hộ tống tàu sân bay Junyo để vận chuyển máy bay đến Kavieng, New Guinea. Trong khi neo đậu tại đây, Nagara trúng phải một thủy lôi do một thủy phi cơ Australia PBY Catalina thả vào ban đêm, gây hư hại nhẹ cho đáy tàu phía Đuôi tàu, nhưng nó vẫn có thể tiếp tục hoạt động.

Vào ngày 20 tháng 7 năm 1943, Hải đội Khu trục 4 bị giải thể, và Nagara thay thế cho tàu tuần dương Jintsu làm soái hạm cho Hải đội Khu trục 2 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Shunji Isaki thuộc Hạm đội 2, bao gồm các đội 24, 27 và 31 cùng ba tàu khu trục trực thuộc. Sau đó Nagara được tàu tuần dương Noshiro vừa mới đưa vào hoạt động thay thế trong vai trò soái hạm của Hải đội Tuần dương 2 vào ngày 20 tháng 8 năm 1943, và nó được phân về Hạm đội 8 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Nam tước Tomoshige Samejima. Nagara quay trở về Maizuru để được tái trang bị với một bộ radar dò tìm trên không Kiểu 21 và bốn khẩu đội pháo phòng không 25 mm Kiểu 96 hai nòng.

Ngày 1 tháng 11 năm 1943, Nagara thay thế cho tàu tuần dương Kashima như là soái hạm của Hạm đội 4 dưới quyền chỉ huy của Phó đô đốc Masami Kobayashi. Vào ngày 14 tháng 11 năm 1943, nó trợ giúp kéo chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Agano quay trở về Truk sau khi chiếc này trúng phải ngư lôi từ tàu ngầm Mỹ USS Skate.

Ngày 22 tháng 11 năm 1943, Nagara rời Truk để đối phó lại cuộc tấn công của lực lượng Mỹ lên đảo Tarawa và quần đảo Gilbert, đi đến Kwajalein vào ngày 26 tháng 11 năm 1943. Nó bị những máy bay ném bom-ngư lôi TBF Avenger và máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless từ các tàu sân bay USS Enterprise và USS Essex thuộc Đội Đặc nhiệm 50.3 tấn công. Những hư hại gây ra buộc nó phải quay về Nhật Bản trong tháng 1 năm 1944 để sửa chữa.

Tại Maizuru từ ngày 26 tháng 1 năm 1944, Nagara lại được cải biến. Tháp pháo 140 mm Số 7 được tháo bỏ thay thế bằng một khẩu đội phòng không 127 mm không che chắn. Các ống phóng ngư lôi nòng đôi phía trước và phía sau được thay thế bằng hai ống phóng bốn nòng phía sau. Máy phóng máy bay được tháo bỏ thay thế bằng hai khẩu pháo phòng không 25 mm Kiểu 96 ba nòng, nâng tổng số súng 25 mm lên 22 nòng (2x3, 6x2, 4x1). Đường ray thả mìn sâu được lắp ở phía đuôi tàu và một bộ dò âm dưới nước Kiểu 93 được trang bị phía trước mũi.

Ngày 15 tháng 5 năm 1944, Nagara thay thế cho tàu tuần dương Tatsuta làm soái hạm cho Hải đội Khu trục 11 trực thuộc Hạm đội Liên Hợp. Nó ở lại vùng biển nhà Nhật Bản tiến hành huấn luyện cùng các tàu khu trục mới, thực hiện hộ tống một đoàn tàu vận tải đến quần đảo Ogasawara trong tháng 6 và một chuyến khác đến Okinawa trong tháng 7. Trong một đợt tái trang bị khác tại Yokosuka vào ngày 2 tháng 7 năm 1944, Nagara được bổ sung mười khẩu pháo phòng không 25 mm Kiểu 96 nòng đơn, nâng tổng số súng 25 mm lên 32 nòng (2X3, 6x2, 14x1), và một radar dò tìm mặt đất Kiểu 22.

Ngày 7 tháng 8 năm 1944, trên đường từ Kagoshima đến Sasebo, Nagasaki, Nagara bị tàu ngầm Mỹ USS Croaker phát hiện trong chuyến tuần tra chiến đấu đầu tiên của nó. Croaker tiến đến gần ở khoảng cách 1.200 m (1.300 yard) và bắn một loạt bốn quả ngư lôi phía đuôi tàu, đánh trúng Nagara một quả phía sau bên mạn phải. Nagara chìm với đuôi chìm trước ngoài khơi quần đảo Amakusa ở tọa độ . Thuyền trưởng và 348 thành viên thủy thủ đoàn đi theo con tàu, nhưng 235 người khác được cứu vớt.

Nagara được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 10 tháng 10 năm 1944.

Danh sách thuyền trưởng

  • Jiro Kuroda (sĩ quan trang bị trưởng): 25 tháng 4 năm 1921 - 21 tháng 4 năm 1922
  • Jiro Kuroda: 21 tháng 4 năm 1922 - 10 tháng 11 năm 1922
  • Kensuke Fujii: 10 tháng 11 năm 1922 - 1 tháng 11 năm 1923
  • Minokiti Sato: 1 tháng 11 năm 1923 - 1 tháng 11 năm 1924
  • Teikichi Hori: 1 tháng 11 năm 1924 - 24 tháng 10 năm 1925
  • Junzo Yoshitake: 24 tháng 10 năm 1925 - 1 tháng 12 năm 1927
  • Jiro Ban: 1 tháng 12 năm 1927 - 21 tháng 12 năm 1927
  • Tatsuo Sagara: 21 tháng 12 năm 1927 - 10 tháng 12 năm 1928
  • Ichiro Sato: 10 tháng 12 năm 1928 - 1 tháng 5 năm 1929
  • Seizaburo Mitsui: 1 tháng 5 năm 1929 - 30 tháng 11 năm 1929
  • Sonosuke Kobayashi: 30 tháng 11 năm 1929 - 1 tháng 12 năm 1930
  • Kanae Waki: 1 tháng 12 năm 1930 - 1 tháng 12 năm 1931
  • Kazuo Taniike: 1 tháng 12 năm 1931 - 1 tháng 12 năm 1932
  • Takushiro Watanabe: 1 tháng 12 năm 1932 - 15 tháng 11 năm 1933
  • Takeo Takagi: 15 tháng 11 năm 1933 - 15 tháng 11 năm 1934
  • Jiro Matsunaga: 15 tháng 11 năm 1934 - 15 tháng 11 năm 1935
  • Sadamichi Kajioka: 15 tháng 11 năm 1935 - 1 tháng 12 năm 1936
  • Mitsuharu Matsuyama: 1 tháng 12 năm 1936 - 20 tháng 2 năm 1937
  • Hachiro Nakao: 20 tháng 2 năm 1937 - 10 tháng 11 năm 1937
  • Torao Sawada: 10 tháng 11 năm 1937 - 15 tháng 7 năm 1938
  • Shinichi Ichise: 15 tháng 7 năm 1938 - 15 tháng 12 năm 1938
  • Heitaro Edo: 15 tháng 12 năm 1938 - 1 tháng 7 năm 1939
  • Hideo Yano: 1 tháng 7 năm 1939 - 1 tháng 11 năm 1940
  • Akira Soji: 1 tháng 11 năm 1940 - 10 tháng 9 năm 1941
  • Toshio Naoi: 10 tháng 9 năm 1941 - 10 tháng 7 năm 1942
  • Yoshioki Tawara: 10 tháng 7 năm 1942 - 20 tháng 11 năm 1942
  • Katsukiyo Shinoda: 20 tháng 11 năm 1942 - 16 tháng 8 năm 1943
  • Masayuki Kitamura: 16 tháng 8 năm 1943 - 7 tháng 4 năm 1944
  • Shinichi Kondo: 7 tháng 4 năm 1944 - 8 tháng 5 năm 1944
  • Giichiro Nakahara: 8 tháng 5 năm 1944 - 7 tháng 8 năm 1944 (tử trận; truy phong vượt cấp lên Phó Đô đốc)
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**_Isuzu_** (tiếng Nhật: 五十鈴) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Isuzu gần đền Ise thuộc khu vực
**_Natori_** (tiếng Nhật: 名取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật Bản.
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**_Abukuma_** (tiếng Nhật: 阿武隈) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Abukuma tại khu vực Tōhoku của Nhật
**_Yura_** (tiếng Nhật: 由良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Yura gần Kyoto của Nhật Bản. Nó
**_Naka_** (tiếng Nhật: 那珂) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Naka tại tỉnh Tochigi và Ibaraki ở
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**_Tama_** (tiếng Nhật: 多摩) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**_Jintsū_** (tiếng Nhật: 神通) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Jinzu tại tỉnh Gifu và Toyama ở
**_Kashima_** (tiếng Nhật: 鹿島) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai được hoàn tất trong lớp _Katori_ gồm ba chiếc. Tên của nó được
**_Nachi_** (tiếng Nhật: 那智) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, một trong số bốn chiếc thuộc lớp _Myōkō_; những chiếc khác trong lớp này là _Myōkō_, _Ashigara_
**Lớp tàu tuần dương _Nagara**_ (tiếng Nhật: 長良型軽巡洋艦, Nagaragata Keijunyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng tham gia nhiều hoạt động
**Lớp tàu tuần dương _Agano**_ (tiếng Nhật: 阿賀野型軽巡洋艦, Agano-gata keijunyōkan) là những tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng tham gia nhiều hoạt động trong Chiến tranh Thế giới
**Lớp tàu tuần dương _Kuma**_ (tiếng Nhật: 球磨型軽巡洋艦; Kuma-gata keijunyōkan) bao gồm năm tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Kuma_ được tiếp nối bởi lớp _Nagara_ rất tương
**Lớp tàu tuần dương _Sendai**_ (tiếng Nhật: 川内型軽巡洋艦, Sendai-gata keijunyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm ba chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng tham gia hoạt động trong
**_Ayanami_** (tiếng Nhật: 綾波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
nhỏ|phải|Một tấm ảnh khác về tàu khu trục _Uranami_ **_Uranami_** (tiếng Nhật: 浦波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
**_Hatsuyuki_** (tiếng Nhật: 初雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
nhỏ|phải|Các tàu khu trục [[Shigure (tàu khu trục Nhật)|_Shigure_ và _Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_Amagiri_** (tiếng Nhật: 天霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
[[Hirohito|Thiên hoàng Shōwa và ngựa trắng (_Shirayuki_)]] **_Shirayuki_** (tiếng Nhật: 白雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được
nhỏ|phải|Các tàu khu trục _Shigure_ và [[Samidare (tàu khu trục Nhật)|_Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_Hatsuharu_** (tiếng Nhật: 初春) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo
**_Uzuki_** (tiếng Nhật: 卯月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Mutsuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ
**_Mochizuki_** (tiếng Nhật: 望月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Mutsuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ
**USS _San Francisco_ (CA-38)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố San Francisco thuộc
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_Hatsuzuki_** (tiếng Nhật: 初月 - _Sơ Nguyệt)_ là một khu trục hạm lớp _Akizuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Là con tàu thứ tư của lớp _Akizuki_, _Hatsuzuki_ đã tham chiến tích cực
**SMS _Goeben**_ là chiếc thứ hai thuộc lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được hạ thủy vào năm 1911 và được đặt tên theo August Karl von Goeben, vị
**USS _Walke_ (DD-416)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**USS _Preston_ (DD–379)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải quân Hoa Kỳ được
thumb|Quân xưởng Hải quân Sasebo (1920-1930) là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính thuộc quyền sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử phải|Quân
**Cuộc hành quân xâm lược vùng vịnh Lamon của Nhật Bản** (Tiếng Philippines: Paglusob ng mga Hapones sa Look ng Lamon) là nhiệm vụ thứ hai trong cuộc hành quân xâm lược vùng vịnh Lingayen
**Trận hải chiến Guadalcanal** hay theo như cách gọi của Nhật Bản là **Dai Sanji Solomon Kaisen** (第三次ソロモン海戦, だいさんじソロモンかいせん; _Hải chiến Solomon lần thứ ba_), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
**USS _South Dakota_ (BB-57)** là một thiết giáp hạm được Hải quân Hoa Kỳ đưa ra hoạt động từ năm 1942 đến năm 1947. Là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, _South Dakota_ là
**USS _Trigger_ (SS-237)** là một tàu ngầm lớp _Gato_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa
**USS _Gwin_ (DD-433)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động tại khu vực Đại Tây Dương trước
**USS _Aaron Ward_ (DD-483)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia trong Thế Chiến II tại Mặt
Núi Phú Sĩ (_Fujisan_ 富士山) Nhật Bản là một đảo quốc bao gồm một quần đảo địa tầng trải dọc tây Thái Bình Dương ở Đông Bắc Á, với các đảo chính bao gồm Honshu,
là một tuyến đường sắt chính của Nhật Bản thuộc mạng lưới của Tập đoàn Đường sắt Nhật Bản (JR Group), nối các ga và . Nó dài , không kể nhiều tuyến trung chuyển
25 tháng 1 1892 - 8 tháng 7 1944 là một trong số các đại tướng của hải quân đế quốc Nhật Bản trong thế chiến thứ hai. Ông đã chỉ huy hạm đội Nhật
(1891–1945) là một Phó đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai. Ông là người chỉ huy các lực lượng hải quân Nhật phòng thủ bán đảo Oroku trong Trận
**Trận Kendari** diễn ra vào ngày 24 tháng 1 năm 1942 như là một phần của cuộc tấn công của người Nhật tại Đông Ấn Hà Lan. Sân bay Kendari II tại Kendari trở thành
**AKB48** (, ) là một nhóm nhạc thần tượng nữ Nhật Bản do Akimoto Yasushi sáng lập năm 2005, được mô tả như là một hiện tượng xã hội. AKB48 hiện đang nắm giữ kỷ